Xã hội học có nguồn gốc từ lâu đời nhưng nó chỉ thành môn khoa học độc lập
vào những năm 30 của thế kỷ 19.Vào thời điiểm đó cùng với sự phát triển nhanh
chóng của khoa học tự nhiên cũng như sự phát triển mạnh mẽ của kỹ thuật công
nghiệp và sự biến đổi về mọi mặt của đời sống xã hội do chủ nghĩa tư bản tạo ra
,các tri thức của khoa học xã hội cũng bắt đầu phát triển ,đặc biệt là sử học và luật
học.Song nghiên cứu về xã hội với tư cách là chỉnh thể cho đến lúc đó vẫn thuộc
về dịa bàn riêng của triết học mà môn triết học-xã hội trong thời kỳ đó bị tách khỏi
đời sống thực tế ,chứa đầy những tập tục trừu tượng, không đáp ứng được nhu cầu
thực tế, chính vì vậy xã hội hội ra đời tách khỏi triết học, trở thành môn khoa học
nghiên cứu về xã hội nói chung, khắc phục tính chất trừu tượng xa rời thực tế của
xã hội lúc đó nhằm đáp ứng nhu cầu của đời sống xã hội thực tế. Như vậy xã hội
học trước hết là môn khoa học nghiên cứu về xã hội
25 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 2861 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Quá trình hình thành, cơ cấu và chức năng của xã hội học, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN:
quá trình hình thành, cơ cấu và
chức năng của xã hội học
Phần một
khái niệm xã hội học và các vấn đề liên quan
************************************************************
khái niệm về xã hội học
Xã hội học có nguồn gốc từ lâu đời nhưng nó chỉ thành môn khoa học độc lập
vào những năm 30 của thế kỷ 19.Vào thời điiểm đó cùng với sự phát triển nhanh
chóng của khoa học tự nhiên cũng như sự phát triển mạnh mẽ của kỹ thuật công
nghiệp và sự biến đổi về mọi mặt của đời sống xã hội do chủ nghĩa tư bản tạo ra
,các tri thức của khoa học xã hội cũng bắt đầu phát triển ,đặc biệt là sử học và luật
học.Song nghiên cứu về xã hội với tư cách là chỉnh thể cho đến lúc đó vẫn thuộc
về dịa bàn riêng của triết học mà môn triết học-xã hội trong thời kỳ đó bị tách khỏi
đời sống thực tế ,chứa đầy những tập tục trừu tượng, không đáp ứng được nhu cầu
thực tế, chính vì vậy xã hội hội ra đời tách khỏi triết học, trở thành môn khoa học
nghiên cứu về xã hội nói chung, khắc phục tính chất trừu tượng xa rời thực tế của
xã hội lúc đó nhằm đáp ứng nhu cầu của đời sống xã hội thực tế. Như vậy xã hội
học trước hết là môn khoa học nghiên cứu về xã hội.
Khái niệm xã hội học
Xã hội có nhiều cấp độ khác nhau tuỳ thuộc vào phạm vi xem xét mà khái niệm
xã hội học có thể được hiểu là một vùng, một địa phương một quốc gia và cả loài
người.
Có thể định nghĩa xã hội học như là một cộng đồng người có quan hệ gắn bó
mật thiết nhau trong sản xuất, trong đòi sống và cùng sống trong một phạm vi điều
kiện nhất định.
Xã hội là một cộng đồng người, do những con người có ý chí cấu thành .Xã hội
và quy luật xã hội chỉ có thể xuất hiện, phát triển trực tiếp của hoạt động có ý chí
theo đuổi những mục đích nhất định .chính vì vậy nghiên cứu xã hội không thể
tách rời nghiên cứu hoật động của cộng đồng người và mối quan hệ muôn vẻ giữa
cá nhân trong cộng đồng ấy trong những điều kiện lịch sử cụ thể nhất định.
Với tư cách là một chỉnh thể toàn vẹn, xã hội là một hêh thống. Hệ thống xã hội
bao gồm những yếu tố mối liên hệ giũa các yếu tố và sự biến đổi của các yếu tố
theo sự tác động của các yếu tố khách quan và chủ quan .Nghiên cứu xã hội với tư
cách là một chỉnh thể với tư cách là một hệ thống cũng có nghĩa là phải nghiên cứu
những yếu tố, mối liên hệ giữa các yếu tố để xác định những quy luật vận động
phát triển của chúng. Song mỗi yếu tố lại là một tiểu hệ thống có các yếu tố nhỏ và
sự tác động của các yếu tố cũng như quy luật hình thành phát triển của các yếu tố
nhỏv.v...Chẳng hạn xã hội loài người gồm nhiều quốc gia, mỗi quốc gia gồm nhiều
địa phương...nền sản xuất xã hội có nhiều ngành, các ngành lại chuyên môn hoá
hẹp hơnv.v...Rõ ràng nghiên cứu hệ thống xã hội không chỉ cần xem xét những quy
luật chung nhất mà còn cần đi tới nhũng quy luật đặc thù, kém chung hơn.Và việc
nghiên cứu càng cụ thể bao nhiêu, các khoa học nghiên cứu về xã hội lại càng đáp
ứng nhiều cho thực tế bấy nhiêu. Đó chính là lý do xã hội học tách khỏi triết học để
trở thành một môn khoa học độc lập. Đồng thời xã hội học cũng có những vị trí
riêng, không đồng nhất với các khoa học xã hội học khác;vị trí này được quy định
bởi tính đặc thù của đối tượng và phương pháp nghiên cứu xã hội học.
Chương II- quá trình hình thành ,cơ câu và chức năng của xã hội học
1.Lịch sử phát triển của xã hội học:
Vào thế kỷ thứ 18, đầu thế kỷ thứ 19, những tri thữc xã hội học đã phát triển tới
mức có thể tách khỏi triết học và hình thành một khoa học riêng biệt với một hệ
thống khái niệm phạm trù, lý luận đối tượng nhiệm vụ chức năng và phương pháp
riêng.
Những tiền đề cho sự ra đời của xã hội học trong thời kỳ này gán liền với những
điều kiện kinh tế -xã hội và sự phát triển của các môn khoa học tự nhiên và khoa
học xã hội.
a-Tiền đề về kinh tế xã hội:
Xã hội học với tư cách là một môn khoa học độc lập xuất hiện vào thế kỷ 19 do
quá trình hình thành phát triển khách quan của chủ nghĩa tư bản ,do sự phát triển
mạnh mẽ của nền sản xuất cơ khí, do sự thay sự thay đổi tính chất và nội dung của
lao động và do sự xuất hiện những hiện tượng mới trong đời sống kinh tế xã hội.
Những biến đổi đó là cơ sở xuất hiện và phát triển của tri thức mới đặc biệt là tri
thức về khoa học xã hội đồng thời những biến đổi đó là cơ sở cho sự phát triển
phương pháp nghiên cứu xã hội đặc thù khác với phương pháp nghiên cứu của triết
học-xã hôị. Chính vì vậy mà xã hội học ra đời và tách khỏi triết học. Xã hội học
xuất hiện còn là do sự biến đổi của tình hình giai cấp trong xã hội ở thời kỳ này
xuất hiên sự cần thiết phải nghiên cứu xã hội cụ thể hơn về gia đình. Hoàn cảnh
của công nhân và nông dân đời sống xã hội của giai cấp. đời sống thành thị
v.v...Việc nghiên cứu các vấn đề xã hội cụ thể, thực tế đó cũng là cơ sở để xã hội
học ra đời, tách khỏi triết học về xã hội học.
b.Những biến đổi về chính trị xã hội và tư tưởng:
Biến đổi chính trị, xã hội, quan trọng nhất góp phần làm thay đổi căn bản thể
chế chính trị, trật tự xã hội và các thiết chế xã hội ở châu Âu thế kỷ XVIII là cuộc
đậi cách mạng Pháp năm 1789. Cuộc cách mạng này đã không chỉ mở đầu cho sự
tan rã chế độ phong kiến, nhà nước quân chủ mà còn thay thế trật tự cũ đó bằng
một trật tự xã hội mới là nhà nước tư sản.
Mâu thuẫn sâu sắc về lợi ích giũa các tầng lớp xã hội và nhất là giữa các giai cấp
công nhân vô sản và giai cấp tư sản đã lên đến đỉnh điển làm bùng nổ cuộc cách
mạng vô sản đầu tiên trên thế giới vào cuối thế kỷ XIX- Công xã Pais năm
1917.Cuộc cách mạng này đã thổi bùng lên ngọn lửa nhiệt tình cách mạng và lý
tưởng xã hội chủ nghĩa trong các tầng lớp tiến bỗ xã hội. Những biến đổi chính trị
xã hội và đặc biệt là cuộc cách mạng Pháp đã để lại dấu ấn không phai mờ trong
lịch sử phát triển xã hội học.Trước hết đó là sự kiện xã hội học ra đời lần đầu tiên ở
Pháp mà không phải ở Anh, Đức hay Mỹ .Thứ hai ,các công trình của các nhà xã
hội học ở Pháp như Auguste Comte, Emile Durkeim, nhà xã hội học ngưòi Anh
Herbert Spencer, nhà xã hội học người Đức George Simmel ,và đặc biệt nhà lý
luận cách mạng và tư tưởng xã hội Karl Marx... đều chịu ảnh hưởng của học thuyết
xã hội chủ nghĩa ở Pháp. Những biến động chính trị, xã hội ở Pháp đã đặt ra câu
hỏi lý luận cơ bãn xã hội ở Pháp. Đó là làm thế nào phát hiện và sử dụng các quy
luật tổ chức xã hội để góp phần tạo ra trật tự và tiến bộ xã hội.
c-Biến đổi về mặt lý luận và phương pháp nghiên cứu:
Tiền đề về lý luận và phương pháp luận làm nảy sinh xã hội học bắt nguồn từ
những tư tưởng kho học và văn hoá thời đại phục Hưng thế kỷ thứ XVIII.
Các nhà tư tưởng ở Anh thường cổ vũ và bênh vực cho quyền con người nhằm
biện minh cho chủ nghĩa tư bản công nghiệp lần đầu tiên xuất hiện ở nước này .Ví
dụ: Adam Smith cho rằng: các cá nhân phải được tự do thoát khỏi những rằng buộc
và hạn chế bên ngoài dể tự do cạnh tranh. Có như vậy các cá nhân mới tạo ra được
xã hội tốt đẹp hơn. Các nhà triết học Pháp cho rằng con người và xã hội chủ yếu bị
chi phối bởi điều kiện và hoàn cảnh của họ, rằng con người có những “quyền tự
nhiên “ nhất định mà các thiết chế xã hội đang vi phạm.Vì vậy, cần xoá bỏ, thay
thế trật tự xã hội cũ bằng một trật tự xã hội mới tốt đẹp hơn với bản chất và nhu
cầu của con người. Sự biến đổi như vậy cần phải diễn ra một cách hợp pháp, tiến
bộ và bằng con đường khai sáng.Các tư tưởng nhân đạo, tiến bộ đó đã được phản
ánh khá rõ trong cuộc cách mạng Pháp năm 1789.
Sự phát triển mạnh mẽ của khoa học và đặc biệt là phương pháp nghiên cứu
khoa học cũng là nhân tố quan trọng cho sự ra đời của xã hội học .Các hiện tượng,
quá trình xã hội và hành động của con người đã trở thành đối tưọng nghiên cứu
khoa học.Các khoa học tự nhiên như vật lý, hoá học,sinh học... đã phá hiện ra các
quy luật tự nhiên để giải thích thế giới. Các nhà tư tưởng xã hội, các nhà xã hội học
tìm thấy ở khoa học tự nhiên một hình tưọng quan niệm và cách xây dựng lý thuyết
cách nghiên cứu các quá trình, hiện tượng xã hội một cách khoa học.
2- Cơ cấu và chức năng của xã hội học.
A- Cơ cấu xã hội học
Có thể hình dung xã hội hoc như một toà kiến trúc nhiều tầng, trong đó tầng trên
cùng là xã hội học đại cương, tiếp đó là tầng lý luận xã hội học chuyên biệt và tầng
dưới cùng là công trình nghiên cứu xã hội học cụ thể.
a-xã hội học đại cương và xã hội học chuyên biệt.
việc phân chia xã hội học đại cương và xã hội học chuyên biệt là căn cứ vào
phạm vi của vấn đề nghiên cứu hay mức độ chung của vấn đề được nghiên cứu.
Xã hội học đại cương
Xã hội học đại cương là cấp độ cơ bản của hệ thống lý thuyết xã hội học. Xã hội
học đại cương là khoa học về những quy luật chung nhất của xã hội,về sự hoạt
động và phát triển của xã hội, về sự tương tác tự nhiên vốn có của các yếu tố hợp
thành xã hội.Trên ý nghĩa ấy, xã hội học đại cương liên quan mật thiết đến chủ
nghĩa duy vật lịch sử. Chỗ khác nhau giữa chủ nghĩa duy vật lịch sử và xã hội học
là sự khác nhau về đối tượng phương diện và phương pháp nghiên cứu của hai môn
khoa học xã hội đó.
Xã hội học chuyên biệt.
Xã hội học chuyên biệt phản ánh mối liên hệ khách quan giữa các mặt khác
nhau của đời sống xã hội.Các lý luận Xã hội học chuyên biệt đóng vai trò là khâu
trung gian gắn lý luận xã hội học đại cương với việc nghiên cứu các hiện tượng của
đời sống xã hội.
Ngày nay, xã hội học chuyên biệt được phân thành nhiều bộ môn như:xã hội học
lao động ,lối sồng, dư luận phân tầng xã hội, xung đột xã hôị, xã hội học về nhận
thức, tôn giáo luật pháp, hình xã hội học nông thôn, dô thịv.v.. ở một số nước, các
ngành xã hội học chuyên biệt được phân chia thành 200 loại khác nhau.
b-Xã hội học trừu tượng -ý thuyết và xã hội học cụ thể thực nghiệm
Việc phân chia xã hội học trừu tượng-lý thuyết và Xã hội học cụ thể thực
nghiệm là căn cứ vào mức dộ trừu tượng của vấn đề nghiên cứu.Việc phân chia
này có liên quan mật thiét với việc phân chia thành xã hôị học chuyên biệt và Xã
hội học đại cương. Xã hội học đại cương nghiên cứu những quy luật chung nhất,
do đó liên quan chặt chẽ tới xã hội học trừu tượng - lý thuyết; còn xã hội học
chuyên biệt nghiên cứu những vấn đề cụ thể hơn nên gán liền với xã hội học cụ thể
- thực nghiêm. Tuy nhiên không thể đồng nhất Xã hội học đại cương với Xã hội
học trừu tưọng lý thuyết bởi vì xã hội học đại cương cũng có cơ sở thực nghiệm;
Cũng không thể đồng nhất Xã hội học chuyên biệt với xã hội học cụ thể bởi vì xã
hội học chuyên biệt cũng có phần lý thuyết, là xã hội học lý thuyết.
Cấp độ xã hội học lý thuyết là sự tái hiện lại trong quá trình tư duy khách thể xã
hội, mô tả trạng thái của nó, thâm nhập vào các quy luật vận động phát triển của
nó, hiẻu được và dự báo được xu hướng tất yếu phát triển của nó.
Cấp độ xã hội học thực nghiệm bao gồm việc thu thập thông tin xã hội thông
qua quan sát, thử nghiệm và việc sử lý các thông tin xã hội đó. Mô tả các sự kiện
thực nghiệm là công việc của xã hội học thực nghiệm
Mối quan hệ giữa cấp độ lý thuyết và cấp độ thực nghiệm thể hiện ở chỗ: nhận
thức lý thuyết được xây dựng trên cơ sở nhận thức thực nghiệm, là cái có trước, là
cơ sở để khái quát hoá: Song nhận thức lý thuyết không phải là sự tiếp diễn đơn
giản nhận thức thực nghiệm mà là bước phát triển cao hơn trong việc tìm ra các
quy luật vận động và biến đổi của khách thể nghiên cứu.
Danh giới giữa các cấp độ lý thuyết và cấp độ thực nghiệm chỉ có tính chất
tưong đối. Xã hội học, với tất cả các bộ phận của nó, đều là khoa học vừa có tính
chất lý thuyết, vừa có tính chất thực nghiệm.
B- chức năng của xã hội học
a- Chức năng nhận thức.
Lý luận xã hội học vũ trang cho các nhà nghiên cứu và lãnh đạo những tri thức
khoa học và phát triển của xã hội và những quy luật của sự phát triển đó. Nó còn
chỉ ra nguồn gốcvà cơ chế của quá trình phát triển xã hội, chức năng nhận thức của
xã hội học biểu hiện ở chỗ:
+ Một là, Xã hội học tạo ra những tiền đề để nhận thức những triển vọng phát
triển cao hơn của xã hội nói chung, kể cả của các mặt các lĩnh vực riêng của nó.
+ Hai là, xã hội học xác định những nhu cầu phát triển của xã hội, của các giai
cấp, các nhóm xã hội, xác định những hình thức cụ thể cho phép đạt được trùng
hợp đến mức tối đa các lợi ích của cá nhân, của nhóm đối với lợi ích, xã hội.
+ Ba là, xã hội học giúp phân tích những lý luận hoạt động nhận thức về xã hội
xây dựng lý luận và phương pháp nhận thức xã hội.
b-Chức năng tư tưởng.
Xã hội học giúp giáo dục tư tưởng cho quần chúng. Nó vũ trang cho mọi người
trí thức về các quy luật khach quan của sự phát triển xã hội,vạch ra con đường xây
dựng xã hội mới. Cho nên, xã hội học làm cho con người ý thức được về sức mạnh
và vị trí của mình một cách đầy đủ hơn, góp phần nâng cao tích cực xã hội của mỗi
cá nhân.Chức năng tư tưởng của Xã hội học thể hiện ở chỗ:
+ Một là,Củng cố và tăng cường niềm tin vào tính khoa học xã hội của triết học
về xã hội bằng các công trình nghiên cứu cụ thể của xã hội học chuyên biệt và xã
hội học thực nghiệm.Tin vào khoa học xã hội cũng có nghĩa là tin vào tiến bộ xã
hội, vào tương lai sáng của nhân loại.
+ Hai là: Phát huy tính năng động chủ quan nhờ các công trình nghiên cứu về
tính cơ động xã hội, sự biến cách xã hội về nhân cách con người nói chung, về
những vấn đề có liên quan có liên quan đến chủ thể xã hội do xã hội học đặt vấn đề
hoặc trực tiếp nghiên cứu và giải quyết.
+ Ba là, góp phần điều chỉnh hành vi và nhân cách cá nhân thông qua các công
trình nghiên cứu về đạo dức, lối sống định hướng giá trị, văn hoá nghệ thuật,
khuyết tật xã hội...do xã hội học quan tâm và nghiên cứu.
c-Chức năng dự báo và quản lý.
Đây là chức năng hết sức quan trọng của xã hội học. Dựa trên cơ sở phân tích và
tổng hợp các kết quả nghiên cứu hiện trạng của những quá trình riêng lẻ những
hiện tưọng của các mặt xã hội, xã hội học làm sáng triển vọng vận động của xã hội
học trong tương lai sắp tới cũng như tương lai xa hơn.
Nhờ những dự báo của xã hội học mà các chủ thể quản lý có thể đưa ra và thực
hiện kế hoạch hoá, kế hoạch hoá chẳng những là tương lai của tính chất lượng của
hoạt động có ý thức của con người mà còn là công cụ quan trọng của tất cả các chủ
thể xã hội trong lĩnh vực tổ chức quản lý xã hội.
Như vậy xã hội học có mối quan hệ trực tiếp đến hoạt động quản lý. Nhờ những
kết quả khoa học của việc nghiên cứu đã được chứng thực và đồng thời nhờ cả sự
khác nhau về quan diểm và phương pháp đánh gía về những đặc tính khác nhau
của đối tượng, xã hội học tạo ra các căn cứ xuất phát cho việc đề ra và quyết định
tối uư các phương án quản lý.
d-Chức năng phương pháp luận
Nội dung và phương pháp nghiên cứu của xã hội học cung cấp phương pháp
luận để tiếp cận và phân tích tính hiện thực xã hôị.Chính hệ thống phương pháp
đặc thù của xã hội học được coi là công cụ chung cho nhiều ngành khoa học trong
lĩnh vực hoạt động riêng của mình.Chức năng phương pháp luận của xã hội học
được biểu hiện cụ thể ở chỗ:
+ Một là,Từ những tri thức về quy luật chung và đặc thù về xã hội của xã hội
học mà các chủ thể xã hội rút ra phương pháp nhận thức và cải tạo các đối tượng
xã hội.
+ Hai là,Từ những quan điểm, phương pháp đánh giá các đặc tính khác nhau của
đối tượng xã hội mà các chủ thể xã hội rút ra các phương pháp khác nhau để tiép
cận cùng một vấn đề
+ Ba là,từ các phương pháp, bước đi cụ thể của xã hội học thực nghiệm mà các
chủ thể tìm thâý phương pháp cụ thể để nhận thức và hành động trong thực tế.
Với những chức năng trên Xã hội học có vai trò và ý nghĩa vô cùng quan trọng
trong đời sống xã hội học. Chính vì vậy, mặc dầu xã hội học mới bắt đầu được tìm
hiểu, đặc biệt là ở nước ta, nó đã được quan tâm nghiên cứu cả về chiều rộng lẫn
chiều sâu.Cùng với sự bùng nổ thông tin, cùng với vai trò ngày càng tăng của khoa
học xã hội, nhất là các tri thức thực chứng về xã hội, cùng với xu hướng quốc tế
hoá hoạt động của xã hội, cùng với chủ trương mở cửa và hội nhập với thế giới của
nước ta, xã hội học sẽ được nghiên cứu ngày một sâu thêm để trên cơ sở đó ngày
càng đóng vai trò quan trọng hơn đối với sự tiến bộ của toàn thể xã hội loài người.
Phần hai
Nội dung dư luận xã hội
Chương I-Khái niệm dư luận xã hội
1- Khái niệm dư luận xã hội
Có thể còn nhiều ý kiến khác nhau về một định nghĩa, đầy đủ chính xác hoạt
động về dư luận xã hội. Nhưng đông đảo các nhà khoa học đều đồng ý rằng dư
luận xã hội là một hiện tượng xã hội đặc biệt biểu thị thái độ phán xét đánh giá của
quần chúng đối với vấn đề mà họ quan tâm. Dư luận xã hội đã xuất hiện và tồn tại
lâu đời trong lịch sử, nó phát triển trưởng thành cùng với bản thân xã hội loài
người.
Đối tượng dư luận xã hội không phải là mọi thực tế xã hội nói chung, mà nó chỉ
là cộng đồng người quan tâm tới vì nó liên quan đến nhu cầu tinh thần vật chất của
họ. Như vậy dư luận xã hội chỉ nảy sinh khi có vấn đề có ý nghĩa xã hội đụng
chạm đến lợi ích của cộng đồng, có tầm quan trọng và tính cấp bách đòi hỏi sự
phán xét, đánh giá phương hướng giải quyết đó có thể là một vấn đề chính trị xã
hội văn hoá hay đạo đức.
Tính đặc thù của dư luận xã hội gắn liền với chủ thể của nó; liệu có thể coi số
người của một nhóm mọi tập hợp ngưòi là dư luận xã hôị được không?Tất nhiên
một nhóm nhỏ có thể tham gia hình thành dư luận về một vấn đề xã hội chung, có
giá trị nào đó trong trường hợp này, có thể coi nó là một trong những nhóm tạo ra
chủ thể của dư luận, vì nó thâm nhập vào một cộng đồng người nào đó.Trong xã
hội nó tồn tại dư luận xã hội ở nhiều dạng cộng đồng lớn nhỏ.
dư luận xã hội không phải là một trạng thái tinh thần thuần túy mà là một trạng
thái tinh thần thực tế. Nhà nghiên cứu người Bungari B.Vinhép viết:”Dư luận xã
hội xuất hiện hình thành và hoạt động như một tranh luận đánh giá thể hiện quan
hệ của các nhóm xã hội với hành vi và hoạt động của từng người riêng biệt.Yếu tố
nhất định của bất cứ một cuộc tranh luận tập thể nào về các hiện tượng có thể coi là
dư luận xã hội đều phải có sự đánh giá âm tính hay dương tính về hiện trạng”.
Tính đặc thù của dư luận xã hội chỉ ra mức xem xét, sự thể hiện của dư luận xã
hội.Dư luận xã hội phải được thể hiện đầy đủ ở mức độ lời nói và ở mức độ hành
vi. Khi dư luận xã hội hình thành, cộng đồng xã hội đi từ đánh giá cung với lập
trường hành động, kiến nghị chung nên cấp trên và tuỳ theo điều kiện mà chuyển
hoá từ lời nói đến hành động.Thái độ, tinh thần như vậy thể hiện như là thái độ tinh
thần thực tiến, thúc đẩy hành dộng thực tiễn.Quá trình này thể hiện rõ ràng trong
các cuộc trưng cầu ý kiến nhân dân về các chủ trương, chính sách và các dự luật
trong quá trình phát triển cách mạng của nhân dân.Chính vì vậy dư luận xã hội
được xem như là một hoạt động tâm lý xã hội, là cầu nối giữa ý thức xã hội và
hành động xã hội. Sự phản ánh thực tế trong dư luận xã hội trước hết có tính chất
đánh giá các hiện tượng xã hội để xác định hành vi ứng xử của con người.Nghiên
cứu vấn đề dư luận xã hội phải xem xét ở nhiều khía cạnh đó là khía cạnh về chủ
thể và khách thể của dư luận xã hội.
+Chủ thể của dư luận xã hội là các nhóm xã hội mà lợi ích của họ có mội quan
hệ nhất định đối với các vấn đề diễn ra trong xã hội và được nhiều người đưa ra
trao đổi, thảo luận.
+Khách thể của dư luận xã hội là những sự kiện khác nhau của đời sống xã hội.
Để xác định được khách thể của dư luận xã hội có thể dựa vào hai dấu hiệu cơ bản
sau:
Lợi ích chung được xem là tiêu chuẩn hàng đầu để xác định khách thể của dư
luận xã hội, bởi vì lợi ích chung là cơ sở xuất hiện các tranh luận tập thể,tuy nhiên,
trong mối quan hệ với ý thức, lợi ích cá thể cùng tồn tại ở ngoài dư luận xã hội.
Bản thân dư luận xã hội chỉ tồn tại trên cơ sở lợi ích chung.
Những tranh luận gắn liền với lợi ích xã hội được mọi người quan tâm là điều
kiện cơ bản thứ hai để xác định khách thể của dư luận xã hội.
Cơ sở hình thà