Luận văn Quan hệ CHXHCN Việt Nam - Cộng hòa Ấn Độ trong thập niên đầu thế kỷ XXI

Mối quan hệ Việt Nam - Ấn Độ đã hình thành và phát triển từ những năm đầu Công Nguyên, văn hóa Ấn Độ có sức lan tỏa rất lớn, đặc biệt ở khu vực Đông Nam Á. Theo tài liệu nghiên cứu cho biết, cách đây hàng nghìn năm Việt Nam và Ấn Độ đã có sự giao lưu về văn hóa, kinh tế. Do sự giao lưu một cách hòa bình và trên cơ sở văn hóa hai nước có những nét tương đồng gần gũi, nên văn hóa Ấn Độ đến Việt Nam đã hòa và thấm vào tâm hồn văn hóa người Việt. Bước vào thời cận đại, cũng như nhiều nước phương Đông khác, Việt Nam và Ấn Độ đều rơi vào ách thống trị của chủ nghĩa thực dân phương Tây. Nhưng nhân dân hai nước không cam chịu cảnh nô lệ đã anh dũng cùng đứng dậy đấu tranh giải phóng và giành độc lập dân tộc. Do cùng cảnh ngộ, nhân dân hai nước dễ dàng thông cảm và ủng hộ, giúp đỡ trong cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc, trong xây dựng và bảo vệ đất nước sau này. Sau chiến tranh thế giới thứ hai, Việt Nam và Ấn Độ đều giành độc lập trước sau không lâu. Nhân dân hai nước vui mừng trong những ngày đầu độc lập. Thế nhưng trở ngại mới xuất hiện với cả hai nước. Nhân dân Việt Nam phải đương đầu với hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, Ấn Độ gặp khó khăn trong việc xây dựng đất nước vì hậu quả nặng nề mà chủ nghĩa thục dân để lại và sự chống phá của các thế lực phản động trong và ngoài nước. Thế nhưng với chính sách ngoại giao hòa bình, hữu nghị Chính phủ và nhân dân Ấn Độ đã không ngừng ủng hộ sự nghiệp chính nghĩa của nhân dân Việt Nam. Đặc biệt năm 1975 miền nam Việt Nam hoàn toàn giải phóng, đất nước thu về một mối thì quan hệ Việt Nam - Ấn Độ có điều kiện thuân lợi để phát triển trên tất cả các lĩnh vực: chính trị, kinh tế, văn hóa, khoa học và hiện đang đẩy mạnh hơn nữa mối quan hệ kinh tế để tương xứng với mối quan hệ chính trị tốt đẹp mà hai nước vốn có.

doc124 trang | Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 4197 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Quan hệ CHXHCN Việt Nam - Cộng hòa Ấn Độ trong thập niên đầu thế kỷ XXI, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH LÊ THỊ HUYỀN QUAN HÖ CHXHCN VIÖT NAM - CéNG HßA ÊN §é TRONG THËP NI£N §ÇU THÕ Kû XXI CHUYÊN NGÀNH: LỊCH SỬ THẾ GIỚI Mà SỐ: 60.22.50 LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC LỊCH SỬ Người hướng dẫn khoa học: PGS. PHAN VĂN BAN VINH - 2011 LỜI CẢM ƠN Trước hết, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới thầy giáo, cô giáo trong tổ Bộ môn Lịch sử thế giới, Khoa Lịch sử, Khoa sau Đại học - Trường Đại học Vinh. Đặc biệt là PGS. Phan Văn Ban - người đã nhiệt tâm hướng dẫn tôi trong suốt quá trình thực hiện đề tài. Tôi cũng muốn bày tỏ lòng biết ơn đến các cô, các chú ở ViệnNghiên cứu Đông Nam Á, Viện Nghiên cứu châu Âu, Thông tấn xã Việt Nam, Thư Viện Trường Đại học Quốc gia Hà Nội, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Học Viện Quan hệ Quốc tế…đã giúp đỡ tôi trong quá trình thu thập nguồn tài liệu. Nhân dịp này, tôi xin gửi lời cảm ơn tới gia đình, bạn bè và những người thân của tôi luôn ở bên, động viên, giúp đỡ, khuyến khích tôi trong quá trình học tập và nghiên cứu. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện Luận văn sẽ không thể tránh khỏi những thiếu sót, rất mong nhận được sự giúp đỡ từ thầy, cô và bạn bè Xin chân thành cảm ơn! Tác giả luận văn MỤC LỤC Trang 2.3.1. Hợp tác văn hóa 79 2.3.2. Hợp tác giáo dục - đào tạo 84 Tiểu kết chương 2 87 Chương 3. MỘT SỐ NHẬN XÉT VỀ QUAN HỆ VIỆT - ẤN TRONG THẬP NIÊN ĐẦU THẾ KỶ XXI 89 3.1. Thành tựu 89 3.2. Những thuận lợi, khó khăn 91 3.3. Triển vọng 104 C. KẾT LUẬN 106 D. TÀI LIỆU THAM KHẢO 109 PHỤ LỤC NHỮNG TỪ VIẾT TẮT TIẾNG VIỆT CH : Cộng hòa CHDCND : Cộng hòa dân chủ nhân dân CNTT : Công nghệ thông tin CNH - HĐH : Công nghiệp hóa - hiện đại hóa HĐBA LHQ : Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc KHCN : Khoa học công nghệ UBHH : Uỷ ban hỗn hợp XHCN : Xã hội chủ nghĩa TIẾNG ANH APEC : Asia Pacific Economic Cooperation. AFTA : ASEAN Free Trade ARF : ASAN Regional Forum ASEAN : Association of South East Asian Nations ASEM : Asia - Europe Meeting CPI : Communist Party India OPEC : Organization of Petroleum Exporting Countries EU : European Union EDI : Foreign Direct Investment UNESCO : United Nations Educational Scientific and Cultural Organization FTA : Free Trade Agreement GDP : Gross Domestic Products NICS : New Industrialised Countries MOU : Memorandum of Understanding WTO : World Trade Organisation A. MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Mối quan hệ Việt Nam - Ấn Độ đã hình thành và phát triển từ những năm đầu Công Nguyên, văn hóa Ấn Độ có sức lan tỏa rất lớn, đặc biệt ở khu vực Đông Nam Á. Theo tài liệu nghiên cứu cho biết, cách đây hàng nghìn năm Việt Nam và Ấn Độ đã có sự giao lưu về văn hóa, kinh tế. Do sự giao lưu một cách hòa bình và trên cơ sở văn hóa hai nước có những nét tương đồng gần gũi, nên văn hóa Ấn Độ đến Việt Nam đã hòa và thấm vào tâm hồn văn hóa người Việt. Bước vào thời cận đại, cũng như nhiều nước phương Đông khác, Việt Nam và Ấn Độ đều rơi vào ách thống trị của chủ nghĩa thực dân phương Tây. Nhưng nhân dân hai nước không cam chịu cảnh nô lệ đã anh dũng cùng đứng dậy đấu tranh giải phóng và giành độc lập dân tộc. Do cùng cảnh ngộ, nhân dân hai nước dễ dàng thông cảm và ủng hộ, giúp đỡ trong cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc, trong xây dựng và bảo vệ đất nước sau này. Sau chiến tranh thế giới thứ hai, Việt Nam và Ấn Độ đều giành độc lập trước sau không lâu. Nhân dân hai nước vui mừng trong những ngày đầu độc lập. Thế nhưng trở ngại mới xuất hiện với cả hai nước. Nhân dân Việt Nam phải đương đầu với hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, Ấn Độ gặp khó khăn trong việc xây dựng đất nước vì hậu quả nặng nề mà chủ nghĩa thục dân để lại và sự chống phá của các thế lực phản động trong và ngoài nước. Thế nhưng với chính sách ngoại giao hòa bình, hữu nghị Chính phủ và nhân dân Ấn Độ đã không ngừng ủng hộ sự nghiệp chính nghĩa của nhân dân Việt Nam. Đặc biệt năm 1975 miền nam Việt Nam hoàn toàn giải phóng, đất nước thu về một mối thì quan hệ Việt Nam - Ấn Độ có điều kiện thuân lợi để phát triển trên tất cả các lĩnh vực: chính trị, kinh tế, văn hóa, khoa học và hiện đang đẩy mạnh hơn nữa mối quan hệ kinh tế để tương xứng với mối quan hệ chính trị tốt đẹp mà hai nước vốn có. Tuy nhiên, do một số điều kiện lịch sử cụ thể, quan hệ giữa hai nước Việt Nam và Ấn Độ không phải lúc nào cũng phát triển theo chiều hướng thuận lợi mà có những bước thăng trầm ở một số giai đoạn lịch sử. Từ cuối thế kỷ XX, tình hình khu vực và thế giới có nhiều thay đổi Việt Nam - Ấn Độ cũng ít nhiều bị tác động bởi tình hình đó. Các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu và Liên Xô ngày càng lún sâu vào khủng hoảng và kết cục dẫn tới sự sụp đổ. Sau khi chiến tranh lạnh chấm dứt cả Việt Nam và Ấn Độ đều điều chỉnh chính sách phát triển đất nước cho phù hợp. Trong công cuộc đổi mới đất nước, thực hiện đường lối đối ngoại “độc lập, tự chủ, rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ quốc tế Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển” [28, tr 119], Chính phủ nhân dân Việt Nam luôn chủ trương phát triển quan hệ hữu nghị, đoàn kết, tin cậy và nâng cao hiệu quả hợp tác nhiều mặt với Ấn Độ. Về phía Ấn Độ, luôn ủng hộ sự nghiệp đổi mới của Việt Nam, đã cùng Việt Nam tăng cường hơn nữa mối quan hệ hữu nghị và hợp tác về nhiều mặt: chính trị, kinh tế, văn hóa, khoa học - kỹ thuật… đặc biệt là những năm đầu thế kỉ XXI, khi hai nước có những thay đổi, điều chỉnh chính sách phát triển đất nước. Từ những điều đã trình bày ở trên, chúng tôi chọn đề tài: Quan hệ Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam - Cộng hòa Ấn Độ trong thập niên đầu thế kỷ XXI làm luận văn Thạc sĩ của mình. 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề Từ trước đến nay, quan hệ Việt Nam - Ấn Độ đã được nhiều nhà nghiên cứu trong và ngoài nước quan tâm. Sau đây chúng tôi xin điểm qua một số công trình. - Trần Thị Thu Hiền (2004): Mối quan giữa CHXHCN Việt Nam - Ấn Độ từ 1991 đến 2002, (Luận văn thạc sĩ, Đại học Vinh). Luận văn trình bày tương đối đầy đủ mối quan hệ kinh tế, chính trị, ngoại giao, văn hóa - giáo dục, khoa học - kỹ thuật từ năm 1991 đến năm 2001. - Đinh Trung Kiên (1993): Quan hệ Việt Nam - Ấn Độ (Thời kỳ 1945 - 1975), (Luận án Tiến sĩ Lịch sử, Hà Nội). Nội dung luận án trình bày tương đối hệ thống mối quan hệ Việt Nam - Ấn Độ trong 30 năm (1945 - 1975), tập trung chủ yếu trình bày về mối quan hệ chính trị, ngoại giao còn các quan hệ về kinh tế, văn hóa, khoa học - kỹ thuật mới đề cập ở mức độ nhất định. - Nguyễn Công Khanh (1990): Quan hệ chính trị, kinh tế, khoa học kỹ thuật và văn hóa Việt Nam - Ấn Độ (1976 -1988), (Luận án tiến sĩ Lịch sử, Taskent- Tiếng Nga). Luận án trình bày tương đối hệ thống về quan hệ chính trị, văn hóa Việt Nam - Ấn Độ trong thời kỳ từ năm 1976 đến năm 1988. - Vũ Dương Ninh (chủ biên) (1995): Lịch sử Ấn Độ, Nxb, Giáo dục, Hà Nội. Nội dung chủ yếu của công trình này là nghiên cứu về lịch sử Ấn Độ nên quan hệ Việt - Ấn chỉ được trình bày khái quát từ khi hai nước có quan hệ đến những năm 90 của thế kỷ XX. - Cao Xuân Phổ, Trần Thị Lý, (chủ biên) (1997): Ấn Độ xưa và nay, Nxb KHXH, Hà Nội. Nội dung chính là giới thiệu một cách khái quát về đất nước, con người, lịch sử Ấn Độ xưa và nay, Chương II (từ trang 303 - 348) tác giả cũng giới thiệu khái quát về quan hệ Ấn - Việt thời kỳ lịch sử Cổ - Trung đại cho đến đầu những năm 90 của thế kỷ XX. Như vậy mối quan hệ Việt Nam - Ấn Độ theo tài liệu chúng tôi biết ở trong nước cũng như nước ngoài đã có nhiều nhà nghiên cứu tìm hiểu, nhưng do yêu cầu nghiên cứu về mặt thời gian nên đề cập về một giai đoạn này hay giai đoạn khác, khía cạnh này hay khía cạnh khác. Tuy nhiên, sự nổi lên của Ấn Độ những năm đầu thế kỷ XXI và quan hệ giữa Việt Nam - Ấn Độ trong những năm đầu thế kỷ XXI chưa có công trình nào nghiên cứu một cách hệ thống và toàn diện. 3. Đối tượng, mục tiêu và phương pháp nghiên cứu Từ những điều trình bày ở trên, chúng tôi xác định giới hạn, phạm vi nghiên cứu của đề tài luận văn như sau: - Về mặt thời gian: Trọng tâm của luận văn là quan hệ Việt Nam - Ấn Độ trong thập niên thế kỉ XXI (giai đoạn từ năm 2000 đến năm 2010). Sở dĩ chúng tôi chọn năm 2000 làm khởi điểm cho công trình nghiên cứu của minh, bởi tháng 12/1999 chủ tịch nước Trần Đức Lương tiến hành chyến thăm chính thức tới Nhà nước Ấn Độ, năm khép lại một thập kỷ đầy biến động và 7/1/2001, Thủ tướng A. B Vajpayee thăm chính thức Việt Nam mở đầu một kỷ nguyên mới với một triển vọng mới trong quan hệ hai nước. Những chuyến thăm của các nguyên thủ quốc gia nói trên mở ra một cơ hội mới trong quan hệ Việt - Ấn. Chúng tôi chọn năm 2010 là năm kết thúc thời điểm nghiên cứu. - Nội dung nghiên cứu: 1. Tìm hiểu quá trình phát triển quan hệ hai nước trên tất cả các lĩnh vực: chính trị, kinh tế, khoa học kỹ thuật, văn hóa - giáo dục. 2. Từ những nghiên cứu này, rút ra những nhận xét, đánh giá bước đầu về quan hệ hai nước. 3. Quan hệ Việt Nam - Ấn Độ trong thập niên đầu thế kỷ XXI chịu sự tác động của quan hệ giữa hai nước trong thời gian trước đó, cũng như những nhân tố từ tình hình thế giới và khu vực, nên chúng tôi mở rộng phạm vi nghiên cứu tới quan hệ hai nước thời gian trước 2000 cũng như những vấn đề khu vực và quốc tế có tác động tới thời kỳ này. 4. Nguồn tài liệu Để nghiên cứu đề tài này, chúng tôi dựa vào các nguồn tài liệu chính sau đây: - Các văn kiện, tài liệu của Đảng cộng sản và Nhà nước Việt Nam, của chính phủ Ấn Độ có liên quan đến quan hệ giữa hai nước; Các hiệp định, thoả thuận như, Tuyên bố chung; Các bài phát biểu trả lời phỏng vấn của các lãnh đạo hai nước được công bố trên báo chí. - Báo cáo, biên bản, tổng kết định kỳ của các cơ quan làm công tác đối ngoại, đặc biệt là của Bộ ngoại giao. - Các công trình nghiên cứu của các nhà nghiên cứu Việt Nam, Ấn Độ, các hội thảo khoa học về quan hệ hai nước. - Báo chí hàng ngày của Việt Nam - Ấn Độ. - Một số luận văn tốt nghiệp đại học và luận án phó tiến sĩ và tiến sĩ sử học về đề tài quan hệ Việt Nam - Ấn Độ nói chung. 5. Phương pháp nghiên cứu Sử dụng phương pháp lịch sử, kết hợp phương pháp duy vật biện chứng và phương pháp logíc, phương pháp nghiên cứu quan hệ quốc tế để nghiên cứu mối quan hệ hai nước qua các giai đoạn lịch sử và rút ra những nhận xét khái quát. Ngoài ra chúng tôi cũng sử dụng một số phương pháp khác như: thống kê, phân tích, so sánh đối chiếu, liên ngành. 6. Đóng góp của luận văn - Luận văn trình bày một cách hệ thống, toàn diện, cụ thể về quan hệ Việt - Ấn giai đoạn 2000 đến 2010. Đây là giai đoạn mà Ấn Độ và Việt Nam có những thay đổi trong đường lối ngoại giao, đặc biệt Ấn Độ với chính sách “Hướng Đông”, quan hệ Việt - Ấn bước sang một trang mới. - Từ đó cung cấp những cứ liệu và luận chứng thuyết phục để góp phần khẳng định quan hệ Việt Nam - Ấn Độ được xây đắp trên cơ sở vững chắc về mặt văn hóa, lịch sử và được thử thách qua nhiều biến động của thế giới và khu vực nhưng vẫn giữ được sự thủy chung và trọn vẹn, ngày càng phát triển tốt đẹp. - Kết quả nghiên cứu và tư liệu thu thập được có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho việc giảng dạy, học tập, tìm hiểu về quan hệ Việt Nam - Ấn Độ nói riêng và quan hệ quốc tế thời kỳ hiện đại của Việt Nam nói chung. - Từ những diễn biến của quá trình lịch sử, luận văn nêu một vài nhận xét bước đầu trong quan hệ Việt Nam - Ấn Độ từ 2000 đến 2010, một số kinh nghiệm và triển vọng. 7. Bố cục của luận văn Ngoài phần dẫn luận, thư mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung của luận văn gồm 3 chương. Chương 1. Những nhân tố tác động đến quan hệ Việt - Ấn trong thập niên đầu thế kỷ XXI Chương 2. Sự phát triển của quan hệ Việt - Ấn trong thập niên đầu thế kỷ XXI Chương 3. Một số nhận xét về quan hệ Việt - Ấn trong thập niên đầu thế kỷ XXI B. NỘI DUNG Chương 1 NHỮNG NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN QUAN HỆ VIỆT NAM - ẤN ĐỘ TRONG THẬP NIÊN ĐẦU THẾ KỶ XXI 1.1. Bối cảnh thế giới và khu vực Từ cuối những năm 80 những năm 90 của thế kỷ XX, tình hình thế giới có những chuyển biến to lớn và sâu sắc, tác động mạnh đến cục diện thế giới nói chung và các quốc gia, dân tộc nói riêng. Sau một thời gian chạy đua vũ trang, quan hệ Liên Xô và Mỹ đã có dấu hiệu chuyển từ đối đầu sang đối thoại. Cuối năm 1989 tại cuộc gặp gỡ không chính thức giữa Tổng thống Butsơ và Tổng thống Goocbachốp trên đảo Manta, Mỹ và Liên xô đã tuyên bố chấm dứt chiến tranh lạnh. Xuất phát từ nhận thức giáo điều, Liên Xô đã tiến hành cải tổ, để sửa chữa những sai lầm mà Đảng và Nhà nước Liên Xô mắc phải. Nhưng trong quá trình cải tổ, Liên Xô lại phạm phải những sai lầm nghiêm trọng và kéo dài trong nhiều năm. Điều này dẫn đến một kết cục là khủng hoảng và tan rã đi đến sụp đổ ở Liên Xô và các nước Đông Âu. Tuy nhiên, sự sụp đổ chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu là sự sụp đổ của một mô hình xã hội chưa khoa học, chưa nhân văn, là bước thụt lùi của chủ nghĩa xã hội trong quá trình vận động phức tạp chứ không phải là sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội trên phạm vi thế giới. Cùng nằm trong hệ thống xã hội chủ nghĩa, Trung Quốc sớm nhận thức được yêu cầu giải quyết khủng hoảng đã tiến hành cải cách thu được nhiều thắng lợi quan trọng, từng bước tiến kịp các nước trên thế giới. Trung Quốc XHCN là một trong những cường quốc hạt nhân và cũng là thành viên thường trực Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc. Tuy nhiên quan hệ Trung Quốc và Mỹ luôn xuất hiện sự căng thẳng, song Mỹ vẫn cần sự hợp tác của Trung Quốc trên nhiều vấn đề. Bên cạnh đó, Trung Quốc vừa cải thiện quan hệ đáng kể với Ấn Độ, vừa giúp đỡ Pakistan, đặc biệt là vấn đề vũ khí hạt nhân. Khát vọng bá chủ thế giới và thống lĩnh toàn cầu là khát vọng thường trực của Mỹ. Vì vậy Mỹ lôi kéo các nước đồng minh của mình gây chiến tranh cục bộ hòng thu vén quyền lực riêng. Bất cứ một sự kiện nào nổ ra cũng có sự nhúng tay của Mỹ, Mỹ là kẻ đứng sau làm nổ ra các cuộc chiến tranh Cục bộ như chiến tranh Irắc và Afganistan. Liên Xô sau khi sụp đổ đã hình thành nước Nga cùng Cộng đồng các quốc gia độc lập. Nga theo đuổi chính sách thân Mỹ và phương Tây, hy vọng tìm kiếm sự giúp đỡ của Mỹ cũng như phương Tây về vốn, công nghệ để khôi phục lại nền kinh tế. Với chính sách đó, Ấn Độ và Nam Á nằm ở vị trí thứ yếu trong chính sách của Nga. Cùng với những biến đổi to lớn và sâu sắc về chính trị, quân sự, quá trình hình thành một hệ thống kinh tế, thương mại, tài chính trên quy mô toàn cầu đang tác động mạnh mẽ đến xu thế phát triển trong quan hệ quốc tế và quan hệ kinh tế quốc tế. Cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật và công nghệ hiện đại đang diễn ra như vũ bão với những thành tựu to lớn của nó đã làm thay đổi tương quan lực lượng giữa các nước. Nó cuốn hút các nước ở mức độ khác nhau và tác động mạnh mẽ đến bước phát triển nhảy vọt trong lực lượng sản xuất, trong chuyển dịch cơ cấu. Nền sản xuất vật chất và đời sống xã hội đang ở quá trình quốc tế hóa sâu sắc. Điều đó ảnh hưởng đến nhịp độ phát triển của lịch sử và chính sách của các dân tộc. Những xu thế kể trên đã tạo ra nhiều thời cơ phát triển nhanh chóng cho các dân tộc, song không phải không đặt ra những thách thức. Các nước phải điều chỉnh chính sách để thích ứng với hoàn cảnh mới, xu thế chung là đa dạng hóa quan hệ và điều chỉnh cơ cấu kinh tế cho phù hợp ngày càng phụ thuộc lẫn nhau nhiều hơn của nền kinh tế thế giới. Trật tự hai cực Ianta tan rã, một trật tự thế giới mới đang hình thành. Cộng đồng thế giới đứng trước nhiều vấn đề có tính cấp bách liên quan đến vận mệnh của toàn thể nhân loại. Các vấn đề đó là: tránh thảm họa của cuộc chiến tranh hủy diệt, bù đắp nguồn tài nguyên ngày càng vơi cạn, hạn chế sự bùng nổ dân số, thu hẹp khoảng cách giàu nghèo giữa các nước. Việc giải quyết các vấn đề đó đòi hỏi tinh thần và trách nhiệm cao của mỗi quốc gia trên thế giới. Khu vực châu Á - Thái Bình Dương đang phát triển với tốc độ cao, cho thấy nhiều tiềm năng và triển vọng. Tuy vậy, khu vực này tiềm ẩn nhiều nhân tố gây mất ổn định. Trong khi đó, xu thế hòa bình, ổn định và hợp tác để phát triển là đòi hỏi bức thiết đặt ra cho các quốc gia dân tộc. Quan điểm chung đều hướng vào ưu tiên phát triển kinh tế, coi phát triển kinh tế có ý nghĩa quyết định đối với việc tăng cường sức mạnh quốc gia. Bất kỳ một quốc gia nào, dù phát triển hay chưa phát triển cũng đều đặt ra cho mình nhiệm vụ tham gia vào quá trình hợp tác liên kết khu vực, liên kết quốc tế về kinh tế, thương mại và các lĩnh vực khác. Tất nhiên hợp tác càng chặt chẽ, càng phát triển thì cạnh tranh càng gay gắt và quyết liệt. Sau sự kiện 11/9/2001 và cuộc chiến tranh chống khủng bố do Mỹ phát động trên toàn cầu, không ai không nhận thấy môi trường châu Á đang thay đổi nhanh chóng, do bức tranh toàn cảnh thế giới đang biến đổi. Châu Á đứng trước một thách thức mới. Dù châu Á là nơi diễn ra nhiều xung đột về sắc tộc, tôn giáo, chủ nghĩa ly khai, tranh chấp chủ quyền lãnh thổ, thậm chí có những căn cứ khủng bố quốc tế thì những thách thức về quân sự, an ninh cũng không thể che lấp được những thách thức về kinh tế, thông tin. Điều này đòi hỏi cần một cách nhìn nhận mới, thách thức mới ở châu Á, một cách toàn diện hơn. Trong xu thế toàn cầu hóa kinh tế thế giới và cuộc đấu tranh chống những ảnh hưởng tiêu cực của toàn cầu hóa với các nền kinh tế đang phát triển, trong đó Việt Nam - Ấn Độ là những nước cần phải phát huy hơn nữa quan hệ, hợp tác và tham khảo lẫn nhau. Xu thế toàn cầu hóa kinh tế quốc tế gia tăng, kết nối các quốc gia vào nhiều tổ chức hợp tác kinh tế với nhiều cấp độ như ASEAN, và AFTA ở Đông Nam Á, BICTEC ở Đông Nam Á và Nam Á, APEC ở vùng châu Á- Thái Bình Dương, ASEM liên châu lục Á - Âu và WTO với những quy tắc chung mang tính toàn cầu. Sự phát triển nhanh chóng năng động của nền kinh tế châu Á - Thái Bình Dương nói chung và các nước ASEAN nói riêng là nhân tố khách quan thuận lợi đối với quan hệ Việt Nam - Ấn Độ. Trong mấy thập niên gần đây, khu vực châu Á - Thái Bình Dương, Trung Quốc, ASEAN, Ấn Độ có nền kinh tế phát triển nhanh chóng trong thời gian dài làm thế giới kinh ngạc và khâm phục. Ở trong khu vực như vậy quan hệ Việt Nam - Ấn Độ có điều kiện thuận lợi phát triển. Từ các tổ chức trong khu vực, với sự tham gia của Việt Nam (1995), của Lào và Mianma (1997), và Camphuchia (1999), ASEAN trở thành tổ chức khu vực bao gồm 10 quốc gia Đông Nam Á, không phân biệt chế độ chính trị, kinh tế, xã hội, sắc tộc, tôn giáo. Đây là kết quả vận động theo xu thế khách quan, nỗ lực xích lại gần nhau từ cả hai nhóm nước Đông Dương và ASEAN để trở thành một chỉnh thể liên kết khu vực, tăng cường quan hệ và hợp tác quốc tế trong một thế giới đang gia tăng toàn cầu hóa và tùy thuộc lẫn nhau. Cộng hòa Ấn Độ là một trong mười bên đối thoại quan trọng của ASEAN, Ấn Độ có số dân đông thứ hai thế giới, sau Trung Quốc và giàu tiềm lực phát triển. Ấn Độ luôn nỗ lực cải cách phát triển kinh tế thị trường và hướng ra bên ngoài, thực hiện chính sách hội nhập khu vực và thế giới. Ấn Độ, với chính sách “Hướng Đông”, luôn mở rộng hợp tác với các nước lớn và tổ chức quốc tế, trong đó ASEAN là đối tác quan trọng. Những năm cuối thập niên thế kỷ XX Ấn Độ đạt được những thành tựu quan trọng, với mức tăng trưởng GDP khá, khoảng 5,5% năm, dự kiến sẽ đạt 6,9 đến 8,2% vào các năm tới. Ấn Độ phấn đấu trở thành cường quốc kinh tế vào năm 2020 [75, tr11]. Đánh giá cao tầm quan trọng của Đông Nam Á nói riêng và châu Á - Thái Bình Dương nói chung, Ấn Độ coi trọng địa vị vai trò của mình với chính sách “Hướng Đông”, Ấn Độ đặt Đông Nam Á vào vị trí quan trọng là bộ phận cầu nối hợp tác châu Á - Thái Bình Dương và xây dựng quan hệ cân bằng với các nước lớn. Với sự ra đời của tổ chức thương mại thế giới WTO sau vòng đàm phán Urugoay cuối cùng của GATT trong bối cảnh kinh tế thế giới đang hình thành những thị trường mới như thị trường chứng khoán và phi thuế quan, những công cụ mới như công nghệ điện tử viễn thông, những hoạt động xúc tiến hợp tác kinh tế song phương và đa phương với sự phát triển của những tổ chức khu vực và tiểu khu vực ở khắp các châu lục. Đây chính là yếu tố để liên kết chặt chẽ mối quan hệ Ấn Độ và ASEAN. Bối cảnh khu vực và thế giới sau chiến tranh lạnh, cả ASEAN và Ấn Độ đều c
Luận văn liên quan