Những năm cuối thếkỷXX, hệthống xã hội chủnghĩa lâm vào khủng
hoảng toàn diện và nghiêm trọng dẫn đến sựsụp đổcủa bộphận lớn làm thay
đổi cơbản cục diện chính trịcủa thếgiới. Bên cạnh đó, chủnghĩa tưbản tận
dụng được những thành tựu của cuộc cách mạng khoa học công nghệhiện đại
nên đã thích nghi và vẫn tiếp tục phát triển.
Trật tựthếgiới hai cực tan dã, quan hệquốc tếchuyển dần từ đối đầu
sang đối thoại, từ đó làm nảy sinh xu hướng đa dạng hoá, đa phương hoá
trong tiến trình hội nhập toàn cầu. Hoà bình, ổn định hợp tác đểphát triển
ngày càng trởthành đòi hỏi bức xúc của các quốc gia. Toàn cầu hoá vềkinh
tếchiếm vịtrí quan trọng trong quan hệgiữa các quốc gia,kinh tê được ưu
tiên phát triển và trởthành chủ đềchính trong quan hệquốc tếhiện nay.
Trước bối cảnh quốc tếvà xu thếchung của thếgiới đang diễn ra như
vậy, các quốc gia đều phải điều chỉnh lại chính sách đối ngoại của mình để
thích ứng với tình hình mới. Việt Nam cũng không nằm ngoài xu thế đó.
Chính sách đối ngoại là một bộphận hợp thành đường lối đổi mới của
Việt Nam trên nền tảng của Chủnghĩa Mác - Lênin và Tưtưởng HồChí
Minh. Được khởi xướng từnăm 1986 và sau hơn 10 năm thực hiện, chính
sách đối ngoại đúng đắn của Đảng và Nhà nước ta đã góp phần không nhỏ
đến sựphát triển của đất nước, tạo điều kiện khai thác có hiệu quảcác nhân tố
quốc tế, kết hợp được sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại đưa Việt Nam
thoát khỏi khủng hoảng và đi lên.
40 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 2879 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Quan hệ quốc tếcủa Việt Nam thời kỳ đổi mới, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
u
---X W---
Quan hệ quốc tế của Việt Nam thời kỳ
đổi mới
1
LỜI DẪN
Những năm cuối thế kỷ XX, hệ thống xã hội chủ nghĩa lâm vào khủng
hoảng toàn diện và nghiêm trọng dẫn đến sự sụp đổ của bộ phận lớn làm thay
đổi cơ bản cục diện chính trị của thế giới. Bên cạnh đó, chủ nghĩa tư bản tận
dụng được những thành tựu của cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại
nên đã thích nghi và vẫn tiếp tục phát triển.
Trật tự thế giới hai cực tan dã, quan hệ quốc tế chuyển dần từ đối đầu
sang đối thoại, từ đó làm nảy sinh xu hướng đa dạng hoá, đa phương hoá
trong tiến trình hội nhập toàn cầu. Hoà bình, ổn định hợp tác để phát triển
ngày càng trở thành đòi hỏi bức xúc của các quốc gia. Toàn cầu hoá về kinh
tế chiếm vị trí quan trọng trong quan hệ giữa các quốc gia,kinh tê được ưu
tiên phát triển và trở thành chủ đề chính trong quan hệ quốc tế hiện nay.
Trước bối cảnh quốc tế và xu thế chung của thế giới đang diễn ra như
vậy, các quốc gia đều phải điều chỉnh lại chính sách đối ngoại của mình để
thích ứng với tình hình mới. Việt Nam cũng không nằm ngoài xu thế đó.
Chính sách đối ngoại là một bộ phận hợp thành đường lối đổi mới của
Việt Nam trên nền tảng của Chủ nghĩa Mác - Lênin và Tư tưởng Hồ Chí
Minh. Được khởi xướng từ năm 1986 và sau hơn 10 năm thực hiện, chính
sách đối ngoại đúng đắn của Đảng và Nhà nước ta đã góp phần không nhỏ
đến sự phát triển của đất nước, tạo điều kiện khai thác có hiệu quả các nhân tố
quốc tế, kết hợp được sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại đưa Việt Nam
thoát khỏi khủng hoảng và đi lên.
Chính sách đối ngoại đổi mới là một trong những mốc đánh dấu thành
tựu to lớn của Việt Nam trong thế kỷ XX, tạo tiền đề cho Việt Nam vững
bước đi vào thế kỷ XXI. Với lý do đó cùng với ham muốn được tìm hiểu
chính sách đối ngoại đổi mới và quan hệ quốc tế của Việt Nam giai đoạn này,
2
em mạnh dạn chọn đề tài “Quan hệ quốc tế của Việt Nam thời kỳ đổi mới”
làm chuyên đề thực tập.
Đây là đề tài rất rộng lớn, cho nên bài viết này không tránh khỏi những
thiếu sót hạn chế. Mong được sự thông cảm, giúp đỡ, đóng góp ý kiến của các
thầy cô và các bạn.
3
CHƯƠNG 1
NHỮNG NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG TỚI ĐƯỜNG LỐI ĐỔI MỚI
CỦA VIỆT NAM
1.1. TÌNH HÌNH THẾ GIỚI NHỮNG NĂM 80 VÀ ĐẦU THẬP KỶ 90
Từ nửa năm sau những năm 80, quan hệ Xô - Mỹ đã thực sự chuyển từ
đối đầu sang đối thoại. Để giải quyết các vấn đề tranh chấp, Xô - Mỹ đã tiến
hành nhiều cuộc gặp thượng đỉnh giữa Ri-Gan và Goóc-Ba-Chốp, giữa Busơ
và GoócBachốp. Qua đó có nhìêu văn kiện được ký kết trên các lĩnh vực kinh
tế thương mại, văn hoá, khoa học kỹ thuật, nhưng quan trọng nhất là việc ký
kết hiệp ước thủ tiêu tên lửa tầm trung ở Châu Âu năm 1987 (gọi tắt là INF).
Cũng từ năm 1987, hai nước Mỹ và Liên Xô đã thoả thuận giảm một bước
quan trọng cuộc chạy đua vũ trang, từng bước chấm dứt cuộc diện “Chiến
tranh lạnh”, cùng hợp tác với nhau giải quyết các cụ tranh chấp và xung đột
quốc tế.
Cuối năm 1989, tại cuộc gặp không chính thức giữa Busơ và Gooc-Ba-
Chốp tại đảo Manta, hai nước Xô - Mỹ đã chính thức tuyên bố chấm dứt cuộc
“chiến tranh lanh” kéo dài trên 40 năm giữa hai nước này.
Mối quan hệ giữa 5 nước lớn: Liên Xô, Mỹ, Anh, Pháp, Trung Quốc, là
5 thành viên thường trực Hội đồng bảo an LHQ có vai trò quan tọng trong
việc duy trì hoà bình, an ninh và trật tự thế giới đã được thiết lập lên. Trong
“chiến tranh lạnh” mặc dù là 5 nước lớn nhưng vẫn chỉ là thế “hai cực” Xô -
Mỹ đối đầu nhau. Mối quan hệ giữa 5 nước lớn sau năm 1989 đã chuyển từ
“hai cực” đối đầu sang đối thoại, hợp tác với nhau trong việc giải quyết những
tranh chấp và xung đột quốc tế, tiêu biểu như cuộc chiến trung vùng vịch
Pecxic (1991), và việc giải quyết các cuộc xung đột vũ trang ở nhiều khu vực
trên thế giới.
Sau sự kiện xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ, dẫn đến
khối quân sự Vac-Sa-Va tự giải thể (1/7/1991) và Hội đồng tương trợ kinh tế
(SEV) ngừng hàng hoạt động (28/6/1991). Xã hội chủ nghĩa tạm lâm vào
thoái trào, việc Liên Xô sụp đổ bắt đầu từ khủng hoảng về đường lối chiến
4
lược do nhận thức sai lầm về đường lối đối ngoại như việc Liên Xô thoả
thuận với Mỹ về việc giải quyết vấn đề Apganictan, Campuchia, những thoả
thuận nhượng bộ đó không có lợi cho các cách mạng thế giới. Liên Xô còn
thực hiện chính sách “không can thiệp” vào vấn đề thống nhất nước Đức và
các nước Đông Âu, chính sách không thực hiện những cam kết với các đồng
minh cũ của Liên Xô (ngừng viện trợ cho Cuba, Việt Nam, Mông Cổ)1.
Những ngượng bộ đó được các phương Tây, nhất là Mỹ ngày các khai thác
triệt để, để làm giảm thế cân bằng về sức mạnh vũ khí hạt nhân với Mỹ và
làm suy giảm sức mạnh và vị trí của Liên Xô có ở khắp các khu vực trên thế
giới.
Còn ở khu vực Châu Á - Thái Bình Dương kinh tế phát triển rất năng
động, đồng thời cũng tiềm ẩn nhiều nhân tố có thể gây mất ổn định như xung
đột ở Triều Tiên, tranh chấp quần đảo Cu-Rin giữa Nhật Bản và Liên Xô,
tranh chấp chủ quyền lãnh thổ, lãnh hải ở biển Đông và căng thẳng ở eo biển
Đài Loan...
Trong khu vực Đông Nam Á cũng chứa đựng nhiều nguy cơ xung đột
bất ổn, trong đó vấn đề Campuchia. Những phản ứng từ của các ASEAN,
Trung Quốc và các nước phương Tây khác cho rằng Việt Nam xâm lược
Campuchia, họ tiến hành các hoạt động làm cho tình hình khu vực thêm căng
thẳng. Trung Quốc cắt đứt quan hệ ngoại giao với Việt Nam và đưa quân vào
Việt Nam gây nên cuộc chiến tranh ở biên giới phía Bắc nước ta. Một số nước
ASEAN cô lập nước ta ở các diễn đàn, tổ chức quốc tế... Về phía Việt Nam,
chúng ta trước sau vẫn khẳng định việc đưa quân vào Campuchia là giúp đỡ
nhân dân Campuchia đánh đuổi bọn diệt chủng PonPốt đem lại hoà bình cho
nhân Campuchia.
Cùng với những biến đổi trong tình hình an ninh, chính trị, cộng đồng
thế giới cũng đang đứng trước nhiều vấn đề có tính toàn cầu cấp bách mà
không có một quốc gia riêng lẻ nào có thể giải quyết được cho nên cần phải
1
5
có sự hợp tác đa phương trong các công việc quốc tế như: bảo vệ môi trường,
bùng nổ dân số, phòng chống bệnh tật hiểm nghèo và nạn khủng bố.
Mặt khác, cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật, công nghệ phát triển như
vũ bão và được gọi là nền văn minh hậu công nghiệp hay nền văn minh trí
tuệ. ảnh hưởng của nó ngày càng tác động sâu hơn vào đời sống kinh tế xã
hội, nhất là trong sản xuất. Các phát minh khoa học mà nội dung cơ bản là
cách mạng về công nghệ thông tin, sinh học, năng lượng, vật liệu mới... tiếp
tục phát triển nhanh với trình độ cao, làm tăng nhanh lực lượng sản xuất, thúc
đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế thế giới, quốc tế hoá nền sản xuất và
đời sống xã hội, làm cho tính chất tuỳ thuộc lẫn nhau giữa các quốc gia ngày
càng gia tăng mạnh mẽ. Cuộc cách mạng trên đã tác động sâu sắc đến quan hệ
quốc tế, thúc đẩy quá trình liên kết kinh tế và toàn cầu hoá. Nó vừa là thời cơ
nhưng cũng là thách thức rất lớn đối với các nước, là điểm mà bất cứ nước
nào cũng không thể bỏ qua khi xây dựng đường lối, xác định phương hướng
và mục tiêu phát triển. các nước đều đứng trước những cơ hội để phát triển,
nhưng do ưu thế về vốn, công nghệ, thị trường... thuộc về các nước tư bản chủ
nghĩa và các công ty xuyên quốc gia nên các nước chậm phát triển đang đứng
trước những thử thách to lớn. Trong tình hình đó nếu các nước không nắm bắt
được cơ hội, tranh thủ những khả năng mới để phát triển thì sẽ bị tụt hậu.
Ngược lại nếu nước nào biết đón trước, khai thác được thời cơ, nỗ lực
phấn đấu thì sẽ có thể vượt lên một cách nhanh chóng. Cuộc cạnh tranh kinh
tế thương mại, khoa học công nghệ diễn ra gay gắt trên phạm vi toàn thế giới.
Tóm lại, hoà bình ổn định và hợp tác để phát triển ngày càng trở thành
đòi hỏi búc xúc của các dân tốc và quốc gia trên thế giới. Các nước giành ưu
tiên cho phát triển kinh tế, coi phát triển kinh tế có ý nghĩa quyết định đối với
việc tăng cường sức mạnh tổng hợp mỗi nước.
Tình hình đó tác động mạnh mẽ đối với việc hoạch định chính sách đối
ngoại của các nước cũnh như ở Việt Nam. Kiến định mục tiêu độc lập dân tộc
và chủ nghĩa xã hội. Trong điều kiện lịch sử mới, Đảng và Nhà nước ta khởi
6
xưởng công cuộc đổi mới toàn diện, trong đó đổi mới chính sách đối ngoại trở
thành một nội dung quan trọng đối với sự ngiệp phát triển của Việt Nam.
1.2. SỰ PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI CỦA VIỆT NAM SAU 1975 ĐẾN 1986.
Chiến thắng của Việt Nam sau 30/4/1975 là niềm vui thống nhất cả
giang sơn về một mối. Nhưng hậu quả của cuộc chiến tranh kéo dài để lại
những khó khăn không nhỏ cho nhân dân Việt Nam: 1,1 triệu liệt sĩ, 60 vạn
thương binh, 30 vạn người mất tích, gần 2 triệu người dân bị thiệt mạng, hơn
2 triệu người dân bị tàn tật và nhiễm chất độc hoá học...
Hai cuộc chiến tranh biến giới phía Bắc (1979) và biên giới phía Tây
Nam (1978) lấy đi thêm nhiều tài lực, vật lực của đất nước khiến cho nền kinh
tế của Việt Nam đã khó khăn lại càng thêm khó khăn. Mà hậu quả của nó là
nền kinh tế lâm vào tình trạng khủng hoảng toàn diện, lạm phát tăng phi mã
(774,7%) năm 1986, nền công nghiệp lạc hậu, nông nghiệp đình đốn.
Bên cạnh đó, do những khuyết điểm chủ quan trên các lĩnh vực nhất là
việc chỉ đạo và thực hiện xây dựng kinh tế xã hội. Mô hình kinh tế tập trung
quan liêu bao cấp bộc lộ nhiềukhuyết điểm yếu kém. Nền kinh tế đất nước rơi
vào tình trạng trì trệ, lạc hậu, khủng hoảng: Công nghiệp yếu kém, manh mún
thiếu rất nhiều ngành công nghiệp tiêu dùng... Nền nông nghiệp không đủ chi
dùng trong nước, phải nhập khẩu lương thực, thực phẩm và hàng tiêu dùng
thường xuyên khiến cho cán cân xuất nhập khẩu luôn thâm hụt mất cân đối,
thu không đủ chi, dẫn đến phải đi vay từ nước ngoài. Tính chung trong năm 5
năm 1981 - 1985, nguồn vay từ nước ngoài chiếm 22,4% thu ngân sách quốc
gia. Số nợ nhiều như vậy nhưng bội chi ngân sách vẫn lớn và tăng dần: Năm
1980 là 1,8%, năm 1985 là 36,6%. Do bội chi nhiều như vậy nên Chính phủ
buộc phải phát hành thêm tiền mặt để bù đắp. Cùng với việc không cân đối
được từ thu và chi, do nguồn thu không có vì không có sản phẩm công nghiệp
xuất khẩu. Cộng vào đó là sai lầm về chính sách cải cách giá, lương, tiền đã
làm cho nền kinh tế rơi tự do không kiểm soát được dẫn đến xuất hiện siêu
7
lạm phát ở mức 774,7% (1986), kéo theo giá cả leo thang vô phương kiểm
soát.2
Đời sống nhân dân nhất là công nhân viên chức và lực lượng vũ trang
gặp nhiều khó khăn. Tiêu cực xã hội phát triển, công bằng bị vi phạm, pháp
luật kỳ cương xã hội không nghiêm minh, cán bộ tham nhũng lộng quyền,
bọn làm ăn phi pháp không bị trừng trị kịp thời và nghiêm khăc. Quần chúng
giảm lòng tin với sự lãnh đạo của Đảng và sự điều hành của Nhà nước.3
Cuối những năm 80, tình hình kinh tế - xã hội ở Liên Xô và các nước
xã hội chủ nghĩa Đông Âu anh em cũng hết sức khó khăn và diễn ra ngày
càng phức tạp. Tình hình thế giới có nhiều thay đổi, cuộc chạy đua phát triển
kinh tế đã lôi kéo các nước vào cuộc. Trong bối cảnh đó, Đảng và Nhà nước
ta nhận biết được xu thế của thế giới và nhìn thấy nguy cơ tụt hậu ngày càng
xa về kinh tế so với thế giới nếu không phát triển đất nước.
Thực tiễn tình hình trong nước và quốc tế đặt ra một yêu cầu khách
quan, bức xúc có ý nghĩa sống còn đối với sự nghiệp các mạng nước ta, là để
làm xoay chuyển được tình thế, tạo ra một sự chuyển biến có ý nghĩa quyết
định trên bước đường đi lên. Đảng phải đổi mới sự lãnh đạo và chỉ đạo một
cách mạnh mẽ. Đại hội VI của Đảng (tháng 12 - 1986) được chuẩn bị và đáp
ứng những yêu cầu đó.
Tư tưởng cốt lõi của Đại hội VI là giải phóng mọi năng lực sản xuất
hiện có, khai thác mọi tiềm năng của đất nước và sử dụng có hiệu quả sự giúp
đỡ quốc tế để phát triển lực lượng sản xuất đi đôi với xây dựng và củng cố
quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa.4
Với ý nghĩa đó, chính sách đối ngoại đổi mới phải phá thế bao vây cấm
vận, cô lập của các thế lực thù địch từ đó lấy lại vị thế của ta trên trường quốc
tế, tạo điều kiện thuận lợi cho đất nước phát triển, góp sức mình vào sự
nghiệp chung của đất nước.
2: Nguyễn Sinh 12 năm đổi mới (1986-1997). Tạp chí Cộng sản số 6 tháng 3 năm 1998, trang 3
3: Trích lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam - NXB Giáo dục, 1997 trang1
4: Trích lịch sử Đảng CSVN - NXB Giáo dục - 1997 trang 167
8
CHƯƠNG 2
QUAN HỆ QUỐC TẾ CỦA VIỆT NAM TỪ 1986 ĐẾN NAY
2.1. NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI ĐỔI MỚI.
Mốc quan trọng nhất quyết định cho chính sách đối ngoại đổi mới là
“Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng” họp tại Hà Nội.
Với quan điểm nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật. Đại hội
VI đã thẳng thắn và khách quan chỉ ra những sai lầm thiếu sót trong chính
sách kinh tế, sự lạc hậu về nhận thức lý luận và vận dụng các quy luật đang
hoạt động trong thời kỳ quá độ. Sau khi nghiêm khắc kiểm điểm Đại hội cho
rằng để khắc phục những sai lầm, khuyết điểm và những bất cập dẫn đến
khủng hoảng Kinh tế - Xã hội đòi hỏi phải đổi mới tư duy, trước hết là tư duy
kinh tế. Trên tinh thần đó Đại hội VI đã xác định nhiệm vụ trên lĩnh vực đối
ngoại trong thời gian tới là:
5Trong những năm tới nhiệm vụ của Đảng và Nhà nước ta trên lĩnh vực
đối ngoại là: “Ra sức kết hợp sức mạnh của dân tộc với sức mạnh của thời
đại, phấn đấu giữ vững hoà bình ở Đông Dương, góp phần tích cực giữ vững
hoà bình ở Đông Nam Á và thế giới, tăng cường quan hệ hữu nghị và hợp tác
toàn diện với Liên Xô và các nước trong cộng đồng xã hội chủ nghĩa”.
5: Trích văn kiện ĐHĐB toàn quốc lần VI- NXB Sự thật trang 99 (viết theo các văn kiện VI, VII, VIII)
9
Hoạt động đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta phải phục vụ cho cuộc
đấu tranh bảo vệ tổ quốc, giữ gìn an ninh chính trị, làm thất bại cuộc chiến
tranh phá hoại nhiều mặt của địch, tiếp tục làm tròn nghĩa vụ quốc tế với
Campuchia và Lào. Chúng ta cần tranh thủ những điều kiện thuận lợi mới về
hợp tác kinh tế và khoa học kỹ thuật, tham gia ngày càng rộng rãi việc phân
công và hợp tác trong Hội đồng tương trợ kinh tế, đồng thời tranh thủ mở
rộng quan hệ với các nước khác.
Tăng cường hợp tác toàn diện với Liên Xô luôn luôn là hòn đá tảng
trong chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta. Đồng thời tăng sự phối
hợp với Liên Xô và các xã hội chủ nghĩa khác trong cuộc đấu tranh hoà bình
và các mạng trên thế giới, trước hết là ở khu vực Châu Á - Thái Bình Dương.
Đảng ta nhận thức sâu sắc rằng: “Phát triển và củng cố mối quan hệ đặc
biệt giữa ba nước Đông Dương, đoàn kết và tôn trọng độc lập chủ quyền của
mỗi nước, hợp tác toàn diện, giúp đỡ lẫn nhau xây dựng và bảo vệ tổ quốc là
quy luật sống còn và phát triển của ba dân tộc anh em”.
Chúng ta tiếp tục tăng cường quan hệ hợp tác hữu nghị với các nước
thành viên Hội đồng tương trợ kinh tế. Chúng ta cũng mở rộng quan hệ với
các nước xã hội chủ nghĩa anh em khác như Anbani, Triều Tiên...
Là một thành viên của phong trào không liên kết, chúng ta phấn khởi
trước sự trưởng thành và vai trò của ngày càng to lớn của phong trào trong
đời sống chính trị quốc tế.
Đảng ta chủ trương tích cực góp phần vào việc tăng cường đoàn kết của
phong trào trên cơ sở chủ nghĩa Mac - Lênin và chủ nghĩa quốc tế vô sản.
Chúng ta ủng hộ mạnh mẽ cuộc đấu tranh anh dũng của giai cấp công nhân và
nhân dân ở các nước tư bản chủ nghĩa phát triển. Ủng hộ mạnh mẽ đối với
nhân dân Châu Phi đang kiên cường đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc, chủ
nghĩa thực dân, chủ nghĩa phân biệt chủng tộc, chủ nghĩa Apacthai. Đoàn kết
10
chặt chẽ với nhân dân các nước anh em như: An-giê-ri và Cộng hoà dân chủ
nhân dân Y-ê-men đang xây dựng cuộc sống mới.
Đảng và Nhà nước ta kiên trì thực hiện chính sách đối ngoại hoà bình
và hữu nghị. Chúng ta chủ trương và ủng hộ chính sách cùng tồn tại hoà bình
giữ các nước có chế độ chính trị xã hội khác nhau, loại trừ chiến tranh xâm
lược và mọi hình thức của chủ nghĩa khủng bố.
Với Trung Quốc, Việt Nam sẵn sàng đàm phán với Trung quốc bất kỳ
lúc nào, bất cứ cấp nào và bất cứ ở đâu nhằm bình thường hoá quan hệ giữa
hai nước, vì lợi ích của nhân dân hai nước, vì hoà bình ở Đông Nam Á và trên
thế giới.
Nhà nước ta chủ trương tăng cường và mở rộng quan hệ hữu nghị với
Thuỵ Điển, Phần Lan, Pháp, Oxtraylia, Nhật Bản và với các nước phương
Tây khác trên cơ sở bình đẳng cùng có lợi. Chính phủ ta tiếp tục bàn bạc với
Mỹ giải quyết các vấn đề nhân đạo do chiến tranh để lại và sẵn sàng cải thiện
quan hệ với Mỹ vì lợi ích của hoà bình ổn định ở Đông Nam Á .
Đường lối đối ngoại đổi mới tiếp tục được khẳng định ở Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ VII.
Nhiệm vụ đối ngoại bao trùm trong thời gian tới là giữ vững hoà bình,
mở rộng quan hệ hữu nghị và hợp tác, tạo điều kiện quốc tế thuận lợi cho
công cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa và bảo vệ tổ quốc. Đồng thời góp phần
tích cực vào công cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hoà bình,
độc lập dân tọc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
Cần nhạy bén nhận thức và dự báo được những diễn biến phức tạp và
thay đổi sâu sắc trong quan hệ quốc tế, sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng
sản xuất và xu hướng quốc tế hoá của nền kinh tế thế giới để có những chủ
trương đối ngoại phù hợp. Trong điều kiện mới phải coi vận dụng bài học kết
hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, sức mạnh trong nước với sức
11
mạnh quốc tế, yếu tố truyền thống với yếu tố hiện đại để phục vụ sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
Chúng ta chủ trương hợp tác bình đẳng và cùng có lợi với tất cả các
nước, không phân biệt chế độ chính trị xã hội khác nhau trên cơ sở các
nguyên tắc cùng tồn tại hoàn bình. Trước sau như một tăng cường đoàn kết và
hợp tác với Liên Xô, đổi mới phương thức và nâng cao hiệu quả hợp tác Việt
- Xô nhằm đáp ứng lợi ích của mỗi nước.
Không ngừng củng cố, phát triển quan hệ đoàn kết và hữu nghị đặc biệt
giữa Đảng và nhân dân ta với Đảng và nhân dân Lào, Đảng và nhân dân
Campuchia anh em. Đổi mới phương thức hợp tác, chú trọng hiệu quả theo
nguyên tắc bình đẳng, tôn trọng độc lập, chủ quyền và lợi ích chính đáng của
nhau. Phấn đấu góp phần sớm đạt được một giải pháp chính trị toàn bộ về vấn
đề Campuchia trên cơ sở tôn trọng chủ quyền của Campuchia và Hiến chương
LHQ.
Thúc đẩy quá trình bình thường hoá quan hệ với Trung Quốc, từng
bước mở rộng sự hợp tác Việt - Trung, giải quyết những vấn đề tồn tại giữa
hai nước thông qua thương lượng.
Củng cố và phát triển quan hệ hữu nghị, đoàn kết, hợp tác với Cu - Ba
và các nước xã hội chủ nghĩa khác.
Đảng cộng sản Việt Nam chủ trưng tăng cường quan hệ với các Đảng
cộng sản và công nhân, góp phần tích cực vào sự đoàn kết và hợp tác giữa các
Đảng anh em trên cơ sở chủ nghĩa Mac - Lênin, đấu tranh vì những mục tiêu
cao cả của thời đại.
Đoàn kết với lực lượng đấu tranh cho hoà bình, độc lập dân tộc, dân
chủ và tiến bộ xã hội, sẵn sàng thiết lập và mở rộng quan hệ với các đảng xã
hội - dân chủ, các phong trào dân chủ và tiến bộ trên thế giới.
12
Phát triển quan hệ đoàn kết, tin cậy và nâng cao hiệu quả hợp tác nhiều
mặt với Ấn Độ. Tiếp tục mở rộng hợp tác với các nước đang phát triển khác.
Tiếp tục củng cố và tăng cường phong trào không liên kết. Phát triển quan hệ
hữu nghị với các nước ở Đông Nam Á và Châu Á - Thái Bình Dương, phấn
đấu cho một Đông Nam Á hoà bình, hữu nghị và hợp tác.
Mở rộng sự hợp tác bình đẳng cùng có lợi với các nước Bắc Âu, Tây
Âu, Nhật Bản và các nước phát triển khác. Thúc đẩy quá trình bình thường
quan hệ với Hoa Kỳ.
Góp phần làm cho Liên Hợp Quốc phục vụ đắc lực hơn những mục tiêu
của nhân loại là hoà bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển. Hợp tác với các tổ
chức chuyên môn của LHQ và các tổ chức phi chính phủ.
Với chính sách đối ngoại rộng mở, chúng ta tuyên bố rằng: Việt Nam
muốn là bạn với tất cả các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hoà
bình, độc lập, phát triển.
Việc Liên Xô sụp đổ vào 22-12-1991 đã