Ngay từ đầu thập niên 90 của thế kỷ 20, tổ chức Unesco đã nêu lên 4 trụ cột của cải
cách giáo dục và đặc biệt nhấn mạnh: thời đại mới đòi hỏi con người phải có cái nhìn mới,
cách nghĩ mới và những kiến thức kỹ năng mới của chính thời dại mình. Nói cụ thể hơn,
con người mới đó phải có khả năng tư duy độc lập, có phương pháp tư duy hệ thống và cách
nhìn toàn thể; có năng lực sáng tạo và tinh thần đổi mới; có khả năng thích ứng với sự thay
đổi thường xuyên, đa dạng, phức tạp, đầy biến động bất ngờ và bất định; có năng lực hành
động hiệu quả và tinh thần hợp tác trong một môi trường đa văn hóa của một thế giới toàn
cầu hóa. (Võ Nguyên Giáp).
Sang thế kỷ 21, Việt Nam đã và đang trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa,
thì nhiều nước trên thế giới đã vượt qua thời đại cách mạng CN, đi vào thời đại thông tin,
xây dựng nền kinh tế tri thức và xã hội tri thức. Điều đó cho thấy, đã có sự chênh lệch khá
lớn về trình độ kinh tế, khoa học công nghệ giữa nước ta với các nước trong khu vực và
trên thế giới, mà nguyên nhân chính là do có sự khác biệt về trình độ, trí tuệ, năng lực sáng
tạo và khả năng chuyên môn của nguồn nhân lực. Nguồn nhân lực đó, chính là sản phẩm
của quá trình giáo dục và đào tạo.
83 trang |
Chia sẻ: duongneo | Lượt xem: 1239 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Quản lý hoạt động giảng dạy của hệ thống các trường THCS huyện Vĩnh Thạnh, Thành phố Cần Thơ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Đinh Trung Trực
Chuyên ngành : Quản lý Giáo dục
Mã số : 60 14 05
LUẬN VĂN THẠC SĨ GIÁO DỤC HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. HOÀNG TÂM SƠN
Thành phố Hồ Chí Minh - 2010
LỜI CÁM ƠN
Trong quá trình học tập, nghiên cứu và hoàn chỉnh luận văn, tác giả đã nhận được sự quan
tâm khích lệ, giúp đỡ từ quí thầy cô, đồng nghiệp, bạn bè, người thân. Tác giả tác giả xin chân
thành cảm ơn :
Phòng Khoa học Công nghệ Sau đại học, Trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh
đã tổ chức giảng dạy, tạo điều kiện học tập và chấp nhận cho tác giả thực hiện luận văn này.
Thầy P.GS.TS. Hoàng Tâm Sơn – P. Hiệu trưởng trường Cao đẳng văn hóa du lịch Sài Gòn
đã hướng dẫn tác giả thực hiện luận văn.
Quý thầy, cô đã giảng dạy và hướng dẫn tác giả trong suốt quá trình học tập tại Trường
Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh.
Sở Giáo dục và Đào tạo thành phố Cần Thơ, Sở Nội vụ thành phố Cần Thơ, Huyện ủy, Uỷ
ban nhân dân huyện Vĩnh Thạnh, Phòng Giáo dục và Đào tạo huyện Vĩnh Thạnh, đã chấp thuận và
tạo điều kiện cho tác giả được tham gia khoá học này.
Quí thầy cô CBQL Phòng GD& ĐT, Hiệu trưởng, P.Hiệu trưởng và tất cả thầy cô các
trường THCS huyện Vĩnh Thạnh, thành phố Cần Thơ, đã cung cấp những thông tin bổ ích; quý
đồng nghiệp, bạn bè cùng lớp CBQL khóa 18, đã cung cấp những tài liệu, góp ý quý báu để tác giả
hoàn thành luận văn này.
Mặc dù, tác giả đã hết sức cố gắng, nhưng chắc chắn không tránh khỏi những sai sót. Tác
giả kính mong nhận được sự chỉ dẫn, góp ý và giúp đỡ của Quý thầy cô, cán bộ quản lý và các bạn
đồng nghiệp.
Tác giả xin chân thành cám ơn!
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài:
Ngay từ đầu thập niên 90 của thế kỷ 20, tổ chức Unesco đã nêu lên 4 trụ cột của cải
cách giáo dục và đặc biệt nhấn mạnh: thời đại mới đòi hỏi con người phải có cái nhìn mới,
cách nghĩ mới và những kiến thức kỹ năng mới của chính thời dại mình. Nói cụ thể hơn,
con người mới đó phải có khả năng tư duy độc lập, có phương pháp tư duy hệ thống và cách
nhìn toàn thể; có năng lực sáng tạo và tinh thần đổi mới; có khả năng thích ứng với sự thay
đổi thường xuyên, đa dạng, phức tạp, đầy biến động bất ngờ và bất định; có năng lực hành
động hiệu quả và tinh thần hợp tác trong một môi trường đa văn hóa của một thế giới toàn
cầu hóa. (Võ Nguyên Giáp).
Sang thế kỷ 21, Việt Nam đã và đang trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa,
thì nhiều nước trên thế giới đã vượt qua thời đại cách mạng CN, đi vào thời đại thông tin,
xây dựng nền kinh tế tri thức và xã hội tri thức. Điều đó cho thấy, đã có sự chênh lệch khá
lớn về trình độ kinh tế, khoa học công nghệ giữa nước ta với các nước trong khu vực và
trên thế giới, mà nguyên nhân chính là do có sự khác biệt về trình độ, trí tuệ, năng lực sáng
tạo và khả năng chuyên môn của nguồn nhân lực. Nguồn nhân lực đó, chính là sản phẩm
của quá trình giáo dục và đào tạo.
Trong xu thế phát triển của thế giới hiện nay, và vấn đề toàn cầu hóa nền KTTT đã
làm cho các quốc gia dân tộc trên thế giới “ xích lại gần nhau ”. Mỗi nước đều có biện pháp
cạnh tranh để phát triển, nhưng không có con đường nào khác hơn là phải xuất phát từ GD
và bằng GD để xây dựng nguồn nhân lực có chất lượng cao phục vụ cho mục tiêu phát triển
kinh tế, văn hóa, xã hội
Ở Việt Nam, Đảng ta cũng đã xác định: “ GD là quốc sách hàng đầu ”, đầu tư cho giáo
dục là đầu tư cho sự phát triển. Vì vậy, khi đề cập đến phát triển GD&ĐT để phục vụ cho sự
nghiệp CNH, HĐH đất nước thì không phải chỉ chú trọng đến đổi mới ở bậc Đại Học, Cao
Đẳng hay Trung Cấp dạy nghềmà phải có sự đổi mới và phát triển toàn diện trong hệ
thống GD quốc dân.
Trong hệ thống GD quốc dân, Trung học cơ sở là cầu nối giữa tiểu học và Trung học
phổ thông. Đây là cấp học mang tính liên thông kiến thức, giúp “ Học sinh củng cố và phát
triển những kết quả của GD Tiểu học; có học vấn phổ thông ở trình độ cơ sở và những hiểu
biết ban đầu về kỹ thuật và hướng nghiệp để tiếp tục học THPT, Trung cấp, học nghề hoặc đi
vào cuộc sống lao động ” [24].
Trong những năm qua, việc huy động HS, duy trì sỉ số, đảm bảo chất lượng HS lên lớp,
tốt nghiệp THCS ở huyện Vĩnh Thạnh, thành phố Cần Thơ khá ổn định; đặc biệt năm 2004
được UBND tỉnh Cần Thơ cũ công nhận đạt chuẩn quốc gia về phổ cập THCS. Trong đó,
phải kể đến vai trò lãnh đạo, quản lý hoạt động giảng dạy của HT các trường THCS. Tuy
nhiên, trước yêu cầu đổi mới, nâng cao chất lượng GD&ĐT trong điều kiện phát triển kinh
tế, văn hóa, xã hội nhanh chóng hiện nay thì việc quản lý hoạt động giảng dạy của HT các
trường THCS đã có bộc lộ những hạn chế, chưa ngang tầm. Từ đó, chất lượng dạy học giữa
các trường có chênh lệch lớn; HS tốt nghiệp THCS khá cao nhưng tỉ lệ trúng tuyển vào các
trường THPT còn thấpVì vậy, chọn đề tài nghiên cứu quản lý hoạt động giảng dạy của
HT các trường THCS huyện Vĩnh Thạnh, Thành phố Cần Thơ. Trên cơ sở nghiên cứu, tôi
đề xuất những giải pháp nâng cao chất lượng quản lý hoạt động này là vấn đề cấp thiết hiện
nay.
Sở dĩ tôi chọn đề tài này, bởi vì bản thân tôi công tác nhiều năm trong ngành GD&ĐT
và đã làm công tác quản lý tại phòng GD&ĐT huyện Vĩnh Thạnh, ( phụ trách chuyên môn ).
Vì vậy, tôi có điều kiện và kinh nghiệm thực hiện đề tài.
2. Mục đích của đề tài nghiên cứu.
Làm rõ việc quản lý HĐGD của HT các trường THCS huyện Vĩnh Thạnh, thành phố
Cần Thơ; tìm ra nguyên nhân và đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng quản lý
HĐGD trong thời gian tới.
3. Đối tượng nghiên cứu và khách thể nghiên cứu.
3.1. Đối tượng nghiên cứu.
Quản lý HĐGD của HT các trường THCS huyện Vĩnh Thạnh, thành phố Cần Thơ.
3.2. Khách thể nghiên cứu.
Hoạt động quản lý của HT và HĐGD của GV các trường THCS huyện Vĩnh Thạnh,
thành phố Cần Thơ.
4. Giả thuyết khoa học.
Quản lý HĐGD của HT các trường THCS huyện Vĩnh Thạnh, thành phố Cần Thơ, đã
đạt được kết quả khá tốt. Tuy nhiên, vẫn còn những bất cập chưa đáp ứng được yêu cầu đổi
mới . Nguyên nhân chưa đáp ứng được những yêu cầu này, có thể phần lớn là do sự quản lý
của hiệu trưởng.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu.
5.1. Làm rõ cơ sở lý luận liên quan đến quản lý HĐGD của HT các trường THCS
huyện Vĩnh Thạnh, thành phố Cần Thơ.
5.2. Khảo sát, phân tích, đánh giá về thực trạng quản lý hoạt động giảng dạy của HT
các trường THCS huyện Vĩnh Thạnh, thành phố Cần Thơ, trong giai đoạn mới.
5.3. Trên cơ sở lý luận và thực trạng quản lý HĐGD, đề xuất một số giải pháp nâng
cao chất lượng quản lý HĐGD của HT các trường THCS huyện Vĩnh Thạnh, thành phố Cần
Thơ.
6. Giới hạn và phạm vi nghiên cứu.
- Giới hạn nghiên cứu: luận văn chỉ nghiên cứu nội dung công tác quản lý các hoạt
động giảng dạy trong nhà trường, không nghiên cứu việc quản lý hoạt động học tập của học
sinh cũng như các hoạt động giáo dục khác.
- Phạm vi nghiên cứu: đề tài tập trung khảo sát, nghiên cứu tại 09/09 trường THCS
đóng trên địa bàn huyện Vĩnh Thạnh, thành phố Cần Thơ, trong 02 năm học 2008 - 2009,
2009 - 2010 và đề xuất một số giải pháp.
1. Trường THCS Thị Trấn Thạnh An.
2. Trường THCS Thị Trấn Thạnh An 1.
3. Trường THCS Thị Trấn Vĩnh Thạnh.
4. Trường THCS Thạnh An.
5. Trường THCS Thạnh Thắng.
6. Trường THCS Thạnh Thắng 1.
7. Trường THCS Thạnh Lộc.
8. Trường THCS Thạnh Mỹ.
9. Trường THCS Vĩnh Trinh.
7. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu.
7.1. Phương pháp luận nghiên cứu.
- Quan điểm hệ thống, cấu trúc.
Thể hiện trong việc xác định mối quan hệ tương tác giữa công tác quản lý hoạt động
giảng dạy với các mối quan hệ khác của công tác quản lý nói chung được trình bày có hệ
thống, lô gic.
- Quan điểm lịch sử, lô gíc: nghiên cứu thực trạng quản lý hoạt động giảng dạy ở 09
trường THCS trên địa bàn huyện Vĩnh Thạnh, thành phố Cần Thơ trong năm học 2008 -
2009 và 2009 - 2010.
- Quan điểm thực tiễn: phương pháp này giúp tác giả tìm hiểu những mâu thuẫn, tồn
tại trong công tác quản lý HĐGD của HT. Qua đó, đề ra một số giải pháp đảm bảo tính khả
thi và phù hợp với điều kiện giảng dạy ở các trường THCS trên địa bàn huyện Vĩnh Thạnh,
thành phố Cần Thơ.
7.2. Phương pháp nghiên cứu.
Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau:
7.2.1. Nhóm các phương pháp nghiên cứu lý luận.
- Đọc sách, báo, tạp chí và thu thập các tài liệu thực tế, tìm hiểu đặc trưng, tính chất có
liên quan đến đề tài để xây dựng cơ sở lý luận cho việc nghiên cứu.
- Căn cứ vào điều lệ trường phổ thông, các văn kiện, chỉ thị nghị quyết của Đảng và
nhà nước; các báo cáo sơ, tổng kết năm học của các trường, phòng giáo dục và đào tạo huyện
Vĩnh Thạnh, sở giáo dục và đào tạo thành phố Cần Thơ. Trên cơ sở đó, phân tích đánh giá
thực trạng việc quản lý HĐGD của HT các trường THCS.
7.2.2. Nhóm các phương pháp nghiên cứu thực tiễn.
- Phương pháp điều tra: Nhằm làm rõ thực trạng quản lý HĐGD của giáo viên, quản
lý HĐGD của HT và nguyên nhân của thực trạng, với mẫu ngẫu nhiên dành cho CBQL ở
PGD&ĐT và 09 trường THCS huyện Vĩnh Thạnh, thành phố Cần Thơ, gồm có các đối
tượng như chuyên viên PGD&ĐT, HT, các phó HT, tổ trưởng chuyên môn và giáo viên với
số lượng 288 phiếu hỏi. Kết quả điều tra, sẽ được xử lý bằng phương pháp toán học thống
kê, để chứng minh cho giả thuyết khoa học.
Ngoài những phương pháp trên, tác giả sẽ kết hợp với các phương pháp:
- Phương pháp quan sát.
- Phương pháp phỏng vấn.
- Phương pháp nghiên cứu sản phẩm HĐGD.
8. Đóng góp mới của đề tài.
8.1. Về lí luận: Bằng những tư liệu tổng hợp liên quan đến đề tài, sẽ làm rõ được lí
luận về quản lý hoạt động giảng dạy của Hiệu trưởng các trường THCS huyện Vĩnh Thạnh,
thành phố Cần Thơ.
8.2. Về thực tiễn: Bằng những số liệu do các phương pháp đưa lại sẽ làm rõ được thực
trạng về hoạt động QLGD của HT. Đồng thời, tìm ra nguyên nhân của những điều chưa đáp
ứng yêu cầu, tác giả sẽ đưa ra những giải pháp khá hoàn thiện việc quản lý HĐGD của HT
các trường THCS huyện Vĩnh Thạnh, thành phố Cần Thơ.
9. CẤU TRÚC LUẬN VĂN .
Luận văn được chia làm 3 phần.
Phần 1 : Mở đầu.
Phần 2 : Nội dung .
Chương 1 : Cơ sở lý luận về công tác quản lý HĐGD của hiệu trưởng trường
THCS.
Chương 2 : Thực trạng quản lý HĐGD của HT các trường THCS huyện Vĩnh
thạnh, thành phố Cần Thơ.
Chương 3 : Một số giải pháp quản lý HĐGD của HT các trường THCS huyện Vĩnh
thạnh, thành phố Cần Thơ, trong thời gian tới.
Phần 3 : Kết luận và kiến nghị .
Danh mục tài liệu tham khảo .
Phụ lục .
NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN VỀ CÔNG TÁC QUẢN LÍ HOẠT ĐỘNG GIẢNG
DẠY CỦA HIỆU TRƯỞNG TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ SỞ.
1.1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề.
Quản lý là một trong những chức năng lao động bắt nguồn từ tính chất xã hội của lao
động. Từ khi xuất hiện nền sản xuất xã hội, các quan hệ kinh tế, quan hệ xã hội càng tăng lên
thì sự phối hợp các hoạt động riêng rẽ cũng tăng lên tương ứng. Ngay từ buổi bình minh xã
hội loài người, để cải tạo và chinh phục tự nhiên, để tồn tại và phát triển con người phải giảm
dần lao động cá thể để lao động chung, kết hợp lại thành tập thể. Điều đó đòi hỏi phải có sự
tổ chức, phải có phân công và hợp tác nhằm thực hiện mục tiêu chung đã định trong lao động
tức là phải có sự quản lý. Nói cách khác ngay từ khi con người bắt đầu lao động thành nhóm,
đã đòi hỏi có sự phối hợp hoạt động của các cá nhân để duy trì sự sống, do đó cần phải có sự
quản lý.
Các Mác đã từng nói rằng, tất cả mọi lao động xã hội trực tiếp hay lao động chung nào
tiến hành trên quy mô tương đối lớn, thì ít nhiều cũng cần đến một sự chỉ đạo để điều hoà
những hoạt động cá nhân và thực hiện chức năng chung phát sinh từ sự vận động của toàn bộ
cơ thể, khác với sự vận động của các khí quan độc lập của nó; một người độc tấu vĩ cầm tự
mình điều khiển lấy mình, còn dàn nhạc thì cần phải có nhạc trưởng.
Như vậy, quản lý xã hội về thực chất là một loại lao động xã hội bắt nguồn từ tính chất
cộng đồng dựa trên sự phân công và hợp tác để làm một công việc nhằm đạt được mục tiêu
chung. Lao động xã hội và quản lý không thể tách rời nhau và quản lý là lao động điều khiển
lao động chung. Khi xã hội phát triển với sự ra đời và thay thế các phương thức sản xuất và
khi sản xuất đạt đến một quy mô phát triển nhất định thì sự phân công lao động tất yếu sẽ
dẫn đến việc tách quản lý thành một hoạt động đặc biệt. Lúc này, xã hội sẽ xuất hiện một bộ
phận trực tiếp sản xuất, một bộ phận khác chuyên hoạt động quản lý, hình thành mối quan hệ
trong quản lý. Quản lý là một khoa học. Hai vấn đề cơ bản trong tổ chức khoa học lao động
là phân công lao động và hợp tác lao động.
Ngày nay, trong điều kiện nền kinh tế tri thức, quản lý được xem là một trong năm
nhân tố phát triển kinh tế - xã hội: vốn, nguồn nhân lực lao động, khoa học - công nghệ, tài
nguyên và quản lý. Trong đó quản lý có vai trò quyết định sự thành công, bởi chỉ có tác động
có tổ chức, có mục đích của chủ thể quản lý lên đối tượng quản lý mới có thể sử dụng có
hiệu quả nhất các tiềm năng, các cơ hội của hệ thống để đạt mục tiêu đề ra trong điều kiện
môi trường luôn biến động và những thách thức.
Quản lý giáo dục là một hoạt động thuộc lĩnh vực khoa học giáo dục. Trong quản lý
giáo dục, quản lý chuyên môn là lĩnh vực được xem là quan trọng và phức tạp nhất, trong đó
có quản lý hoạt động giảng dạy của giáo viên. Trong trường THCS đây là lĩnh vực quản lý
rất khó cho người hiệu trưởng bởi chuyên môn bậc THCS có tính chất chuyên biệt và chuyên
sâu, hiệu trưởng cần phải có đội ngũ tham mưu giúp việc giỏi chuyên môn, nhiệt tình. Mục
tiêu chủ yếu của công việc này, là đảm bảo chất lượng giảng dạy và giáo dục học sinh theo
mục tiêu cấp học. Để làm tốt công tác quản lý nhà trường trong đó có quản lý hoạt động của
giáo viên, người hiệu trưởng phải nghiên cứu thực tiễn quản lý nhà trường để tìm ra những
biện pháp quản lý hữu hiệu nhất, khả thi nhất.
- Theo một số nhà nghiên cứu quản lý giáo dục:
* Nghiên cứu ở nước ngoài.
Các nhà nghiên cứu quản lý giáo dục Xô Viết trong những công trình nghiên cứu của
mình đã cho rằng: “ Kết quả toàn bộ hoạt động của nhà trường phụ thuộc rất nhiều vào công
việc tổ chức đúng đắn và hợp lý công tác hoạt động dạy học ”[47] .
P.V.Zimin, M.I.Kôndakôp, N.I.Saxerđôtôp đi sâu nghiên cứu lãnh đạo công tác dạy học,
giáo dục trong nhà trường và xem đây là khâu then chốt trong hoạt động quản lý của người
làm công tác quản lý giáo dục. [47]
V.A.Xukhômlinxki, Jaxapob nêu lên một số vấn đề quản lý của Hiệu trưởng các trường
phổ thông như phân công nhiệm vụ giữa HT và Phó Hiệu trưởng. V.A Xukhomlinxki đã
tổng kết những thành công cũng như thất bại qua kinh nghiệm thực tiễn làm công tác quản lý
chuyên môn nghiệp vụ của hiệu trưởng, cùng với nhiều tác giả khác ông đã nhấn mạnh đến
sự phân công hợp lý, sự phối hợp chặt chẽ, sự thống nhất quản lý giữa hiệu trưởng và phó
hiệu trưởng để đạt được mục tiêu hoạt động dạy học đã đề ra. Các tác giả thống nhất khẳng
định người HT phải là người lãnh đạo toàn diện và chịu trách nhiệm chính trong công tác
quản lý nhà trường [49].
Về xây dựng và bồi dưỡng đội ngũ GV các nhà nghiên cứu giáo dục cũng coi đây là
nhiệm vụ vô cùng quan trọng của người làm công tác quản lý giáo dục. Họ còn thống nhất
rằng: Một trong những giải pháp hữu hiệu nhất để nâng cao chất lượng hoạt động dạy học
trong nhà trường là phải bồi dưỡng đội ngũ GV, phát huy tính sáng tạo trong giảng dạy và
nâng cao dần trình độ chuyên môn nghiệp vụ của đội ngũ GV.
Về tổ chức dự giờ và phân tích sư phạm bài dạy, tác giả V.A.Xukhômlinxki nhấn mạnh
hoạt động dự giờ thăm lớp và đưa ra nhiều cách phân tích sư phạm bài dạy cho GV. Đó là
đòn bẩy nâng cao chất lượng dạy học của đội ngũ GV [49].
Qua các công trình nghiên cứu, các nhà nghiên cứu giáo dục khẳng định rằng: kết quả
toàn bộ hoạt động quản lý của nhà trường phụ thuộc nhiều vào việc tổ chức đúng đắn và hợp
lý HĐGD của đội ngũ GV [48].
* Ở Việt Nam.
Vấn đề nâng cao chất lượng hoạt động chuyên môn của GV đã thu hút được sự quan
tâm cũng như nhiều nhà nghiên cứu như là tác giả PGS.TS Nguyễn Ngọc Hợi, PGS.TS
Phạm Minh Hùng, TS. Thái Văn Thành khi nghiên cứu các tác giả đã nêu lên nguyên tắc
chung về nâng cao chất lượng của đội ngũ GV như: Xác định đầy đủ nội dung hoạt động
chuyên môn; Xây dựng hoàn thiện quy chế đánh giá, xếp loại chuyên môn của GV; Tổ chức
đánh giá, xếp loại chuyên môn của GV . Nhất là trong giai đoạn hội nhập, đổi mới những
năm qua, Đảng và nhà nước ta rất quan tâm đến sự phát triển GD&ĐT, được thể hiện qua
các văn bản cụ thể như sau:
Chỉ thị 40 CT/TW ngày 15/06/2004 của Ban Bí thư khóa IX, về việc xây dựng, nâng
cao chất lượng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục đã nêu rõ: “ Phát triển giáo dục
và đào tạo là quốc sách hàng đầu, là một trong những động lực quan trọng thúc đẩy sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, là điều kiện để phát huy nguồn nhân lực con
người. Đây là trách nhiệm của toàn Đảng, toàn dân, trong đó nhà giáo và cán bộ quản lý
giáo dục là lực lượng nòng cốt, có vai trò quan trọng ”.
Chỉ thị đã nhấn mạnh đến tầm quan trọng của cán bộ quản lý giáo dục và thể hiện rõ:
“ Mục tiêu là xây dựng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục được chuẩn hóa, đảm
bảo chất lượng, đủ về số lượng, đồng bộ về cơ cấu, đặc biệt chú trọng nâng cao bản lĩnh
chính trị, phẩm chất, lối sống, lương tâm, tay nghề của nhà giáo; thông qua việc quản lý,
phát triển đúng định hướng và có hiệu quả sự nghiệp giáo dục để nâng cao chất lượng
nguồn nhân lực, đáp ứng những yêu cầu ngày càng cao của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước”.
Nghị quyết số 37/2004/QH11 của Quốc hội khóa XI, kỳ họp thứ 6 từ ngày 25/10 đến
ngày 03/12/2004, về giáo dục đã nêu: “ Tập trung xây dựng đội ngũ nhà giáo và cán bộ
quản lý giáo dục đủ về số lượng, đồng bộ về cơ cấu, đạt chuẩn về trình độ đào tạo; đặc biệt
coi trọng việc nâng cao bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức, lương tâm, trách nhiệm nghề
nghiệp ”.
- Thực hiện Chỉ thị, nghị quyết trên, ngày 11 tháng 01 năm 2005, Phó Thủ tướng
Chính phủ Phạm Gia Khiêm đã ký Quyết định số 09/2005/QĐ-TTg về việc phê duyệt Đề án
Xây dựng, nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo và CBQLGD giai đoạn 2005-2010. Mục
tiêu tổng quát là: “ xây dựng đội ngũ nhà giáo và CBQLGD theo hướng chuẩn hóa, nâng cao
chất lượng, đảm bảo đủ về số lượng, đồng bộ về cơ cấu, đặc biệt chú trọng nâng cao bản
lĩnh chính trị, phẩm chất, lối sống, lương tâm nghề nghiệp và trình độ chuyên môn của nhà
giáo, đáp ứng những đòi hỏi ngày càng cao của sự nghiệp giáo dục trong công cuộc đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước ”. Nhiệm vụ là “Tăng cường sự lãnh đạo của
Đảng để tiếp tục xây dựng và nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo, CBQLGD. Đẩy mạnh
tuyên truyền nâng cao nhận thức của toàn xã hội về vai trò, trách nhiệm của nhà giáo và
nhiệm vụ xây dựng đội ngũ nhà giáo, CBQLGD có chất lượng cao, giỏi về chuyên môn,
nghiệp vụ, trong sáng về đạo đức, tận tụy với nghề nghiệp, làm trụ cột thực hiện các mục
tiêu nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài ”.
- Trong những năm qua, đã có nhiều công trình nghiên cứu về lý luận cũng như các
giải pháp phát triển giáo dục. Chiến lược phát triển giáo dục giai đoạn 2001 - 2010 nêu bảy
nhóm giải pháp phát triển giáo dục “ Trong đó, đổi mới chương trình giáo dục, phát triển
đội ngũ nhà giáo là giải pháp trọng tâm; đổi mới quản lý giáo dục là khâu đột phá ”.
Xuất phát từ những yêu cầu đổi mới của sự phát triển giáo dục trong thời kỳ công
nghiệp hóa, hiện đại hóa, đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục còn có những hạn chế
và bất cập. Tình hình trên đòi hỏi phải tăng cường xây dựng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản
lý một cách toàn diện. Đây là nhiệm vụ vừa đáp ứng yêu cầu trước mắt, vừa mang tính chiến
lược lâu dài, nhằm thực hiện thành công Chiến lược phát triển giáo dục 2001