Giáo dục và đào tạo là một hoạt động xã hội rộng lớn có liên quan trực tiếp
đến lợi ích, nghĩa vụ và quyền lợi của mọi người dân mọi tổ chức kinh tề xã hội
đồng thời có tác động mạnh mẽ đến tiến trình phát triển nhanh hay chậm của một
quốc gia. Giáo dục và đào tạo phải đi trước một bước, giáo dục và đào tạo là quốc
sách hàng đầu, đầu tư cho giáo dục là đâu tư cho phát triển. Do vậy, bất kỳ quốc
gia nào trên thế giới dù lớn hay nhỏ, dù giàu hay nghèo, dù phát triển hay đang
phát triển bao giờ cũng quan tâm đến giáo dục và đào tạo mà trong đó khâu quan
trọng là quản lí Nhà nước về giáo dục và đào tạo .
Trong thời gian qua, giáo dục và đào tạo nước ta có bước phát triển mới,
chúng ta đã đạt chuẩn quốc gia về xoá mù chữ và phổ cập giáo dục tiểu học, trình
độ dân trí được nâng lên, góp phần tích cực đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng yêu
cầu đẩy mạnh công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước .Tuy nhiện nền giáo dục
nước ta còn phải đối mặt với nhiều khó khăn yếu kém nhất là chất lượng và khâu
quản lý giáo dục và đào tạo , việc đào tạo nguồn nhân lực của hệ thống giáo dục
chưa đáp ứng nhu cầu của đổi mới kinh tế xã hội , hội nhập kinh tế quốc tế và
nguồn nhân lực trong thế kỷ XXI. Để giải quyết vấn đề này, văn kiện hội nghị lần
thứ chín ban chấp hành Trung ương Đảng khoá IX đã đưa ra giải pháp then chốt
đó là “đổi mới và nâng cao năng lực quản lý Nhà nước trong giáo dục và đào tạo,
đẩy mạnh đổi mới nội dung chương trình và phương pháp giáo dục theo hướng
hiện đại cùng với đổi mới cơ chế quản lý”
31 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 4887 | Lượt tải: 8
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Quản lý Nhà nước về giáo dục và đào tạo tại nước ta trong giai đoạn hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1
LUẬN VĂN:
Quản lý Nhà nước về giáo dục và
đào tạo ở nước ta trong giai đoạn
hiện nay
2
a.Phần mở đầu
Giáo dục và đào tạo là một hoạt động xã hội rộng lớn có liên quan trực tiếp
đến lợi ích, nghĩa vụ và quyền lợi của mọi người dân mọi tổ chức kinh tề xã hội
đồng thời có tác động mạnh mẽ đến tiến trình phát triển nhanh hay chậm của một
quốc gia. Giáo dục và đào tạo phải đi trước một bước, giáo dục và đào tạo là quốc
sách hàng đầu, đầu tư cho giáo dục là đâu tư cho phát triển. Do vậy, bất kỳ quốc
gia nào trên thế giới dù lớn hay nhỏ, dù giàu hay nghèo, dù phát triển hay đang
phát triển bao giờ cũng quan tâm đến giáo dục và đào tạo mà trong đó khâu quan
trọng là quản lí Nhà nước về giáo dục và đào tạo .
Trong thời gian qua, giáo dục và đào tạo nước ta có bước phát triển mới,
chúng ta đã đạt chuẩn quốc gia về xoá mù chữ và phổ cập giáo dục tiểu học, trình
độ dân trí được nâng lên, góp phần tích cực đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng yêu
cầu đẩy mạnh công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước .Tuy nhiện nền giáo dục
nước ta còn phải đối mặt với nhiều khó khăn yếu kém nhất là chất lượng và khâu
quản lý giáo dục và đào tạo , việc đào tạo nguồn nhân lực của hệ thống giáo dục
chưa đáp ứng nhu cầu của đổi mới kinh tế xã hội , hội nhập kinh tế quốc tế và
nguồn nhân lực trong thế kỷ XXI. Để giải quyết vấn đề này, văn kiện hội nghị lần
thứ chín ban chấp hành Trung ương Đảng khoá IX đã đưa ra giải pháp then chốt
đó là “đổi mới và nâng cao năng lực quản lý Nhà nước trong giáo dục và đào tạo,
đẩy mạnh đổi mới nội dung chương trình và phương pháp giáo dục theo hướng
hiện đại cùng với đổi mới cơ chế quản lý”
Nhằm góp phần làm sáng tỏ những vấn đề trên cùng với sự tâm huyết của
bàn thân về giáo dục và đào tạo nước nhà hiện nay, bản thân quyết định chọn đề
tài tiểu luận “Quản lý Nhà nước về giáo dục và đào tạo ở nước ta trong giai
đoạn hiện nay” làm hướng nghiên cứu cho môn học quản lý nhà nước. Song do
điều kiện và hạn chế về thời gian môn học nên đề tài chỉ đi sâu giải quyết nội
dung và giải pháp đổi mới quản lý Nhà nước về giáo dục trong thập niên đầu của
thế kỷ XXI.
3
B.Nội dung
1.Một số vấn đề chung về quản lý nhà nước và quản lý nhà nước về
giáo dục và đào tạo
1.1.Một số khái niệm liên quan
- Quản lý là một khái niệm được xem xét ở hai góc độ :
+ Theo góc độ chính trị xã hội ,quản lý được hiểu là sự kết hợp giữa tri
thức với lãnh đạo ,vận hành sự kết hợp này cần có một cơ chế quản lý phù hợp.
Cơ chế đúng hợp ý thì xã hội phát triển ,ngược lại cơ chế sai thì xã hội phát triển
chậm hoặc rối ren.
+ Theo góc độ hành động quản lý được hiểu là chỉ huy, điều khiển, điều
hành.
Theo C.Mác, quản lý, quản lý xã hội là chức năng được sinh ra từ tinh chất
xã hội hoá lao động . Người viết : “Tất cả mọi lao động xã hội trực tiếp hay lao
động chung nào tiến hành trên quy mô tương đối lớn ,thì ít nhiều cũng đều cần
một sự chỉ đạo để điều hoà những hoạt động cá nhân và thực hiện những chức
năng chung phát sinh từ sự vận động của toàn bộ cơ thể sản xuất khác với sự vận
động của những khí quan độc lập của nó .Một người độc tấu vĩ cầm điều khiển
lấy mình, còn một dàn nhạc thì cần phải có nhạc trưởng”. [14, tr480].
+ Từ cơ sở lý luận trên, ta thấy quản lý là sự tác động có ý thức của chủ thể
quản lý lên đối tượng quản lý nhằm chỉ huy, điều hành, hướng dẫn các quá trình
xã hội và hành vi của cá nhân hướng đến mục đích hoạt động chung và phù hợp
với quy luật khách quan.
- Quản lý nhà nước:
+ Quản lý nhà nước ra đời cùng với sự xuất hiện của nhà nước là sự quản
lý của nhà nước đối với xã hội và công dân .
4
+ Quản lý nhà nước là sự chỉ huy, điều hành xã hội để thực hiện quyền lực
nhà nước, là tổng thể và thể chế về tổ chức và cán bộ của bộ máy nhà nước có
trách nhiệm quản lý công việc hàng ngày của nhà nước ,do các cơ quan nhà nước
(lập pháp ,hiến pháp ,tư pháp ) có tư cách pháp nhân công pháp (công quyền )tiến
hành bằng các văn bản quy phạm pháp luật để thực hiện các chức năng ,nhiệm vụ
và quyền hạn mà nhà nước đã giao cho trong việc tổ chức và điều khiển các quan
hệ xã hội và hành vi của công dân .
5
- Phân biệt khái niệm “quản lý nhà nước” và “nhà nước quản lý”
+ “Quản lý nhà nước” là dạng quản lý xã hội thực thi quyền lực nhà nước,
dạng quản lý này được thể hiện trong các cơ quan hành chính nhà nước.
+ “Nhà nước quản lý” là nói đến các chủ thể quản lý ,đó là hệ thống tổ
chức của các cơ quan nhà nước, trong đó có các cơ quan hành chính nhà nước.
- Giáo dục và đào tạo
+ Giáo dục là một quá trình được tổ chức một cách có mục đích ,có kế hoạch
nhằm truyền lại và lĩnh hội những tri thức được tích luỹ của loài người.
Đào tạo là một quá trình đặc thù của giáo dục ,nó hướng về giáo dục
chuyên nghiệp .Đó là sự phát triển có hệ thống các tri thức, kỹ năng, kỹ xảo …đòi
hỏi ở một cá nhân để thực hiện nhiệm vụ chuyên môn nhất định
- Quản lý nhà nước về giáo dục và đào tạo: từ khái niệm quản lý nhà nước,
giáo dục, đào tạo ta có thể rút ra khái niệm quản lý nhà nước về giáo dục đào tạo
như sau :
+ Quản lý nhà nước về giáo dục đào tạo chính là việc nhà nước thực hiện
quyền lực công để điều hành ,điều chỉnh toàn bộ các hoạt động giáo dục và đào
tạo trong phạm vi toàn xã hội để thực hiện mục tiêu giáo dục của nhà nước.
Hay: Quản lý nhà nước về giáo dục và đào tạo là sự quản lý của các cơ
quan quyền lực nhà nước ,của bộ máy quản lý giáo dục từ trung ương đến cơ sở
đói với hệ thống giáo dục quốc dân và các hoạt động giáo dục của xã hội nhằm
nâng cao dân trí ,đào tạo nhân lực ,bồi dưỡng nhân tài cho đất nước và hoàn thiện
nhân cách cho nhân dân .
1.2. Quan điểm, mục tiêu của Đảng, nhà nước về giáo dục và đào tạo
* Quan điểm :
6
+ Giáo dục và đào tạo là một lĩnh vực rất quan trọng của đời sống xã hội
,nó liên quan đến nhiều lĩnh vực khác cho nên Đảng và nhà nước ta rất chú trọng
phát triển giáo dục và đào tạo .Những năm qua quan điểm của Đảng và nhà nước
chủ yếu tập trung ở nghị quyết trung ương hai khoá VIII(nghị quyết chuyên đề về
giáo dục và đào tạo);kết luận của hội nghị lần thứ sáu ban chấp hành trung ương
Đảng khoá IX;nghị quyết Hội nghị lần thứ chín Ban chấp hành Trung ương Đảng
khoá IX ;văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX,X; luật giáo dục sửa đổi
thông qua ngay 14 tháng 6 năm 2005.
Qua các văn kiện này thể hiện một số quan điểm chỉ đạo phát triển giáo dục
và đào tạo như sau:
- Giáo dục và đào tạo nhằm vào xây dựng con người có đầy đủ phẩm chất
để xây dựng và bảo vệ đất nước.
- Giữ vững mục tiêu xã hội chủ nghĩa trong giáo dục và đào tạo ,nhất là
chính sách công bằng xã hội .
- Thực sự coi giáo dục là quốc sách hàng đầu, cùng với khoa học và công
nghệ, giáo dục và đào tạo là yếu tố quyết định góp phần tăng trưởng kinh tế và
phát triển xã hội .
- Giáo dục và đào tạo là sự nghiệp của toàn Đảng , của Nhà nước và của
toàn dân;mọi người, mọi cấp chăm lo cho giáo dục và đào tạo.
- Giáo dục và đào tạo phải gắn với nhu cầu phát triển khinh tế –xã hội, với
khoa học , công nghệ và củng cố quốc phòng an ninh.
- Giữ vững vai trò nòng cốt của các trường công lập sông song với đa dạng
hoá các loại hình giáo dục-đào tạo.
- Chăm lo cho giáo dục và đào tạo là chăm lo cho con người và xã hội phát
triển với các yêu cầu và tiêu chí được xác lập.
7
- Phát triển giáo dục và đào tạo phải theo nguyên lí :học đI đôI với hành,
giáo dục kết hợp với lao động sản xuất, lí luận gắn liền với thực tiễn , giáo dục
nhà trường kết hợp với giáo dục gia đình và giáo dục xã hội .
* Mục tiêu :
Theo luật giáo dục 2005 thì mục tiêu giáo dục là đào tạo con người Việt Nam
phát triển toàn diện , có đạo đức , tri thức, sức khoẻ, thẩm mĩ và nghề nghiệp ,
trung thành với lí tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; hình thành và bồi
dưỡng nhân cách , phẩm chất và năng lực của công dân , đáp ứng yêu cầu của sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
1.3. Tính chất, đặc điểm và nguyên tắc quản lí Nhà nước về giáo dục và
đào tạo
* Tính chất của quản lí Nhà nước về giáo dục và đào tạo.
Quản lí Nhà nước về giáo dục và đào tạo là quản lí Nhà nước về một lĩnh
vực cụ thể cho nên nó có tính chất chung của quản lí Nhà nước và quản lí hành
chính Nhà nước, cụ thể như sau:
- Tính lệ thuộc vào chính trị:quản lí Nhà nước về giáo dục ,phục tùng và phục
vụ nhiệm vụ chính trị, tuân thủ chủ trương , đường lối của Đảng và Nhà nước.
- Tính xã hội: giáo dục là sự nghiệp của Nhà nước và của toàn xã hội. Trong
quản lí Nhà nước về giáo dục và đào tạo cần phải coi trọng tính xã hội và dân chủ
hoá giáo dục.
- Tính pháp quyền: quản lí Nhà nước là quản lí bằng pháp luật vì vậy quản lí
Nhà nước về giáo dục và đào tạo cũng phải tuân thủ những qui định chung của
pháp luật.
8
- Tính chuyên môn, nghiệp vụ: cán bộ –công chức hoạt động trong lĩnh vực
giáo dục và đào tạo cần được đào tạo có trình độ tương ứng với yêu cầu về tiêu
chuẩn các ngạch chức danh đã dược qui định.
- Tính hiệu lực, hiệu quả , lấy hiệu quả của hoạt động chuyên môn nghiệp vụ
để đánh giá cán bộ công chức ngành giáo dục và đào tạo.
* Đặc điểm của quản lí Nhà nước về giáo dục và đào tạo:
- Đặc điểm kết hợp quản lí hành chính và quản lí chuyên môn trong các hoạt
động quản lí giáo dục và đào tạo : quản lí Nhà nước về giáo dục và đào tạo ở cơ sở
thực chất là triển khai các hoạt động hành chính Nhà nước trong quá trình chỉ đạo các
hoạt động giáo dục ở cơ sở. Đặc điểm hành chính-giáo dục là đặc điểm quan trọng
nhất trong hoạt động quản lí Nhà nước về giáo dục và đào tạo. Chỉ trên cơ sở biết
kết hợp quản lí hành chính và quản lí chuyên môn thì mới có thể chỉ đạo tốt hoạt
động giáo dục và đào tạo.
- Đặc điểm về tính quyền lực Nhà nước trong hoạt động quản lí .Đây là hoạt
động nổi bật của quản lí Nhà nước và quản lí hành chính ở mọi lĩnh vực nói chung ,
đó là tính quyền lực trong hoạt động quản lí :tư cách pháp nhân trong quản lí, công cụ
và phương pháp quản lí và quan hệ thứ bậc trong quản lí.
- Đặc điểm kết hợp Nhà nước- xã hội trong quá trình triển khai quản lí Nhà
nước về giáo dục và đào tạo . Dân chủ hoá và xã hội hoá công tác giáo dục là một
tư tưởng có tính chiến lược và nó có vai trò rất to lớn trong sự phát triển giáo dục
nói chung và quản lí giáo dục nói riêng .
* Nguyên tắc của quản lí Nhà nước về giáo dục và đào tạo:
Nguyên tắc của quản lí giáo dục là những lao động cơ bản, những yêu cầu,
những tiêu chuẩn chỉ đạo việc xây dựng và tổ chức hoạt động của các cơ quan
quản lí giáo dục .Hệ thống các nguyên tắc trong quản lí giáo dục và đào tạo được
9
cụ thể hoá tại sơ đồ 2 – phần phụ lục, trên đây chỉ giới thiệu hai nguyên tắc cơ bản
của quản lí Nhà nước về giáo dục và đào tạo.
- Nguyên tắc kết hợp quản lí theo ngành và quản lí theo lãnh thổ.Mọi cơ sở
giáo dục thực hiện chức năng , nhiệm vụ giáo dục và đào tạo theo sự chỉ đạo
ngành dọc nhưng các cơ sở giáo dục đều đóng trên một địa bàn lãnh thổ nhất định
vì vậy cũng phải tuân thủ sự quản lí hành chính của địa phương theo qui định phân
cấp của Nhà nước .
Mọi hoạt động quản lí không thể tách rời sự chỉ đạo theo ngành dọc và theo lãnh
thổ và chúng được coi là một nguyên tắc quan trọng trong quản lí Nhà nước nói
chung và quản lí Nhà nước về giáo dục - đào tạo nói riêng .
- Nguyên tắc tập trung dân chủ trong hoạt động quản lí Nhà nước về giáo
dục và đào tạo .
Tập trung dân chủ là nguyên tắc cơ bản trong hoạt động chính trị xã hội ở
nước ta, đồng thời cũng là nguyên tắc quan trọng trong tổ chức và hoạt động của
bộ máy Nhà nước . Quản lí Nhà nước về giáo dục - đào tạo cũng tuân thủ theo
nguyên tắc này .
Nội dung của nguyên tắc tập trung dân chủ ở đây là phát huy quyền chủ
động của cơ sở dựa trên hành lang pháp lí được qui định bởi luật giáo dục và
những văn bản pháp lí trong hoạt động quản lí giáo dục đồng thời nâng cao tinh
thần cá nhân phụ trách, tập thể lãnh đạo và phát huy dân chủ của tập thể theo qui
chế dân chủ của cơ sở do chính phủ của bộ giáo dục và đào tạo ban hành .
Nguyên tắc tập trung dân chủ yêu cầu Nhà nước thống nhất quản lí hệ
thống giáo dục quốc dân về mục tiêu , chương trình , nội dung…Qui chế thi cử và
hệ thống văn bằng ( theo điều 13 , luật giáo dục) . Bên cạnh đó phân cấp rõ ràng
về quản lí giáo dục cho địa phương và tạo điều kiện để cơ sở phát huy chủ động
và sáng tạo .
10
1.4. Vai trò của giáo dục và đào tạo và ý nghĩa của quản lí Nhà nước
về giáo dục trong giai đoạn hiện nay.
Giáo dục và đào tạo là lĩnh vực rất quan trọng của đời sống xã hội , nó góp
phần quyết định chất lượng cuộc sống của con người và sự phát triển của xã hội .
- Tổ chức UNESCO đã đề cập đến những yếu tố cốt lõi liên quan đến chất
lượng cuộc sống của con người trong đó đặc biệt nhấn mạnh đến vai trò của giáo
dục và đào tạo. Theo quan điểm này việc nâng cao phẩm chất con người chủ yếu
thông qua giáo dục - đào tạo , làm cho cá nhân có thể phát triển tối đa tiềm năng
của mình.
Giáo dục đào tạo nâng cao phẩm chất cho tong cá nhân , đồng thời làm cho
xã hội phát triển . Giáo dục và đào tạo là nguồn lực hàng đầu cho phát triển kinh
tế, vì lẽ giáo dục - đào tạo đem lại kiến thức khoa học , trình độ chuyên môn, kĩ
năng, kĩ xảo, đạo đức, tư cách, tinh thần trách nhiệm , kỷ luật lao động, óc tìm tòi,
sáng tạo…cho con người. Song muốn đạt được các yếu tố trên đòi hỏi phải có nền
giáo dục phát triển , mà muốn cho giáo dục phát triển thì yếu tố đầu tiên phải kể
đến là quản lí Nhà nước về giáo dục và đào tạo .
Việt Nam là đất nước có truyền thống giáo dục từ Cách mạng tháng 8 đến
nay, truyền thống đó ngày càng được vun đắp. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có tầm
nhìn rất xa đối với giáo dục - đào tạo, coi đây là lĩnh vực quan trọng cho sự phát
triển . Người cho rằng “Vì lợi ích trăm năm phải trồng người” hay “ Một dân tộc
dốt là một dân tộc yếu”.
Ngày nay khoa học và công nghệ có những bước tiến xa so với nền khoa
học công nghệ truyền thống. Muốn nắm bắt được công nghệ mới , con người phải
có trình độ học vấn do giáo dục - đào tạo cung cấp , từ đó con người sẽ trở thành
động lực thúc đẩy công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước .
Như vậy giáo dục và đào tạo có vai trò rất lớn và có ảnh hưởng đến mọi
lĩnh vực của đời sống xã hội. Cho nên Nhà nước thống nhất quản lí về giáo dục và
11
đào tạo. Vì thông qua quản lí Nhà nước về giáo dục và đào tạo , việc thực hiên các
chủ trương chính sách quốc gia nâng cao hiệu quả đầu tư cho giáo dục, chú ý thực
hiện các mục giáo dục, nâng cao chất lượng giáo dục mới được triển khai , thực
hiện có hiệu quả .
Quản lí Nhà nước về giáo dục và đào tạo có thể được coi là khâu then chốt
của then chốt nhằm đảm bảo thực hiên thắng lợi của mọi hoạt động giáo dục và
đào tạo, tiến tới mục tiêu nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài
cho đất nước và hoàn thiện nhân cách con người.
12
2.Thực trạng giáo dục đào tạo và công tác quản lý nhà nước về giáo
dục và đào tạo.
2.1.Quá trình phát triển hệ thống quản lý nhà nước về giáo dục và đào
tạo ở Việt Nam.
Sau cách mạng tháng tám năm 1945,nước Việt Nam dân chủ cộng hoà ra
đời,cùng với nó là sự ra đời của một nền giáo dục dân chủ nhân dân.Từ đó đến
nay hệ thống giáo dục nước ta đã trải qua ba cuộc cải cách.
- Cải cách giáo dục lần thứ nhất: Sau khi nước Việt Nam tuyên bố độc lập,
thang 10 năm 1945 chủ tịch Hồ Chí Minh ký sắc lệnh số 34/SL thành lập Hội
đồng cố vấn học chính để giúp chính phủ nghiên cứu chương trình cải cách giáo
dục .Song do hoàn cảnh chiến tranh chống thực dân Pháp cho nên đến thang 7
năm 1950 Hội động chính phủ mới thông qua chương trình cảI cách giáo dục và
quyết định thực hiện cuộc cải cách này,với hệ thống giáo dục phổ thông 9 năm.
- Cải cách giáo dục lần thứ hai :tháng 5 năm 1956 Chính phủ ban hành
chính sách giáo dục phổ thông của nước Việt Nam dan chủ cộng hoà.Hệ thống
giáo dục lúc này gồm :
Cấp I là 4 năm (gồm các lớp từ lớp 1 đến lớp 4, không kể lớp vỡ lòng);
Cấp II gồm 3 năm (từ lớp 5 đến lớp 7);
Cấp III gồm 3 năm (từ lớp 8 đến lớp 10).
- Cải cách giáo dục lần thứ ba:sau khi nước Việt Nam thống nhất, Bộ
chính trị Ban chấp hành Trung ương Đảng ra Nghị quyết số 14(thang 1 năm 1969)
về việc tiến hạnh cải cách giáo dục nhăm thống nhất cả nước.Hệ thống giáo dục
phổ thông lúc này gồm 12 năm .
Cấp I là 5 năm (gồm các lớp từ lớp 1 đến lớp 5);
Cáp II là 4 năm (gồm các lớp từ lớp 6 đến lớp 9) ;
13
Cấp III là 3 năm (gồm các lớp từ lớp 10 đền lớp 12).Trường cấp III lúc này
là trường Phổ thông trung học.
Hiện nay, theo Luật giáo dục 2005, hệ thống giáo dục nước ta có cấu trúc
hoàn chỉnh như sau :
- Giáo dục mầm non thực hiện việc nuôi dưỡng, chăm sóc giáo dục trẻ em
từ 3 tháng tuổi đền 6 tuổi.
- Giáo dục phổ thông gồm:
Giáo dục tiểu học được thục hiện trong năm năm học,từ lớp 1 đến lớp 5.
Tuổi của học sinh vào học lớp 1 là sau tuổi.
Giáo dục trung học cơ sở được thực hiện trong 4 năm học, từ lớp 6 đến lớp
9. Học sinh vào lớp 6 phải hoàn thành chương trình tiểu học, có tuổi là 11 tuổi .
Giáo dục trung học phổ thông được thiện trong 3 năm học từ lớp 10 đến
lớp 12. Học sinh váo học lớp 10 phải có bằng tốt nghiệp trung học cơ sở, có tuổi là
15 tuổi .
Giáo dục nghề nghiệp bao gồm:
Trung cấp chuyên nghiệp được thực hiện từ 3 đến 4 năm học đối với
người có bằng tốt nghiệp trung học cơ sở ,từ 1 đến 2 năm đối với người có bằng
tốt nghiệp trung học phổ thông.
Dạy nghề được thực hiện dưới một năm đối với đào tạo trình độ sơ cấp, từ
một đền ba năm đối với nghề có trình độ trung cấp, trình độ cao đẳng.
Giáo dục Đại học bao gồm;
Đào tạo trình độ cao đẳng được thực hiện từ hai đến ba năm học tuỳ theo
ngành nghề đào tạo đối với người có bằng tốt nghiệp trung học phổ thông hoặc
14
bằng tốt nghiệp trung cấp; từ một năm rưỡi đến hai năm học đối với người có
bằng tốt nghiệp cùng chuyên ngành.
Đào tạo trình độ đại học được thực hiện tư 4 đến 6 năm tuỳ theo ngành đào
tạo đối với người có bằng tốt nghiệp trung học phổ thông hoặc bằng trung cấp;từ
hai năm rưỡi đến bốn năm học đối với người có bằng trung cấp cùng chuyên
ngành; từ một năm rưỡi đến hai năm học đối với người có bằng tốt nghiệp cao
đẳng cùng chuyên ngành.
Đào tạo trình độ Thạc sỹ được thực hiện từ một đến hai năm học đối với
người có trình độ tốt nghiệp đại học.
Đào tạo trình độ Tiến sỹ được thực hiện trong 4 năm học đối với người có
bằng tốt nghiệp đại học, từ hai đến ba năm đối với người có trình độ Thạc sỹ.
Trong trường hợp đặc biệt thời gian đào tạo Tiến sỹ có thể kéo dài theo quy định
của Bộ trưởng Bộ giáo dục và đào tạo.
Trải qua một số lần cải cách và hoàn thiện, ngày nay hệ thống quản lý Nhà
nước về giáo dục - đào tạo có thiết chế như sau.
- Chính Phủ thống nhất quản lý nhà nước vế giáo dục và đào tạo. Chính
phủ trình trước Quốc hội trước khi quyết định nhưng chủ trương lớn có ảnh hưởng
đến quyền và nghĩa vụ học tập của người dân trong phạm vi cả nước.
Bộ giáo và đào tạo chịu trách nhiệm trước Chính phủ thực hiên quản lý nhà
nước về giáo dục và dào tạo.
Uỷ ban nhân dân các cấp thực hiện quản lý nhà nước về giáo dục -đào tạo ở
địa phương theo quy định của chính phủ .ở cấp tỉnh có Sở giáo dục và đào tạo,ở
cấp huyên có phòng giáo dục (Sơ đồ 4 - Phụ lục).
2.2. Thành tựu
15
Trong những năm qua nước ta đã gặt hái được nhiều thành tưu trong lĩnh
vực giáo dục và đào tạo. Trong báo cáo của ngân hàng thế giới (WB) ,khi nghiên
cứu về tài chính cho giáo dục ở Việt Nam, đã viết: Việt Nam có một thanh tích
đầy ấn tượng, ngay cả khi so sánh với nhiều nền kinh tế khác, có mức thu nhập
cao hơn.
Thành tựu về giáo dục và đào tạo thể hiện trên một số mặt sau.
Quy mô giáo dục - đào tạo lớn và ngày càng mở rộng. Số học sinh trung
học chuyên nghiệp tăng 15,1%/năm và dạy nghề dài hạn tăng 12%/năm, sinh viên
đại học và cao đẳng tăng 8,4%/năm. Các trường s