Trong hoạt động kinh doanh Ngân hàng tại Việt Nam hiện nay, lợi
nhuận từ hoạt động tín dụng luôn chiếm tỷ trọng chủ yếu trong tổng thu nhập
của các Ngân hàng, khoản từ 60% đến 70%. Tuy nhiên, do nhiều nguyên
nhân khác nhau như hệ thống thông tin thiếu minh bạch và không đầy đủ,
trình độ quản trị rủi ro còn nhiều hạn chế, tính chuyên nghiệp của cán bộ tín
dụng chưa cao mà hoạt động kinh doanh Ngân hàng nói chung, và hoạt
động tín dụng nói riêng, luôn tiềm ẩn những rủi ro cao, đặc biệt là ở các
nước có nền kinh tế mới nổi như Việt Nam.
Chính vì vậy, đảm bảo hạn chế rủi ro trong hoạt động cấp tín dụng
Ngân hàng, hướng đến các chuẩn mực quốc tế trong quản trị rủi ro và phù
hợp với môi trường hội nhập đang là một đòi hỏi cấp thiết đặt ra đối với các
Ngân hàng thương mại nói chung và Ngân hàng VID Public nói riêng.
Quản lý rủi ro tín dụng đã trở thành một vấn đề thu hút sự quan tâm
của toàn bộ Ban lãnh đạo Ngân hàng cũng như nó quyết định vấn đề sống
còn của Ngân hàng trong những năm tới. Với thực tế công tác gắn bó tại
Ngân hàng VID Public, chứng kiến sự biến động mạnh trên thị trường tài
chính ngân hàng sau hơn một năm Việt Nam chính thức trở thành thành viên
của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), tôi đã chọn “Quản lý rủi ro tín
dụng tại Ngân hàng VID Public- Thực trạng và giải pháp” làm đề tài luận
văn thạc sỹ kinh tế với mong muốn góp phần đẩy mạnh quản lý rủi ro tín
dụng nói riêng cũng như sự phát triển của Ngân hàng nói chung trong thời
gian tới
112 trang |
Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 2051 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Quản lý rủi ro tín dụng tại ngân hàng VID Public: Thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BỘ GIÁO DỤC ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
--------
Nguyễn Quang Vinh
QUẢN LÝ RỦI RO TÍN DỤNG TẠI NGÂN HÀNG VID PUBLIC
THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP
LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ
Hà Nội - 2008
BỘ GIÁO DỤC ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
--------
Nguyễn Quang Vinh
QUẢN LÝ RỦI RO TÍN DỤNG TẠI NGÂN HÀNG VID PUBLIC
THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP
Chuyên ngành : Kinh tế Thế giới và Quan hệ Kinh tế Quốc tế
Mã số : 60.31.07
LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ
Người hướng dẫn khoa học:
TS. Vũ Thị Kim Oanh
Hà Nội - 2008
DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU CÁC CHỮ VIẾT TẮT
K ý hiệu Các chữ viết tắt
VIDPB Ngân hàng VID Public Bank
NHTM Ngân hàng Thương mại
NHTMCP Ngân hàng Thương mại Cổ phần
NHTMNN Ngân hàng Thương mại Nhà nước
NHNN Ngân hàng Nhà nước
TCTD Tổ chức Tín dụng
TBCN Tư bản chủ nghĩa
WTO Tổ chức Thương mại Thế giới
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài :
Trong hoạt động kinh doanh Ngân hàng tại Việt Nam hiện nay, lợi
nhuận từ hoạt động tín dụng luôn chiếm tỷ trọng chủ yếu trong tổng thu nhập
của các Ngân hàng, khoản từ 60% đến 70%. Tuy nhiên, do nhiều nguyên
nhân khác nhau như hệ thống thông tin thiếu minh bạch và không đầy đủ,
trình độ quản trị rủi ro còn nhiều hạn chế, tính chuyên nghiệp của cán bộ tín
dụng chưa cao… mà hoạt động kinh doanh Ngân hàng nói chung, và hoạt
động tín dụng nói riêng, luôn tiềm ẩn những rủi ro cao, đặc biệt là ở các
nước có nền kinh tế mới nổi như Việt Nam.
Chính vì vậy, đảm bảo hạn chế rủi ro trong hoạt động cấp tín dụng
Ngân hàng, hướng đến các chuẩn mực quốc tế trong quản trị rủi ro và phù
hợp với môi trường hội nhập đang là một đòi hỏi cấp thiết đặt ra đối với các
Ngân hàng thương mại nói chung và Ngân hàng VID Public nói riêng.
Quản lý rủi ro tín dụng đã trở thành một vấn đề thu hút sự quan tâm
của toàn bộ Ban lãnh đạo Ngân hàng cũng như nó quyết định vấn đề sống
còn của Ngân hàng trong những năm tới. Với thực tế công tác gắn bó tại
Ngân hàng VID Public, chứng kiến sự biến động mạnh trên thị trường tài
chính ngân hàng sau hơn một năm Việt Nam chính thức trở thành thành viên
của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), tôi đã chọn “Quản lý rủi ro tín
dụng tại Ngân hàng VID Public- Thực trạng và giải pháp” làm đề tài luận
văn thạc sỹ kinh tế với mong muốn góp phần đẩy mạnh quản lý rủi ro tín
dụng nói riêng cũng như sự phát triển của Ngân hàng nói chung trong thời
gian tới.
2. Tình hình nghiên cứu
Thực tế cho đến hiện nay, việc nghiên cứu rủi ro tín dụng không phải là
vấn đề mới mà cũng đã có nhiều bài nghiên cứu, đánh giá nhiều khía cạnh
khác nhau, tại nhiều Ngân hàng Thương mại khác nhau, chẳng hạn như
2
“Phân tích tài chính doanh nghiệp- Công cụ hữu hiệu để phòng ngừa rủi ro
tín dụng” của Nguyễn Ngọc Anh, hay “Rủi ro tín dụng của hệ thống Ngân
hàng Thương mại Nhà nước Việt Nam- Cách tiếp cận từ tính chất sở hữu”
của TS. Phan Thị Thu Hà, hay là “Rủi ro trong hoạt động tín dụng Ngân
hàng-Nhìn từ góc độ đạo đức” của Lê Văn Hùng…Tuy nhiên, cho đến nay
chưa có một công trình nào nghiên cứu chuyên sâu về quản lý rủi ro tín dụng
tại Ngân hàng VID Public.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài :
- Hệ thống hóa những vấn đề lý luận cơ bản về quản lý rủi ro tín dụng
trong các NHTM.
- Phân tích thực trạng quản lý rủi ro tín dụng của Ngân hàng VID
Public.
- Đề xuất một số giải pháp và kiến nghị nhằm tăng cường quản lý rủi
ro tín dụng tại Ngân hàngVID Public.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu :
Trọng tâm nghiên cứu của đề tài là quản lý rủi ro tín dụng tại Ngân
hàng VID Public ở tầm vi mô, dựa trên phân tích tình hình quản lý rủi ro tín
dụng chung tại các NHTM Việt Nam và thực tiến áp dụng tại Ngân hàng VID
Public, từ đó đề xuất những giải pháp tăng cường quản lý rủi ro tín dụng cho
VID Public.
5. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng các phương pháp đi từ cái chung đến cái riêng, khảo
sát, phân tích tổng hợp từ tình hình thực tế để từ đó đưa ra những nhận định,
ý kiến riêng của người nghiên cứu.
6. Nội dung và bố cục của đề tài
Ngoài lời mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn bao
gồm 3 chương:
- Chương 1 : Tổng quan về quản lý rủi ro tín dụng tại các Ngân hàng
3
Thương mại.
- Chương 2 : Thực trạng quản lý rủi ro tín dụng tại Ngân hàng VID
Public.
- Chương 3 : Một số giải pháp chủ yếu nhằm tăng cường quản lý rủi ro
tín dụng tại Ngân hàng VID Public.
4
CHƢƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ QUẢN LÝ RỦI RO TÍN
DỤNG TẠI CÁC NGÂN HÀNG THƢƠNG MẠI.
1.1 Ngân hàng thƣơng mại và hoạt động tín dụng.
1.1.1 Ngân hàng thương mại.
Cùng với sự ra đời và phát triển của phương thức sản xuất Tư bản chủ
nghĩa, những yêu cầu về hoạt động tiền tệ được đặt ra và đòi hỏi có một tổ
chức chuyên môn hoạt động trên lĩnh vực này. Vào thế kỷ XV, ngân hàng ra
đời nhằm thực hiện các chức năng phát hành giấy bạc vào lưu thông, nhận
tiền gửi của khách hàng, cho vay, đổi tiền, chuyển ngân và các dịch vụ tiền tệ
khác.
Cuối thế kỷ XIX, sản xuất và lưu thông hàng hoá phát triển kéo theo sự
phát triển về quy mô và phạm vi nghiệp vụ của các ngân hàng . Song trong
lưu thông có quá nhiều loại tiền do nhiều ngân hàng phát hành làm cản trở
việc lưu thông hàng hoá. Do vậy Nhà nước đã phải ban hành đạo luật chỉ cho
một số ngân hàng được phát hành tiền. Mỗi quốc gia chỉ có một hoặc một số
ngân hàng được phát hành tiền. Đó là các ngân hàng có tiềm lực và quy mô
lớn, gọi là các Ngân hàng Trung Ương. Còn các Ngân hàng không được phép
phát hành tiền gọi là các Ngân hàng thương mại.
Vào đầu thế kỷ XX, vấn đề đặt ra là các ngân hàng phát hành tiền thuộc
quyền sở hữu tư nhân, do đó sự điều tiết của nhà nước đối với các hoạt động
kinh tế vĩ mô trong tình hình kinh tế phát triển đã gặp không ít khó khăn. Tiếp
đến cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới 1929-1933 đã buộc các nước phải có
biện pháp hữu hiệu để duy trì việc phát triển kinh tế, do đó việc phân tách
chức năng của ngân hàng được thể hiện ở mức độ cao hơn: hình thành hệ
thống ngân hàng hai cấp:
- Ngân hàng Trung ương vừa làm chức năng phát hành vừa làm chức
năng quản lý nhà nước về tiền tệ, tín dụng ngân hàng.
5
- Ngân hàng kinh doanh (ngân hàng thương mại): Là trung gian tài
chính có giấy kinh doanh của chính phủ để cho vay tiền và mở các khoản tiền
gửi... và chuyên về việc đưa người cho vay và người đi vay gặp nhau là trung
gian tài chính, thực hiện kinh doanh tiền tệ tín dụng và dịch vụ ngân hàng, có
vai trò quan trọng trong việc tập trung, thu hút các nguồn vốn nhàn rỗi để đầu
tư vào những đơn vị kinh tế làm ăn có lãi thuộc mọi thành phần kinh tế, thúc
đẩy tăng trưởng kinh tế.
Mặc dù có nhiều cách hiểu khác nhau về NHTM, nhưng chúng ta có
thể nhận thấy các NHTM đều có những điểm chung đó là việc nhận tiền ký
thác - tiền gửi không kỳ hạn và có kỳ hạn, để sử dụng vào các nghiệp vụ cho
vay, chiết khấu và các dịch vụ kinh doanh khác của chính Ngân hàng. Cùng
với sự phát triển của kinh tế thế giới, các NHTM cũng từng bước phát triển và
hoàn thiện bản thân, trở thành một hạt nhân thiết yếu trong hoạt động kinh tế
của mỗi quốc gia.
Trong suốt quá trình hình thành và hoạt động của mình, các NHTM
ngày càng thể hiện rõ vai trò đặc biệt quan trọng của mình trong việc thúc đẩy
sự phát triển của nền kinh tế. Các NHTM thực hiện các nghiệp vụ huy động
nguồn vốn nhàn rỗi trên thị trường, từ nguồn vốn đó tiến hành cho vay hỗ trợ
các cá nhân và doanh nghiệp trong hoạt động kinh doanh của mình để đạt
được hiệu quả kinh tế cao, góp phần thúc đẩy sự tiến bộ của kinh tế quốc gia.
Các hoạt động chính của NHTM bao gồm hoạt động huy động vốn, hoạt động
tín dụng và các hoạt động dịch vụ ngân hàng khác.
Huy động vốn là một hoạt động rất quan trọng trong đó các NHTM
bằng cách cung ứng những điều kiện thuận lợi và những phương thức dễ dàng
để nhận tiền gửi của các doanh nghiệp, cá nhân và các tổ chức tín dụng khác
dưới các hình thức tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn và các loại tiền
gửi khác. Đổi lại, các doanh nghiệp, cá nhân, các TCTD khác được nhận một
khoản tiền thưởng dưới danh nghĩa lãi suất trên tổng số tiền gửi, với mức độ
6
an toàn và có tính thanh khoản cao.
Ngoài ra, các NHTM còn huy động vốn dưới dạng phát hành các giấy
tờ có giá, vay vốn ngắn hạn của NHNN dưới hình thức tái cấp vốn, vay của
các TCTD khác...Số tiền huy động được thông qua hình thức tiền gửi và phát
hành giấy tờ có giá luôn sẵn sàng đáp ứng nhu cầu vay vốn của các doanh
nghiệp và cá nhân.
Hoạt động tín dụng là một hoạt động quan trọng hàng đầu trong các
hoạt động kinh doanh của các NHTM, đồng thời cũng đem lại lợi nhuận cao
nhất cho các Ngân hàng. Các chi tiết cụ thể về hoạt động tín dụng của Ngân
hàng sẽ được đề cập chi tiết và cụ thể tại phần 1.1.2 của bài viết.
Các dịch vụ ngân hàng khác: Bên cạnh hoạt động huy động vốn và
hoạt động tín dụng nêu trên, các NHTM còn cung cấp các dịch vụ khác cho
các khách hàng, cụ thể như :
- Dịch vụ thanh toán : Việc đưa ra một cơ chế thanh toán, hay nói một
cách khác, sự vận động vốn là một nghiệp vụ quan trọng do các NHTM thực
hiện thông qua việc : mở tài khoản; cung ứng các phương tiện thanh toán;
thực hiện dịch vụ thanh toán trong nước cho khách hàng; thực hiện các dịch
vụ thu hộ và chi hộ; dịch vụ ngân quỹ... thông qua mối quan hệ giữa ngân
hàng nước này là đại lý cho ngân hàng nước khác với công nghệ ngân hàng
hiện đại đã làm cho quá trình thanh toán quốc tế diễn ra nhanh chóng và thuận
lợi.
- Thực hiện việc góp vốn mua cổ phần của các TCTD khác hoặc của
các doanh nghiệp từ nguồn vốn điều lệ và quỹ dự trữ của mình.
- Kinh doanh ngoại hối và vàng.
- Uỷ thác và nhận uỷ thác, làm đại lý trong các lĩnh vực liên quan đến
hoạt động ngân hàng; kinh doanh, cung ứng dịch vụ bảo hiểm, dịch vụ tư vấn
tài chính tiền tệ cho khách hàng, dịch vụ bảo quản hiện vật quý, giấy tờ có
giá, cho thuê tủ két, cầm đồ và các dịch vụ khác...
7
1.1.2 Hoạt động tín dụng
Chức năng cơ bản của NHTM là mở rộng tín dụng từ nguồn vốn huy
động được, đối với các khách hàng tin cậy. Ngay từ khi mới bắt đầu, những
người tổ chức các NHTM đã luôn tìm kiếm các cơ hội để thực hiện cho vay
và đầu tư, hưởng lợi nhuận từ chênh lệch lãi suất cho vay và lãi suất huy động
(lãi suất tiền gửi) sau khi trừ đi các chi phí. Họ coi đó là chức năng quan trọng
nhất của mình.
C.Mác đã viết “cái mà người chủ ngân hàng kinh doanh là bản thân tín
dụng”. Ông cũng đã viết “Bản thân chế độ tín dụng, một mặt là một hình thái
nội tại của phương thức sản xuất TBCN, mặt khác là một động lực thúc đẩy
phương thức sản xuất TBCN tiến lên hình thái cao hơn, tột cùng có thể của
nó…” và
“Chế độ tín dụng ngân hàng đẩy nhanh tốc độ phát triển của lực lượng
sản xuất vật chất và sự hình thành thị trường thế giới; đẩy hai yếu tố đó phát
triển đến một mức độ cao nhất định, với tư cách là cơ sở vật chất của một
hình thái sản xuất mới…” [8]
Tín dụng ngân hàng có ý nghĩa quan trọng đối với toàn bộ nền kinh tế,
nó đã tài trợ cho các hoạt động công nghiệp, nông nghiệp, thương nghiệp,
dịch vụ, xuất nhập khẩu....của đất nước; đã cung cấp những sản phẩm đường
vòng cho nhu cầu dân sinh và phát triển đất nước thông qua quá trình từ sản
xuất đến lưu thông.
Như vậy, trong việc tạo ra khả năng tín dụng, các NHTM đã và đang
thực hiện chức năng xã hội đặc biệt của mình, làm cho sản phẩm xã hội tăng
lên, vốn đầu tư được mở rộng và từ đó, đời sống dân chúng được cải thiện.
Sở dĩ tín dụng ngân hàng có thể đóng được vai trò quan trọng của
mình là do nó được hình thành và phát triển như một quy luật tất yếu khách
quan của nền kinh tế.
Hoạt động tín dụng là một nghiệp vụ hàng đầu, có ý nghĩa quan trọng,
8
quyết định đối với sự tồn tại và phát triển của một ngân hàng, song nó không
chỉ đơn giản và giới hạn ảnh hưởng trong phạm vi một ngân hàng, một ngành,
một địa phương một thời điểm hay một giai đoạn... mà còn ảnh hưởng tới chất
lượng, hiệu quả, năng suất lao động xã hội, ảnh hưởng tới bước tiến của cả
một nền kinh tế, của một phương thức sản xuất, của một giai đoạn phát triển
xã hội, của trình độ hoà nhập vào cộng đồng kinh tế thế giới hiện đại.
Nhận thức đầy đủ đúng đắn vai trò của tín dụng đòi hỏi con người sử
dụng nó phải biết tôn trọng, đối xử với nó như một khoa học kinh tế thực sự.
Cho nên dù ở bất cứ một thời kỳ nào, bối cảnh nào thì yêu cầu cơ bản của tín
dụng ngân hàng vẫn phải là hiện thực, khả thi và hiệu quả. Hiện thực tức là
hoạt động tín dụng phải dựa trên tình hình thực tế của nền kinh tế, mục đích,
nhu cầu và tiềm lực thực tế của khách hàng. Khả thi có nghĩa là có khả năng
thực hiện khoản vay, tức khoản vay phải phù hợp với định hướng cho vay của
Ngân hàng, khách hàng vay phải có đủ khả năng trả nợ đúng hạn, hay tài sản
đảm bảo có đủ giá trị đảm bảo cho khoản vay… Đồng thời, bên cạnh hỗ trợ
tài chính cho khách hàng, khoản vay cũng cần đem lại lợi nhuận nhất định
cho Ngân hàng, hạn chế những rủi ro có thể phát sinh, góp phần thúc đẩy sự
phát triển của kinh tế-xã hội. Đây chính là yêu cầu về tính hiệu quả của tín
dụng.
Trải qua nhiều phương thức sản xuất khác nhau các nhà kinh tế học đã
đúc kết hoạt động tín dụng - với đúng nghĩa như C.Mác đã chỉ ra - phải tuân
theo các nguyên tắc căn bản chung nhất:
- Vốn vay phải được sử dụng đúng mục đích có hiệu quả;
- Vốn vay phải được đảm bảo bằng giá trị vật tư hàng hoá tương
đương;
- Vốn vay phải được hoàn trả đủ cả gốc và lãi đúng kỳ hạn cam kết.
Ba nguyên tắc tín dụng trên đây hình thành như một quy luật phát triển
nội tại của hoạt động tín dụng, là quy định bất khả vi phạm, là mối quan hệ
9
không thể tách rời trong kinh doanh tín dụng. Thực tế cho thấy rằng một khi
chỉ một trong ba nguyên tắc bị coi nhẹ thì sớm muộn cũng dẫn đến quan hệ
tín dụng bị phá vỡ, tín dụng sẽ mất dần đi vai trò và tác dụng của mình và trở
thành vật cản kìm hãm hoặc đẩy lùi sự phát triển của nền kinh tế.
Cho nên, khi nói đến vai trò “bà đỡ” của tín dụng ngân hàng đối với
tiến trình phát triển kinh tế là nói đến loại hình tín dụng đúng nghĩa, tuân thủ
nghiêm ngặt cả ba nguyên tắc tín dụng trên đây và có chất lượng cao. Chất
lượng của tín dụng không phải là một khái niệm mơ hồ, trừu tượng. Nó được
thể hiện thông qua kết quả của quá trình tuân thủ ba nguyên tắc này và cuối
cùng chất lượng tín dụng được phản ánh đúng như vai trò quan trọng của tín
dụng đã được đề cập ở trên, vào sự phát đạt của từng tổ chức kinh tế trong xã
hội nói riêng, vào tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế và vào tiến bộ xã hội
trong từng thời kỳ nói chung.
Qua tìm hiểu chức năng nghiệp vụ và quá trình thực hiện nghiệp vụ của
NHTM, ta thấy rõ vai trò trung gian của ngân hàng và mối quan hệ tách biệt
giữa người cho vay tiền và người đi vay tiền: khi Ngân hàng phát ra một
khoản tiền vay, số vốn đó nằm ngoài tầm kiểm soát của Ngân hàng, nên sự
vận động của nó như thế nào Ngân hàng rất khó theo dõi. Khả năng rủi ro
chính là ở đây. Xét về mặt chủ quan, việc chọn lựa khách hàng cho vay là rất
quan trọng đối với Ngân hàng vì nếu tìm hiểu không kỹ lưỡng về khách hàng
thì Ngân hàng có thể chuốc lấy tai hoạ cho mình khi những đồng tiền ra đi mà
không trở về. Còn về mặt khách quan, mọi rủi ro đối với khách hàng trong
kinh doanh đều là rủi ro của Ngân hàng, bởi vốn kinh doanh của khách hàng
là một phần vốn vay từ Ngân hàng. Trong khi đó, nguồn vốn để Ngân hàng
đem đi cho vay chủ yếu lấy từ tiền huy động được, tức là phần lớn số tiền để
cho vay không thuộc sở hữu của Ngân hàng. Ngân hàng phải có trách nhiệm
bảo quản, gìn giữ và làm sinh lợi số tiền huy động đó. Vì vậy, trong hoạt động
kinh doanh của mình, NHTM sẽ phải đối mặt với rủi ro từ nhiều phía: rủi ro
10
từ các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh hoặc các cá nhân đi vay, rủi ro từ
phía người gửi tiền và rủi ro từ phía các ngân hàng thương mại khác. Đó là
còn chưa kể đến những rủi ro riêng có khác của hoạt động kinh doanh ngân
hàng.
1.2 Rủi ro tín dụng và nguyên nhân dẫn đến rủi ro tín dụng.
1.2.1 Rủi ro trong hoạt động kinh doanh Ngân hàng và phân loại.
Theo quan niệm truyền thống, rủi ro là những sự kiện xảy ra có thể làm
cho mất mát tài sản hay làm phát sinh một khoản nợ. Tuy nhiên, theo quan
điểm về rủi ro theo quan niệm hiện đại bao hàm nghĩa rộng hơn và không chỉ
tính đến rủi ro tài chính mà còn bao gồm cả những rủi ro liên quan đến các
mục tiêu hoạt động và mục tiêu chiến lược. Theo đó, rủi ro là khả năng những
sự kiện chưa chắc chắn trong tương lai sẽ làm cho chủ thể không đạt được
những mục tiêu chiến lược và mục tiêu hoạt động, cũng như chi phí cơ hội
của việc làm mất những cơ hội thị trường.
Trong nền kinh tế thị trường, kinh doanh và rủi ro là hai cặp phạm trù
cặp đôi. Kinh tế thị trường làm đa dạng hóa các thành phần kinh tế, bình đẳng
hóa các hoạt động của các thành phần này và thúc đẩy cạnh tranh lẫn nhau.
Rủi ro-tuy là sự bất trắc gây thiệt hại mất mát, là sự bất trắc cụ thể liên quan
đến một biến cố không mong đợi, song lại là hiện tượng đồng hành cùng với
các hoạt động kinh doanh trong cơ chế thị trường, trong quá trình cạnh tranh.
Rủi ro xuất hiện ở những điểm yếu, kém hiệu quả, mất cân đối trong quá trình
phát triển kinh tế. Rủi ro vừa là nguyên nhân, vừa là hậu quả của những hoạt
động kinh tế không có hiệu quả. Nó tạo tiền đề cho quá trình đào thải tự nhiên
các doanh nghiệp yếu kém, thúc đẩy sự chấn chỉnh, sự thích nghi của các
doanh nghiệp, tạo xu hướng phát triển ổn định và có hiệu quả cho nền kinh tế.
Trong điều kiện kinh tế thị trường, hoạt động kinh doanh của các ngân
hàng thương mại (NHTM) cũng không nằm ngoài sự tác động trên. Thậm chí
với hoạt động ngân hàng hầu như không có loại nghiệp vụ nào, không có loại
11
dịch vụ nào của ngân hàng là không có rủi ro. Bởi lẽ, ngân hàng thương mại
được coi là một tổ chức kinh doanh tiền tệ, mà hoạt động chủ yếu là nhận tiền
gửi từ khách hàng với trách nhiệm hoàn trả, sử dụng số tiền này để cho vay,
thực hiện các dịch vụ ngân hàng và kinh doanh chứng khoán. Với các đặc
trưng cơ bản như vậy, hoạt động kinh doanh ngân hàng chịu ảnh hưởng của
nhiều yếu tố, như môi trường kinh tế xã hội, pháp lý, cơ chế chính sách vĩ mô,
vi mô… Do vậy, hoạt động ngân hàng chứa đựng những tiềm ẩn rủi ro lớn.
Hay nói cách khác, kinh doanh ngân hàng chính là chấp nhận rủi ro đổi lại có
lợi nhuận.
Trong hoạt động kinh doanh Ngân hàng, rủi ro có thể được chia thành
nhiều loại, trong đó có thể chia thành các loại như sau: [20]
- Rủi ro lãi suất :
Rủi ro lãi suất thể hiện rủi ro tiềm tàng của một Ngân hàng do các biến
động về lãi suất gây ra.
- Rủi ro thanh khoản:
Rủi ro thanh khoản phát sinh chủ yếu từ xu hướng của các Ngân hàng
trong việc huy động vốn ngắn hạn và cho vay dài hạn.
- Rủi ro giá cả:
Rủi ro giá cả là loại rủi ro về việc giá trị các tài sản của một Ngân hàng
có thể biến động. Rủi ro này xuất hiện trong tất cả các chủng loại tài sản từ
bất động sản và thiết bị cho đến các tài sản mang tính thị trường như cổ phiếu
và trái phiếu.
- Rủi ro ngoại hối :
Rủi ro ngoại hối phát sinh khi có sự chênh lệch về kỳ hạn và về loại
tiền tệ của các khoản ngoại hối nắm giữ, và vì thế làm cho Ngân hàng có thể
phải gánh chịu thua lỗ khi tỷ giá ngoại hối biến động. Rủi ro này áp dụng với
cả các thị trường giao dịch tương lai và quyền chọn cũng như với thị trường
giao ngay.
12
- Rủi ro hoạt động:
Rủi ro hoạt động bao gồm toàn bộ các rủi ro mà có thể phát sinh từ
cách thức mà một Ngân hàng điều hành các hoạt động của mình. Chẳng hạn
như cán bộ tham ô, việc cấu trúc hạn mức không phù hợp trong lĩnh vực kinh
doanh nguồn vốn, quản lý kém các quy trình tín dụng, thiếu các kế hoạch khôi
phục kinh doanh trong trường hợp xảy ra thảm họa…
- Rủi ro pháp lý:
Rủi ro pháp lý thường tác động đến Ngân hàng theo hai cách:
+ Các khách hàng và những người khác có thể khởi kiện Ngân hàng.
Lý do v