Triết học Mác- Lênin ra đời vào những năm 40 của thế kỉ 19, nó ra đời do 
những đòi hỏi của thực tiễn xã hội và là quá trình phát triển hợp quy luật của tư 
tưởng: triết học và nhận thức khoa học của nhân loại. Nhờ có những quan điểm, triết 
học và dựa vào những quy luật kinh tế mà xã hội ngày càng phát triển. Chúng ta đã 
thu được những thành công nhất định trong công cuộc xây dựng XHCN bởi vì chúng 
ta biết áp dụng một cách sáng tạo đúng đắn các quy luật kinh tế vào thực tiễn xã hội 
đất nước mình.
Ngày nay, để đưa đất nước ta tiến lên công nghiệp hoá, hiện đại hoá và xây 
dựng XHCN là mục tiêu quan trọng, nó đòi hỏi phải có sự nỗ lực của cả dân tộc và sự 
hợp tác giúp đỡ của quốc tế mới mong đưa công cuộc đổi mới đất nước thành 
công.Nhưng khi thực hiện đường lối chính sách đề ra chúng ta gặp không ít khó khăn 
do chưa hiểu rõ về những vấn đề cần giải quyết trước mắt và chưa có đầy đủ những 
điều kiện cũng như lực lượng để thực hiện đường lối chính sách đã đề ra. Đất nước 
muốn phát triển được trước hết phải có LLSX phát triển cùng với nó kéo theo QHSX 
phát triển vì thế trong những năm gần đây chúng ta đã chú trọng hơn đến việc phát 
triển trình độ LLSX và QHSX nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế của đất nước.
                
              
                                            
                                
            
 
            
                 19 trang
19 trang | 
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 4823 | Lượt tải: 3 
              
            Bạn đang xem nội dung tài liệu Luận văn Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN: 
Quy luật QHSX phù hợp với trình 
độ phát triển của LLSX 
Lời nói đầu 
Triết học Mác- Lênin ra đời vào những năm 40 của thế kỉ 19, nó ra đời do 
những đòi hỏi của thực tiễn xã hội và là quá trình phát triển hợp quy luật của tư 
tưởng: triết học và nhận thức khoa học của nhân loại. Nhờ có những quan điểm, triết 
học và dựa vào những quy luật kinh tế mà xã hội ngày càng phát triển. Chúng ta đã 
thu được những thành công nhất định trong công cuộc xây dựng XHCN bởi vì chúng 
ta biết áp dụng một cách sáng tạo đúng đắn các quy luật kinh tế vào thực tiễn xã hội 
đất nước mình. 
 Ngày nay, để đưa đất nước ta tiến lên công nghiệp hoá, hiện đại hoá và xây 
dựng XHCN là mục tiêu quan trọng, nó đòi hỏi phải có sự nỗ lực của cả dân tộc và sự 
hợp tác giúp đỡ của quốc tế mới mong đưa công cuộc đổi mới đất nước thành 
công.Nhưng khi thực hiện đường lối chính sách đề ra chúng ta gặp không ít khó khăn 
do chưa hiểu rõ về những vấn đề cần giải quyết trước mắt và chưa có đầy đủ những 
điều kiện cũng như lực lượng để thực hiện đường lối chính sách đã đề ra. Đất nước 
muốn phát triển được trước hết phải có LLSX phát triển cùng với nó kéo theo QHSX 
phát triển vì thế trong những năm gần đây chúng ta đã chú trọng hơn đến việc phát 
triển trình độ LLSX và QHSX nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế của đất nước. 
Theo quan điểm lý luận của triết học Mác- Lênin, LLSX và QHSX là hai mặt 
của phương thức sản xuất, chúng tồn tại không tách rời nhau mà tác động biện chứng 
lẫn nhau hình thành quy luật phổ biến của toàn bộ lịch sử loài người- quy luật về sự 
phù hợp của QHSX với tính chất và trình độ của LLSX. Trong quá trình vận dụng 
quy luật này chúng ta đã gặp không ít những khó khăn do nhiều nguyên nhân khác 
nhau vì thế việc vận dụng quy luật này không hề đơn giản, do đó chúng ta phải 
nghiên cứu thật kĩ quy luật này. Vì vậy vận dụng quy luật này như thế nào cho phù 
hợp với tình hình đất nước ta hiện nay đang là một vấn đề cần được quan tâm. 
Là nhà kinh tế trong tương lai cần phải có kiến thức, sự hiểu biết về kinh tế, vì 
thế em đã chọn đề tài “Quy luật QHSX phù hợp với trình độ phát triển của 
LLSX”. 
vấN đề I: Khái quát chung về sự phù hợp 
 của qhsx với llsx. 
I. Khái niệm về QHSX và LLSX. 
QHSX và LLSX được hình thành như thế nào, tại sao lại gọi là QHSX và 
LLSX, nguyên nhân động lực phát triển của xã hội làgì? 
Các nhà triết học và xã hội học duy tâm giải thích nguyên nhân, động lực phát 
triển của xã hội từ ý thức tư tưởng của con người hay từ một lực lượng siêu tự nhiên 
nào đó. Ngay cả các nhà triết học duy vật trước Mác cũng giải thích một cách duy 
tâm về sự phát triển của xã hội. Ngày nay nhiều nhà xã hội học tư sản giải thích theo 
quan điểm kĩ thuật. Họ không nói đến các quan hệ kinh tế-xã hội- nguồn gốc sản sinh 
và thay thế các chế độ xã hội khác nhau trong lịch sử. Mặc dù là người nối tiếp những 
người đi trước nhưng Mác lại có một tư tưởng hoàn toàn khác, Ăng-ghen viết: “ Mác 
là người đầu tiên đã phát hiện ra quy luật phát triển của lịch sử loài người, nghĩa là 
tìm ra cái sự thật đơn giản là trước hết con người cần phải ăn, uống, ở, mặc, trước khi 
có thể lo đến chuyện làm chính trị, khoa học, nghệ thuật tôn giáo…’’(1) Mác đã tìm 
thấy nguyên nhân phát triển của lịch sử ngay trong đời sống vật chất của con người. 
Để đáp ứng nhu thiết yếu đó, con người thì phải tiến hành lao động sản xuất mà muốn 
vậy thì phải chế tạo công cụ lao động phục vụ cho quá trình sản xuất. Nhưng sản xuất 
không chỉ tác động vào tự nhiên mà còn phải có mối quan hệ nhất định với nhau và 
chỉ có trong phạm vi những mối liên hệ và sự tác động của con người vào sản xuất. 
Những mối quan hệ này chính là QHSX mà trước đây Mác chưa khái niệm về nó. 
Con người tồn tại và phát triển là do có sự phát triển của LLSX và QHSX của con 
người. 
 Dựa trên cơ sở này Mác đã vận dụng chủ nghĩa duy vật vào việc phân tích mối 
quan hệ giữa LLSX và QHSX, Mác đã phát hiện ra mối quan hệ giữa sự phát triển 
của LLSX với sự thay đổi của QHSX. 
1. Lực lượng sản xuất. 
 LLSX là thể thống nhất hữu cơ giữa TLSX ( trước hết là công cụ sản xuất) và 
con người với kinh nghiệm, kĩ năng, tri thức lao động của họ. 
LLSX biểu hiện mối quan hệ giữa con người với tự nhiên nghĩa là trong quá 
trình thực hiện sản xuất con người chinh phục giới tự nhiên bằng các hoạt động thực 
tiễn của mình. 
 LLSX do con người tạo ra nhưng mang tính khách quan, nó là sản phẩm của 
sự kết hợp giữa lao động sống và lao động quá khứ. 
 LLSX là tiêu chí quan trọng nhất để chỉ ra những nấc thang của sự tiến bộ xã 
hội vì các chế độ kinh tế khác nhau ở chỗ nó sản xuất bằng cách nào, với công cụ lao 
động nào. 
 LLSX bao gồm hai yếu tố cấu thành đó là tư liệu sản xuất và người lao động 
. Tư liệu sản xuất do xã hội tạo ra, trước hết là công cụ lao động.Người lao 
động với những kinh nghiệm sản xuất, thói quen lao động biết sử dụng công cụ sản 
xuất để tạo ra của cải vật chất. 
 Tư liệu sản xuất bao gồm tư liệu lao động và đối tượng lao động. 
+Tư liệu lao động : có công cụ lao động và những phương tiện lao động khác 
phục vụ trong quá trình sản xuất như những phương tiện vận chuyển, bảo quản sản 
phẩm … 
 +Tư liệu lao động là vật thể hay phức hợp vật thể mà con người đặt giữa mình 
với đối tượng lao động, chúng dẫn truyền tích cực sự tác động của con người vào đối 
tượng lao động. 
+Trong tư liệu lao động, công cụ là yếu tố quan trọng nhất.Trong quá trình sản 
xuất, công cụ lao động luôn luôn được cải tiến. Nó là yếu tố động nhất và cách mạng 
nhất trong lực lượng sản xuất. 
+Trình độ phát triển của tư liệu lao động mà chủ yếu là công cụ lao động là 
thước đo trình độ chinh phục tự nhiên của loài người, là cơ sở xác định trình độ phát 
triển của sản xuất, là tiêu chuẩn để phân biệt sự khác nhau giữa các thời đại kinh tế. 
+ Đối tượng lao động không phải là toàn bộ giới tự nhiên mà chỉ có bộ phận 
nào của giới tự nhiên đưọc đưa vào sản xuất, được con người sử dụng. Con người 
không chỉ tìm trong giới tự nhiên những đối tượng lao động có sẵn, mà còn sáng tạo 
ra bản thân đối tượng lao động. Sự phát triển của sản xuất có liên quan với việc đưa 
những đối tượng ngày càng mới hơn vào quá trình sản xuất.Điều này hoàn toàn có 
tính quy luật, bởi chính những vật liệu mới mở rộng khả năng sản xuất của con người. 
Người lao động: đó chính là người lao động với kinh nghiệm kĩ năng, tri thức 
lao động của họ. 
 Các yếu tố trong LLSX không thể tách rời nhau mà có quan hệ hữu cơ với 
nhau trong đó con người giữ vị trí hàng đầu, thiếu con người thì không có sản xuất vì 
sản xuất do con người thực hiện. 
 Chính con người với trí tuệ và kinh nghiệm của mình đã chế tạo ra tư liệu lao 
động và sử dụng nó để thực hiện sản xuất. Tư liệu lao động dù có ý nghĩa lớn lao đến 
đâu, nhưng nếu tách khỏi người lao động thì cũng không thể phát huy được tác dụng, 
không thể trở thành lực lượng sản xuất của xã hội. Lênin viết: “ lực lượng sản xuất 
hàng đầu của toàn thể nhân loại là công nhân, là người lao động”.(2) 
 Giữa các yếu tố của lực lượng sản xuất có sự tác động biện chứng. 
Sự hoạt động của tư liệu lao động phụ thuộc vào trí thông minh, sự hiểu biết, 
kinh nghiệm của con người, đồng thời, bản thân những phẩm chất của con người, 
những kinh nghiệm và thói quen của họ đều phụ thưộc vào tư liệu sản xuất hiện có, 
phụ thuộc vào chỗ họ sử dụng những tư liệu lao động nào. Không có nền đại công 
nghiệp thì không thể có người công nhân hiện đại. Sự phụ thuộc về trình độ, kinh 
nghiệm, thói quen của người sản xuất vào kĩ thuật sản xuất là một trong những biểu 
hiện sự phụ thuộc của nhân tố chủ quan vào nhân tố khách quan, nhân tố con người 
sản xuất vào nhân tố vật chất của sản xuất. 
 Ngày nay với cuộc cách mạng khoa học công nghệ đã tạo ra bước nhảy vọt 
lớn trong LLSX, khoa học kĩ thuật giữ một vai trò quan trọng trong LLSX. Thực 
chất của cuộc cách mạng đó là ở chỗ mở ra kỉ nguyên mới của sản xuất tự động hoá 
với việc phát triển và ứng dụng khoa học kĩ thuật vào sản xuất, làm tăng năng suất lao 
động. Khoa học là nguyên nhân của những thay đổi to lớn trong kĩ thuật sản xuất,nó 
tạo ra những ngành sản xuất mới đưa đến phương pháp công nghệ mới làm tăng hiệu 
quả cao trong sản xuất, phát hiện và đề ra hàng loạt các phương pháp khai thác nguồn 
năng lượng mới, tạo ra các công cụ mới, hiện đại. Tri thức khoa học được vật chất 
hoá, được kết tinh vào mọi nhân tố của LLSX, từ đối tượng lao động, tư liệu lao 
động, kĩ thuật, phương pháp công nghệ đến tri thức của người lao động. Khoa học 
công nghệ không thể thiếu dược trong LLSX. 
2. Quan hệ sản xuất 
 Quan hệ sản xuất là những quan hệ cơ bản giữa con người với con người trong 
quá trình sản xuất, thể hiện quan hệ về mặt sở hữu đối với tư liệu sản xuất, quan hệ 
trong tổ chức quản lý sản xuất, quan hệ về mặt phân phối sản phẩm. 
 Quan hệ sản xuất mang tính khách quan, nó được hình thành trong quá trình 
phát triển lịch sử-quan hệ sản xuất là quan hệ cơ bản quyết định tất cả các quan hệ xã 
hội khác của con người, quyết định tính chất của kiến trúc thượng tầng, quyết định 
nhu cầu nền sản xuất xã hội. 
 Quan hệ sản xuất là tiêu chí quan trọng để phân biệt hình thái kinh tế xã hội 
này với hình thái kinh tế xã hội khác. 
 Quan hệ sản xuất tiêu biểu cho bản chất kinh tế của một phương thức sản xuất 
xã hội nhất định. 
 Quan hệ sản xuất bao gồm những mặt cơ bản sau đây: 
 + Quan hệ giữa người với người đối với việc sở hữu về tư liệu sản xuất. 
 + Quan hệ giữa người với người đối với việc tổ chức quản lý. 
 + Quan hệ giữa người với người đối với việc phân phối sản phẩm lao động. 
 Ba mặt nói trên có quan hệ hữu cơ với nhau, trong đó quan hệ thứ nhất có vai 
trò quyết định đối với tất cả những quan hệ khác. Bản chất của bất kì QHSX nào cũng 
đều phụ thuộc vào vấn đề những tư liệu sản xuất chủ yếu trong xã hội được giải quyết 
như thế nào. 
 QHSX biểu thị mối quan hệ giữa con người với con người và con người với tự 
nhiên. Sở dĩ quá trình sản xuất xã hội có thể diễn ra một cách bình thường chính là vì 
quan hệ giữa con người với con người tồn tại thống nhất với mối quan hệ giữa con 
người với tự nhiên. 
Trong tác phẩm “ Lao động làm thuê và tư bản” Mác viết :“ trong sản xuất 
người ta không chỉ quan hệ với giới tự nhiên, người ta không thể sản xuất được nếu 
không kết hợp nhau theo một theo một cách nào đó để hoạt động chung và trao đổi 
hoạt động với nhau. Muốn sản xuất được người ta phải có mối liên hệ và quan hệ nhất 
định với nhau và quan hệ của họ với giới tự nhiên tức là việc sản xuất”.(3 ) Tuy QHSX 
là do con người tạo ra song nó lại tuân theo những quy luật tất yếu khách quan của sự 
vận động của đời sống xã hội. 
QHSX là hình thức xã hội của LLSX và là cơ sở sâu xa của đời sống tinh thần 
xã hội. Ba mặt quan hệ trên trong quá trình sản xuất xã hội luôn gắn bó với nhau, tạo 
thành một hệ thống mang tính ổn định tương đối so với sự vận động không ngừng của 
LLSX. Các QHSX của một phương thức sản xuất là một hệ thống bao gồm các mối 
quan hệ phong phú, đa dạng biểu hiện dưới nhiều hình thức và quan hệ sở hữu đối với 
tư liệu sản xuất là đặc trưng cơ bản của phương thức sản xuất.. 
II.Quy luật về sự phù hợp giữa QHSX với tính chất và trình độ phát triển của 
LLSX. 
Thế nào là sự phù hợp của QHSX với tính chất và trình độ của LLSX? Sự phù 
hợp được quan niệm là LLSX có tính chất và trình độ như thế nào thì QHSX có tính 
chất tương ứng đó là “sự thống nhất biện chứng chứa đựng mâu thuẫn”, sự phù hợp 
không phải là một công thức cụ thể, không phải là sự “trùng khít” giữa hai yếu tố. 
Tiêu chí của sự phù hợp được biểu hiện thông qua sự tác động biện chứng giữa LLSX 
và QHSX mà năng xuất lao động tăng, LLSX phát triển, đồng thời đảm bảo những điều kiện 
về xã hội và môi trường. 
1. Tính chất và trình độ của LLSX. 
 Tính chất của LLSX là tính chất của quá trình sản xuất ra sản phẩm. Quá trình 
này phụ thuộc tính chất của tư liệu sản xuất và lao động. LLSX có tính cá nhân thể 
hiện tính chất của tư liệu sản xuất là sử dụng công cụ thủ công và tính chất của lao 
động là riêng lẻ. Khi máy móc, thiết bị, công cụ lao động hiện đại ra đời, làm ra một 
sản phẩm cần sự hợp tác của nhiều người, mỗi người làm một bộ phận công việc 
mới hoàn thành sản phẩm, nên LLSX mang tính chất xã hội hoá. 
 Trình độ của LLSX là trình độ phát triển của công cụ lao động, của kĩ thuật, 
trình độ kinh nghiệm, kĩ năng của người lao động, quy mô sản xuất, trình độ phân 
công lao động xã hội… trong đó trình độ phân công lao động thể hiện rõ nhất trình độ 
của LLSX. Sự phù hợp của QHSX với trình độ phát triển của LLSX là một tất yếu 
trong quá trình sản xuất, để thúc đẩy sản xuất phát triển. 
2.Vai trò của LLSX đối với QHSX. 
Trong quá trình sản xuất, để lao động bớt nặng nhọc và hiệu quả hơn, con 
người luôn tìm cách cải tiến, hoàn thiện công cụ lao động và chế tạo những công cụ 
lao động mới, tinh xảo hơn. 
LLSX trở thành yếu tố hoạt động nhất và cách mạng nhất, còn QHSX là yếu 
tố tương đối ổn định, có khuynh hướng lạc hậu hơn sự phát triển của lực lượng sản 
xuất. 
 LLSX là nội dung của phương thức sản xuất còn QHSX là hình thức xã hội. 
Trong quan hệ giữa nội dung và hình thức thì nội dung quyết định hình thức, hình 
thức phụ thuộc vào nội dung, hình thức tác động trở lại đối với việc phát triển của nội 
dung, do đó LLSX quyết định đối với QHSX. Cùng với sự phát triển của LLSX, 
QHSX cũng hình thành và biến đổi cho phù hợp với tính chất và trình độ của LLSX. 
 Cùng với sự phát triển của LLSX, QHSX cũng hình thành và biến đổi cho phù 
hợp với tính chất và trình độ của LLSX. Sự phù hợp đó là động lực làm cho LLSX 
phát triển mạnh mẽ. Nhưng LLSX luôn phát triển còn QHSX có xu hướng tương đối 
ổn định. Khi LLSX đã phát triển lên một trình độ mới, QHSX không còn phù hợp với 
nó nữa, trở thành chướng ngại đối với sự phát triển của nó, sẽ nảy sinh mâu thuẫn gay 
gắt giữa hai mặt của phương thức sản xuất. Sự phát triển khách quan đó tất yếu dẫn 
đến việc xoá bỏ QHSX cũ, thay bằng một kiểu QHSX mới phù hợp với tính chất và 
trình độ của LLSX, cũng có nghĩa là sự ra đời của phương thcs sản xuất mới, mở 
đường cho LLSX phát triển. Trong xã hội có giai cấp, mâu thuẫn giữa LLSX mới và 
QHSX lỗi thời là cơ sở khách quan của cuộc đấu tranh giai cấp, đồng thời cũng là tiền 
đề tất yếu của cuộc cách mạng xã hội. 
 Mác viết: “ Do có được những LLSX mới loài người thay đổi phương thức sản 
xuất của mình. Cái cối xay quay bằng tay đưa lại xã hội có lãnh chúa, cái cối xay 
chạy bằng hơi nước đưa lại xã hội có nhà tư bản chủ nghĩa’’.(4) 
Quy luật về sự phù hợp của QHSX với tính chất và trình độ của LLSX là quy 
luật cơ bản của sự phát triển xã hội loài người. Sự tác động của nó trong lịch sử làm 
cho xã hội chuyển từ hình thái kinh tế – xã hội thấp lên hình thái kinh tế – xã hội khác 
cao hơn. 
3. Sự tác động trở lại của QHSX đối với LLSX 
 Sự hình thành, biến đổi, phát triển của QHSX phụ thuộc vào tính chất và trình 
độ của LLSX. LLSX có vai trò quyết định QHSX nhưng QHSX là một hình thức xã 
hội mà LLSX dựa vào nó để phát triển, thể hiện ở hai điểm sau đây: 
+ Nếu QHSX phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của LLSX thì nó sẽ 
trở thành động lực cơ bản thúc đẩy mở đường, tạo ra những điều kiện thúc đẩy LLSX 
phát triển. 
 + Nếu QHSX lỗi thời không còn phù hợp với tính chất và trình độ của LLSX, 
bộc lộ mâu thuẫn gay gắt với LLSX thì nó trở thành“ xiềng xích trói buộc’’ kìm hãm 
sự phát triển của LLSX. 
 Sở dĩ QHSX có thể tác động mạnh mẽ trở lại đối với LLSX (thúc đẩy hoặc 
kìm hãm) vì nó quy định mục đích sản xuất của xã hội, quy định hệ thống tổ chức 
quản lí sản xuất và quản lí xã hội, quy định phương thức phân phối sản phẩm lao 
động, nó tạo ra những điều kiện kích thích hoặc hạn chế việc cải tiến công cụ lao 
động, áp dụng khoa học kĩ thuật vào sản xuất, hợp tác và phân công lao động… 
 Như vậy có thể nói, sự liên hệ tác động qua lại biện chứng giữa LLSX và 
QHSX trong một phương thức sản xuất đã hình thành nên quy luật phổ biến của toàn 
bộ lịch sử xã hội loài người: quy luật QHSX phù hợp với tính chất và trình độ của 
LLSX. Quy luật này chi phối toàn bộ lịch sử nhân loại, nó làm cho lịch sử là một 
dòng chảy liên tục nhưng mang tính gián đoạn. 
III. Sự tồn tại và phát triển của quy luật QHSX phù hợp với tính chất và trình độ 
phát triển của LLSX trong lịch sử. 
Trong xã hội bao giờ cũng tồn tại những qui luật chung, sự tồn tại và phát triển 
của những qui luật ấy gắn liền với sự phát triển của xã hội. Có thể nói qui luật QHSX 
phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của LLSX là một quy luật chung nhất của 
xã hội. 
Vào thời kì đầu lịch sử, thời kì công xã nguyên thuỷ thì LLSX thấp kém cả về 
lượng và chất. Trình độ hiểu biết của con người còn thấp, công cụ lao động thô sơ, 
trong quá trình sinh sống con người luôn tìm cách để tăng năng suất lao động. Họ đã 
không ngừng chế tạo ra công cụ lao động mới tiến bộ hơn trước, dần dần LLSX phát 
triển hơn dẫn đến QHSX cộng đồng trước kia bị phá vỡ và dần xuất hiện QHSX tư 
nhân. Khi đó chế độ công xã nguyên thuỷ đã chuyển sang một hình thái khác đó là 
chế độ chiếm hữu nô lệ, do xuất hiện công cụ lao động hiện đại hơn và quan hệ tư 
nhân dẫn đến chủ nô bóc lột người nô lệ lao động bằng cách đưa vào quá trình sản 
xuất hàng loạt công cụ tinh xảo hơn. Khi đó nô lệ lao động bị bóc lột hết sức dã man 
và họ lầm tưởng là do những công cụ lao động tinh xảo đó, nên họ đã tiến hành các 
cuộc khởi nghĩa phá huỷ các công cụ lao động. 
Khi chế độ chiếm hữu nô lệ tan rã thì chế độ phong kiến ra đời, vào cuối thời 
kì phong kiến xuất hiện các công trường thủ công dẫn đến LLSX mâu thuẫn với 
QHSX, chế độ tư bản chạy theo giá trị thặng dư, bóc lột người lao động quá sức, cho 
nên họ đã đấu tranh để chống lại chủ nghĩa tư bản, do đó QHSX tư bản chủ nghĩa tất 
yếu sẽ bị thay thế bằng QHSX mới tiến bộ hơn với xu thế phát triển của LLSX và đó 
là QHSX xã hội chủ nghĩa. QHSX xã hội chủ nghĩa hình thành 1mở ra kỉ nguyên mới 
định hướng cho sự vận động, phát triển của xã hội. 
vấN đề II : Vận dụng quy luật QHSX phù hợp với tính chất và trình độ 
phát triển của LLSX vào công cuộc đổi mới kinh tế nước ta. 
I. Qúa trình vận dụng quy luật QHSX phù hợp với tính chất và trình độ phát triển 
của LLSX trong công cuộc đổi mới nền kinh tế đất nước. 
Quy luật QHSX phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của LLSX là quy 
luật vận động, phát triển của xã hội qua sự thay thế kế tếp nhau của phương thức sản 
xuất. Nhưng không phải bất cứ nước nào cũng nhất thiết phải tuần tự trải qua tất cả 
các phương thức sản xuất mà loài người đã biết đến. Thực tế lịch sử của nhân loại cho 
thấy, tuỳ theo điều kiện lịch sử cụ thể, một số nước có thể bỏ qua một hoặc một số 
phương thức sản xuất để tiến lên phương thức sản xuất cao hơn. Đó chính là sự biểu 
hiện của quy luật chung trong điều kiện cụ thể của mỗi nước. Quy luật chung chi 
phối xu hướng vận động phát triển của tất cả các nước; còn hình thức bước đi cụ thể 
lại tuỳ thuộc vào điều kiện cụ thể của mỗi nước. 
Nước ta quá độ lên chủ nghĩa xã hội từ một xã hội vốn là thuộc địa nửa phong 
kiến, LLSX rất thấp. Bản thân đặc điểm quá độ lên chủ nghĩa xã hội của nước ta là bỏ 
qua chế độ tư bản đã nói lên rằng, đất nước ta chưa có tiền đề về cơ sở vật chất – kĩ 
thuật cho chủ nghĩa xã hội do chủ nghĩa tư bản tạo ra. Đối với các nước đã qua chế độ 
tư bản hoặc chủ nghĩa tư bản phát triển ở mức trung bình cũng không thể thiết lập 
ngay lập tức chế độ công hữu trong toàn bộ đời sống kinh tế. Nước ta, với nền kinh tế 
lạc hậu, điểm xuất phát lại thấp, lại càng không thể xây dựng nhanh chóng chế độ 
công hữu mà phải trải qua một thời kì lịch sử lâu dài, qua nhiều nấc trung gian, quá 
độ. Chính vì không nhận thức rõ mối quan hệ biện chứng giữa LLSXvà QHSX mà 
trước đây có lúc chúng ta đã chủ quan, duy ý chí trong việc thiết lập chế độ công hữu. 
Điều đó làm ảnh hưởng đến sự phát triển LLSX, phát tri