Đổi mới phương pháp dạy học là cuộc cách mạng trong ngành giáo dục từ
nhiều thập niên qua nhằm phát huy tính chủ động, tích cực của HS, góp phần đào tạo
những con người năng động, sáng tạo, những người chủ tương lai đất nước. Đổi mới
phương pháp dạy học bộ môn Ngữ văn cũng nằm trong quỹ đạo chung ấy, nhất là từ
chương trình và SGK mới thực hiện từ năm 2002 đến nay.
Phương pháp dạy làm văn đã được trang bị trong quá trình đào tạo tại các
trường sư phạm, được tập huấn trong các đợt bồi dưỡng thay SGK nhưng việc dạy
TLV ở cấp THCS còn gặp rất nhiều khó khăn. GV tỏ ra lúng túng trong quá trình tổ
chức, thiết kế giờ dạy, giải quyết việc phân tích mẫu để hình thành khái niệm, luyện
tập rèn kĩ năng tạo lập văn bản cho HS Đối với HS, thực tế cho thấy các em rất
ngán ngại viết bài TLV và chưa có hứng thú học tập phân môn một cách tích cực.
Thực tế đó đòi hỏi người dạy phải nỗ lực không ngừng để trang bị cho HS kiến thức
lý thuyết làm văn, kĩ năng vận dụng tiếng Việt vào việc tạo lập văn bản.
129 trang |
Chia sẻ: duongneo | Lượt xem: 2426 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Rèn luyện kĩ năng sử dụng ngôn ngữ để tạo lập văn bản tự sự cho học sinh trung học cơ sở, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
PHAN THỊ MỸ TIÊN
RÈN LUYỆN KĨ NĂNG SỬ DỤNG NGÔN
NGỮ ĐỂ TẠO LẬP VĂN BẢN TỰ SỰ
CHO HỌC SINH TRUNG HỌC CƠ SỞ
Chuyên ngành : Lý luận và phương pháp dạy học môn Văn
Mã số : 60 14 10
LUẬN VĂN THẠC SĨ GIÁO DỤC HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC :
PGS.TS. ĐẶNG NGỌC LỆ
Thành phố Hồ Chí Minh – 2007
LỜI CẢM ƠN
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đối với PGS.TS. Đặng Ngọc Lệ,
người đã tận tình hướng dẫn, hết lòng giúp đỡ để tôi hoàn thành luận văn này.
Xin chân thành cảm ơn quý Thầy, Cô trường Đại học Sư Phạm TP.
HCM đã tận tâm hướng dẫn, giảng dạy chúng tôi trong thời gian qua.
Xin cám ơn Khoa Văn, Phòng Khoa học Công nghệ - Sau đại học
trường Đại học Sư phạm TP. HCM, lãnh đạo Phòng Giáo Dục Quận 6, Hiệu
trưởng các trường THCS, các đồng nghiệp là giáo viên mạng lưới và giáo
viên giảng dạy bộ môn Ngữ văn ở Quận 6 đã tạo mọi điều kiện thuận lợi,
nhiệt tình giúp đỡ tôi trong suốt quá trình làm luận văn.
Tôi xin được dành lời cảm ơn cho gia đình và bạn bè đã động viên,
khuyến khích tôi hoàn thành luận văn này.
Tác giả luận văn
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
GV : giáo viên
HS : học sinh
Nxb : nhà xuất bản
SGK : sách giáo khoa
SL : số lượng
TLV : tập làm văn
TL : tỉ lệ
THCS : Trung học sơ sở
VBTS : văn bản tự sự
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Đổi mới phương pháp dạy học là cuộc cách mạng trong ngành giáo dục từ
nhiều thập niên qua nhằm phát huy tính chủ động, tích cực của HS, góp phần đào tạo
những con người năng động, sáng tạo, những người chủ tương lai đất nước. Đổi mới
phương pháp dạy học bộ môn Ngữ văn cũng nằm trong quỹ đạo chung ấy, nhất là từ
chương trình và SGK mới thực hiện từ năm 2002 đến nay.
Phương pháp dạy làm văn đã được trang bị trong quá trình đào tạo tại các
trường sư phạm, được tập huấn trong các đợt bồi dưỡng thay SGK nhưng việc dạy
TLV ở cấp THCS còn gặp rất nhiều khó khăn. GV tỏ ra lúng túng trong quá trình tổ
chức, thiết kế giờ dạy, giải quyết việc phân tích mẫu để hình thành khái niệm, luyện
tập rèn kĩ năng tạo lập văn bản cho HS Đối với HS, thực tế cho thấy các em rất
ngán ngại viết bài TLV và chưa có hứng thú học tập phân môn một cách tích cực.
Thực tế đó đòi hỏi người dạy phải nỗ lực không ngừng để trang bị cho HS kiến thức
lý thuyết làm văn, kĩ năng vận dụng tiếng Việt vào việc tạo lập văn bản.
Chương trình TLV THCS tập trung giảng dạy 6 kiểu văn bản gồm tự sự, miêu
tả, biểu cảm, nghị luận, thuyết minh và hành chính công vụ. VBTS nổi lên như một
phương thức quan trọng, xuyên suốt từ đầu cấp đến cuối cấp. Nhưng việc dạy và học
tạo lập VBTS chưa được đầu tư đúng mức, có xu hướng xem nhẹ. GV và HS thường
cho đây là thể loại đơn giản, được học từ chương trình Tiểu học, chỉ cần nghĩ gì viết
ấy, hoặc thấy gì viết đó Tâm lí này gây sự chây lười trong việc rèn luyện tạo lập
VBTS của HS.
Tự sự là phương thức phản ánh đời sống chân thực. Vấn đề lý thuyết tự sự
ngày càng được quan tâm phổ biến. Bởi vì lý thuyết tự sự cung cấp một bộ công cụ
cơ bản, sắc bén nhất giúp cho người ta có thể đi sâu vào các lĩnh vực nghiên cứu
khác. “Tự sự học phải liên kết với các ngành khác để hiểu biết con người và hiểu biết
sự vật.” [75]. Nghiên cứu lý thuyết của VBTS và các vấn đề liên quan khác là nhằm
tìm hiểu đặc trưng VBTS và dạy HS tạo lập VBTS theo yêu cầu của nhà trường, nhất
là ở cấp THCS. Tạo lập VBTS chính là cách bồi dưỡng khả năng quan sát cuộc sống,
bồi dưỡng tư tưởng, tình cảm đẹp, góp phần hình thành nhân cách cho HS.
Vận dụng kiến thức của tiếng Việt vào việc tạo lập văn bản là nhiệm vụ của
chương trình môn Ngữ văn nhằm hình thành và phát triển ở HS năng lực sử dụng
tiếng Việt. Tạo lập VBTS như thế nào từ cách sử dụng từ ngữ, câu, đoạn văn, các
phương tiện liên kết trở thành một vấn đề quan trọng giúp HS có kiến thức và kĩ
năng làm tốt bài văn trong nhà trường THCS. Đề tài luận văn đặt trọng tâm ở việc rèn
luyện kĩ năng sử dụng ngôn ngữ trong tạo lập VBTS có cơ sở khoa học từ vị trí, mục
tiêu, quan điểm xây dựng và phát triển chương trình của bộ môn Ngữ văn.
Từ những lí do trên, tìm hiểu các đặc điểm ngôn ngữ của văn tự sự để rèn luyện
cho HS kĩ năng sử dụng ngôn ngữ trong tạo lập VBTS trở thành nhu cầu cấp thiết
góp phần đổi mới phương pháp giảng dạy, nâng cao chất lượng học tập bộ môn, hoàn
thành tốt mục tiêu của môn học.
2. Lịch sử vấn đề
2.1 . Sách giáo khoa
SGK chương trình cũ (chương trình cải cách (1986), chương trình chỉnh lí
(1995)) : TLV được coi là một phân môn trong môn Tiếng Việt, nhưng vẫn có SGK
riêng mang tên TLV bên cạnh SGK Văn và Tiếng Việt. Phân phối chương trình quy
định dạy TLV về Kể chuyện ở lớp 7, sau khi HS đã được học về Trần thuật, Miêu tả
(lớp 6) Tường thuật (lớp 7). Các kiểu bài miêu tả, trần thuật, tường thuật, kể chuyện
chỉ tập trung vào hai khối lớp đầu cấp 6, 7.
Chương trình và SGK mới THCS (2002) được xây dựng trên quan điểm tích
hợp ba phân môn Văn học, Tiếng Việt và TLV. Theo tinh thần này, cả ba phân môn
có mối liên hệ hết sức chặt chẽ, phụ thuộc vào nhau, hỗ trợ lẫn nhau trong mỗi bài
học và xuyên suốt với các bài học khác trong chương trình. Phương châm của việc
tích hợp là nhằm hướng cho HS hệ thống các tri thức riêng của từng phân môn Văn,
Tiếng Việt, Làm văn và gắn kết những tri thức có quan hệ với nhau giữa các phân
môn, giúp HS biết vận dụng những kiến thức đã học vào việc cảm nhận, thẩm định
cái hay, cái đẹp của văn bản, tạo lập văn bản, phục vụ cho hoạt động giao tiếp trong
đời sống hàng ngày. Chương trình THCS được chia thành hai vòng, theo vòng tròn
đồng tâm. Vòng một (lớp 6, 7) sẽ giữ vai trò cung cấp các kiến thức cơ bản. Vòng hai
(lớp 8, 9), HS sẽ được học các kiến thức mới trên cơ sở những điều đã học một cách
nâng cao, sâu sắc hơn. TLV về VBTS được bố trí cả ở hai vòng. Lý thuyết và kĩ năng
làm bài văn Tự sự luôn được ôn luyện và nâng cao. Chương trình mới đã có sự cải
tiến rõ rệt trong việc bố trí thời lượng dạy tạo lập VBTS, giúp HS có điều kiện ôn
luyện, thực hành và nâng cao kĩ năng làm bài. Sự tập trung cho thể loại Tự sự ở các
cấp lớp cũng thể hiện sự phong phú của thể loại này trong việc giảng dạy và học tập
trong chương trình THCS.
SGK Ngữ văn 10, tập I [35] - chương trình Trung học phổ thông (2006) tiếp
tục hướng dẫn HS thực hành và rèn luyện viết văn tự sự ở mức độ cao hơn THCS.
Điều đó cho thấy chương trình đã quan tâm và dành nhiều thời gian cho HS phổ
thông học tập và rèn luyện tạo lập VBTS.
Trong quá trình xây dựng chương trình, các bài dạy cung cấp cho HS kiến thức
và hướng dẫn luyện tập cách làm bài nhưng vấn đề sử dụng ngôn ngữ như thế nào và
cách thức rèn luyện kĩ năng sử dụng ngôn ngữ ra sao chưa được quan tâm đúng mức.
2.2 . Các sách tham khảo về ngôn ngữ tiếng Việt và dạy học TLV tự sự
Từ điển Văn học (bộ mới) [29], Từ điển thuật ngữ Văn học [21], Từ điển Tiếng
Việt [71] đã giải thích về thuật ngữ Tự sự trên nhiều phương diện từ định nghĩa, nêu
đặc điểm, các phương tiện, biện pháp tự sự, hình thức tự sự, ngôi kể, người trần
thuật Tự sự chỉ một trong ba phương thức biểu đạt của văn học (bên cạnh trữ tình
và kịch). “Tự sự tái hiện hành động diễn ra trong thời gian và không gian, tái hiện các
tiến trình biến cố trong cuộc đời các nhân vật Nét đặc thù của tự sự là vai trò tổ
chức của trần thuật với ngôn từ chủ yếu làm chức năng thông báo về cái đã xảy ra từ
trước”[29]. Tự sự là phương thức tái hiện đời sống trong toàn bộ tính khách quan...
[21]. Khái niệm tự sự trong các sách trên đã được giải thích khá toàn diện và thống
nhất, là cơ sở lý luận trong quá trình nghiên cứu về đặc trưng VBTS.
R. Barthes và tự sự học (Lời giới thiệu của Đỗ Lai Thuý, Tôn Quang Cường
dịch từ bản tiếng Nga - http
://vanhoanghethuat.org.vn/sach/sudongdanh/rbathes.htm) [73] : Đỗ Lai Thuý giới
thiệu về Roland Barthes (1915 –1980) là một nhà phê bình văn học, nhà văn hoá học,
một trong những đại biểu nổi tiếng nhất của trường phái kí hiệu học Pháp. Tự sự học
cấu trúc của R. Barthes được xác định như là sự phân tích các thành tố và những cơ
chế của truyện kể, nó trình bày một câu chuyện qua hành động kể, sự kể. Tự sự học
quan tâm đến truyện kể như một phương thức trình bày bằng ngôn từ. Nó trả lời câu
hỏi : ai kể cái gì và như thế nào ? Tác phẩm tự sự học tiêu biểu của R. Barthes và của
cả tự sự học cấu trúc nói chung là Đường vào phân tích cấu trúc truyện kể. Sau phần
nhập môn phân tích cấu trúc truyện kể, mục một trình bày ngôn ngữ các VBTS với
đặc điểm chủ yếu là vượt ra giới hạn của câu. Theo quan điểm cấu trúc, bất cứ VBTS
nào cũng đều được xây dựng theo mô hình của câu, bất cứ một truyện nào cũng là
một câu lớn và câu kể chính là một sự tỉnh lược của một câu nhỏ. Các “chủ thể” lẫn
cụm chủ vị trong VBTS cũng đều tuân thủ quy tắc cấu tạo câu. Nhưng giữa câu ngôn
bản tồn tại các mối quan hệ đồng đẳng khi lưu ý đến mặt hình thức của chúng. Những
mục tiếp theo về chức năng, hành động, tường thuật, hệ thống VBTS đã được đề cập
chi tiết. Barthes đã đi tìm định nghĩa cấu trúc về nhân vật, vấn đề chủ thể, tình huống
kể,và đưa ra các cấp độ của từng đơn vị nghiên cứu. Các vấn đề mà Barthes đặt ra
có giá trị phương pháp luận khi nghiên cứu về VBTS và rèn luyện các kĩ năng tạo lập
VBTS.
Văn miêu tả và kể chuyện – Vũ Tú Nam - Phạm Hổ - Bùi Hiển - Nguyễn
Quang Sáng – Nxb GD 2001 [39]. Sách ghi lại những kinh nghiệm quý báu của các
nhà văn có sở trường về miêu tả và kể chuyện. Những đặc điểm của bài văn kể
chuyện như nhân vật, cốt truyện, tình huống, tình tiết đã được các tác giả cụ thể hóa
bằng những mẩu minh họa sinh động. Các nhà văn cũng lưu ý về nghệ thuật kể
chuyện, nhất là kĩ năng mở bài và kết thúc câu chuyện [39, tr.23-38]. Nhà văn Vũ Tú
Nam đưa ra kinh nghiệm quan sát thiên nhiên và loài vật và nhấn mạnh nội dung phải
được thể hiện một cách tự nhiên, dung dị qua các chi tiết sinh động của cảnh và vật
đồng thời dùng câu chữ cho chính xác, sinh động, gợi cảm [39, tr.7-8]. Nhà văn Phạm
Hổ đưa ra những dẫn chứng cụ thể cho một bài kể chuyện có các tình huống hợp lý,
đúng sự thật, làm cho người đọc, người nghe tin là có thật. Nhà văn Bùi Hiển thì nêu
kinh nghiệm viết văn kể chuyện của mình là sự quan sát, xuất phát từ tình cảm chân
thành, chi tiết hợp lý, phù hợp với lô gích tâm lý. Các điều kiện không thể thiếu cho
bài văn kể chuyện là câu chuyện phải tự nhiên, sự việc được coi như có thể xảy ra
thực và liên kết các sự việc trong chuyện sao cho câu chuyện ý vị, hấp dẫn, nhiều
kịch tính [39, tr.39-60]. Nhà văn Nguyễn Quang Sáng cũng đặt vấn đề về quan sát,
không chỉ quan sát bằng mắt mà bằng tấm lòng, nắm bắt chi tiết quý báu từ đời sống
và đưa vào trong tác phẩm [39, tr.61-66] Những kinh nghiệm thực tiễn của các nhà
văn – những người viết văn chuyên nghiệp đã giúp ích GV rất nhiều trong quá trình
dạy HS làm văn theo yêu cầu, mục tiêu của nhà trường, đồng thời giúp HS sáng tạo
một cách tự tin khi tạo lập VBTS.
Sách Làm văn (Giáo trình đào tạo GV THCS hệ Cao đẳng Sư phạm (Lê A –
Nguyễn Trí – NXBGD – 2001) [1, tr.167-214] : Sách đã hướng dẫn cụ thể từ “Khái
quát về văn kể chuyện” đến “Phương pháp làm bài văn kể chuyện” và các bài tập
thực hành, trang bị cho sinh viên những kiến thức khá toàn diện về chương trình
giảng dạy và về văn kể chuyện. Từ việc nêu vai trò của văn kể chuyện nói chung, văn
kể chuyện được dạy trong nhà trường, đặc điểm văn kể chuyện và cách phân loại, các
tác giả đã đưa các ví dụ minh hoạ và phân tích chi tiết. Phần “Phương pháp làm bài
kể chuyện” gồm các bước tìm ý, chọn ý và xác định ý nghĩa cho câu chuyện, lập dàn
ý, viết bài văn Ở phần viết bài văn, các tác giả đã có chú ý đến mở đầu và kết thúc
câu chuyện, đến viết lời kể (giới thiệu, thuyết minh) về nhân vật và sự việc, miêu tả
trong văn kể chuyện và chú ý đến ngôi kể. Các phương pháp này nhằm phục vụ cho
việc giảng dạy văn kể chuyện trong chương trình của nhà trường hiện hành lúc bấy
giờ. Những vấn đề về lý thuyết được đề cập khá chi tiết. Vấn đề rèn luyện kĩ năng sử
dụng ngôn ngữ cho HS chưa được đề cập.
Ngữ pháp văn bản và việc dạy làm văn – Nguyễn Trọng Báu – Nguyễn Quang
Ninh – Trần Ngọc Thêm, Nxb Giáo Dục, Hà Nội (1985) [7] trình bày một cách tinh
giản những vấn đề và kết quả nghiên cứu hiện có trong lĩnh vực ngữ pháp văn bản và
dạy làm văn như một ứng dụng và thiết thực nhất của ngữ pháp văn bản. Các tác giả
đã đưa ra một số vấn đề cơ bản của ngữ pháp văn bản như lĩnh vực trên câu, sự ra đời
của ngữ pháp văn bản, liên kết câu, chỉnh thể trên câu đoạn văn. Đặc biệt trong “Thay
phần kết luận, các tác giả đã “thử ứng dụng ngữ pháp văn bản vào việc dạy làm văn
và giảng văn”. Phần ứng dụng này còn trình bày còn dè dặt và sơ lược [7, tr.144-151]
một số ứng dụng, việc ứng dụng các kiến thức tiếng Việt trong dạy TLV chưa đặt
thành trọng tâm.
Phương pháp dạy học tiếng Việt - Lê A chủ biên, Nguyễn Quang Ninh, Bùi
Minh Toán, NXB GD, 2003, chương 7 trình bày phương pháp dạy học Làm văn [2,
tr.185-238]. Các tác giả đã cung cấp một số tiền đề lý thuyết của việc dạy làm văn.
Phương pháp dạy học Làm văn đề cập đến phương pháp dạy lý thuyết, phương pháp
dạy thực hành, phương pháp ra đề làm văn, phương pháp chấm và trả bài làm văn.
Phần cuối chương là một số kĩ năng làm văn cần rèn luyện cho HS gồm sáu kĩ năng.
Đó là kĩ năng xác định nội dung, yêu cầu của đề bài và phương hướng triển khai bài
viết, kĩ năng lập ý, kĩ năng viết đúng theo dàn ý, kĩ năng lập luận, kĩ năng hành văn,
kĩ năng hoàn thiện bài viết. Ở kĩ năng hành văn, các tác giả đặt vấn đề : “Có thể gộp
vào kĩ năng hành văn cả những năng lực sử dụng các đơn vị ngôn ngữ ở HS. Đó là kĩ
năng dùng từ, đặt câu, dựng đoạn” [2, tr.236]. Vì khi HS làm văn, về cơ bản, chỉ chú
ý chạy theo nội dung, bám sát các ý, chưa quan tâm tới việc lựa chọn phương tiện thể
hiện nội dung đó như thế nào một cách đầy đủ. Hoặc trong bài viết có ý, có nội dung
nhưng do vốn từ ít, nắm không vững các kiểu kết cấu ngữ pháp của câu, hoặc do ít
được vận dụng, ít được luyện tập nên ý không thoát và lời không đạt. Tuy không
trình bày các phương pháp dạy cụ thể cho từng kiểu văn bản, các tác giả cũng đã đề
cập đến một số kĩ năng cần rèn luyện cho HS. Đây là nội dung mà đề tài luận văn
hướng đến.
Hướng dẫn dạy TLV lớp 7 – Trần Đình Sử – Vũ Nho – Nguyễn Trí, Nxb GD
(1998) [56] : sách có tính chất tham khảo với mục đích giúp HS nắm vững lý thuyết
cơ bản, tăng cường kĩ năng thực hành. Phần lý thuyết trình bày ngắn gọn, cụ thể lý
thuyết kiểu bài và cách làm bài kể chuyện. Phần thực hành gồm nhiều đề cho HS
luyện tập. Sau đó là các bài kham khảo TLV. Sách đã cung cấp cho HS một hệ thống
đề, dàn ý, những bài văn tham khảo, giúp HS có một số tư liệu cần thiết trong quá
trình làm TLV. Tuy nhiên, sách cũng chưa đặt vấn đề hướng dẫn HS sử dụng ngôn
ngữ, rèn các kĩ năng sử dụng ngôn ngữ cho HS như thế nào trong quá trình viết bài
văn kể chuyện.
Phát triển ngôn ngữ cho HS phổ thông - Trương Dĩnh - Nxb Đà Nẵng (2000)
[17] đề cập ý nghĩa, nội dung, nguyên tắc, phương pháp cụ thể đối với việc phát triển
ngôn ngữ, khai thác các biện pháp rèn luyện từ chính âm đến từ ngữ, ngữ pháp,
phong cách với các mô hình và ví dụ cụ thể. Các quan điểm hiện đại về dạy học tiếng
Việt như các mối quan hệ giữa ngôn ngữ và tư duy, ngôn ngữ và nhân cách, ngôn ngữ
và giao tiếp được dẫn giải dễ hiểu. Tập sách chưa đặt vấn đề về rèn luyện và phát
triển kĩ năng sử dụng ngôn ngữ trong một phương thức tạo lập văn bản, cụ thể là
VBTS.
Các sách tham khảo khác : Những bài làm văn tự sự và Miêu tả 6 –Nguyễn
Quang Ninh – Nxb Giáo dục 2005 [44] ; Hướng dẫn TLV 6 - Vũ Nho chủ biên –
Nguyễn Thúy Hồng, Trần Thị Nga, Trần Thị Thành –– Nxb Giáo dục 2004 [41] ; Rèn
kĩ năng làm văn tự sự và miêu tả 6 - Đoàn Thị Kim Nhung, Phạm Thị Nga –Nxb Đại
học quốc gia TP Hồ Chí Minh 2006 [42] ; Tư liệu dạy Ngữ văn 6, 7, 8, 9 - Đỗ Ngọc
Thống– Nxb Giáo dục 2003 – 2006 [61] ; Các dạng bài TLV và cảm thụ thơ văn 6, 7,
8 , 9 - Cao Bích Xuân –– Nxb Giáo dục 2003- 2006 [69] ; Một số kiến thức, kĩ năng
và bài rập nâng cao Ngữ văn 6, 7, 8, 9 - Nguyễn Thị Mai Hoa – Đinh Chí Sáng –
Nxb Giáo dục 2003 – 2006 [23] và các tác giả khác với các quyển những bài làm văn
chọn lọc, những bài làm văn hay các lớp 6, 7, 8, 9,Đây là các sách bài tập và tham
khảo theo chương trình SGK mới 2002. Nội dung trình bày của các sách trên có
những điểm chung là tìm hiểu khái quát về tự sự và đặc điểm của văn tự sự, các kiểu
bài tự sự thường gặp, những điều cần lưu ý, phương pháp làm bài văn tự sự, các bài
tập rèn luyện và một số bài văn mẫu. Tuy nhiên cũng có rất nhiều sách chỉ cung cấp
cho HS, GV và phụ huynh những bài văn mẫu mà không định hướng phương pháp
cũng như rèn những kĩ năng hình thành năng lực viết VBTS cho HS.
Qua các tài liệu tham tham khảo, khái niệm và đặc điểm về văn tự sự được
trình bày khá thống nhất, luận văn kế thừa thành quả nghiên cứu vào việc tìm hiểu
đặc điểm của VBTS. Việc rèn luyện về kĩ năng sử dụng ngôn ngữ được trình bày
lồng ghép trong các yêu cầu, phương pháp làm bài văn tự sự, chưa đặt thành vấn đề
cụ thể để hướng dẫn HS rèn luyện.
Đặc trưng của VBTS được xếp vào loại các văn bản nghệ thuật, bản thân nó
vốn là một loại văn bản vừa mang tính thực tế vừa có tính sáng tạo cao. Đưa vào
chương trình giảng dạy trong nhà trường, quá trình rèn luyện viết VBTS không chỉ
cần thiết có các phương pháp đi từ dễ đến khó, từ cơ bản đến nâng cao, mà còn chú
trọng cho HS cách dùng từ ngữ, câu, liên kết câu cũng như những định hướng đúng
để tạo lập được VBTS đạt yêu cầu cao Đây là một lĩnh vực nghiên cứu còn nhiều
hứa hẹn, góp phần nâng cao chất lượng học tập bộ môn, giúp HS có kĩ năng làm bài,
đồng thời tạo sự yêu thích học văn trong HS, tạo cơ sở để bồi dưỡng và nâng cao
năng lực của HS trong việc tạo lập văn bản, nhất là VBTS.
Dạy tạo lập VBTS chú ý rèn kĩ năng sử dụng ngôn ngữ thể hiện rõ quan điểm
dạy học tích hợp của chương trình Ngữ văn mới. Luận văn kế thừa những nghiên cứu
về phương pháp dạy TLV và tiếng Việt của các nhà nghiên cứu, các nhà giáo đồng
thời nghiên cứu về nội dung, chương trình và soạn giảng một số bài dạy tiêu biểu của
chương trình nhằm rèn luyện kĩ năng làm bài cho HS, phát huy năng lực sử dụng
tiếng Việt cho HS trong tạo lập VBTS.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu :
- Mục đích của luận văn là nhằm trang bị thêm cho GV một số cách thức cụ
thể, khả thi về phương pháp dạy TLV tự sự đạt hiệu quả và giúp HS thực hành bài
văn tự sự một cách tự tin, đúng yêu cầu, sáng tạo, sử dụng ngôn từ chuẩn xác, kể
chuyện hấp dẫn Luận văn thiết kế một số bài giảng chú trọng đến việc rèn luyện kĩ
năng sử dụng ngôn ngữ trong tạo lập VBTS cho HS THCS. Từ thực tiễn học tập của
HS, luận văn tìm giải pháp và đề xuất một số kiến nghị cho việc giảng dạy tạo lập
VBTS ở chương trình THCS đạt kết quả, nhằm góp phần đổi mới phương pháp giảng
dạy TLV, phục vụ cho việc giảng dạy chương trình và SGK mới.
- Nhiệm vụ của luận văn là ứng dụng lý thuyết tự sự trong việc soạn giảng các
bài dạy TLV tự sự, chú trọng rèn luyện kĩ năng sử dụng ngôn ngữ cho HS THCS. Để
thực hiện nhiệm vụ trên, tác giả luận văn đã tiến hành dự giờ, khảo sát thực tế giảng
dạy và học tập về VBTS của GV và HS ở Quận 6 thành phố Hồ Chí Minh, tìm hiểu
những thuận lợi khó khăn từ chương trình SGK, từ GV, HS, đối với việc dạy tạo
lập VBTS ; thiết kế giáo án và ghi nhận những việc đã làm được và chưa làm được
trong việc dạy thể nghiệm đồng thời đề xuất các phương pháp giảng dạy tạo lập
VBTS có chú trọng rèn luyện kĩ năng sử dụng ngôn ngữ cho HS.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu là các bài dạy trong SGK và sách GV lớp 6, 7, 8, 9 về
tạo lập VBTS cấp THCS, các tiết dạy của GV về tạo lập VBTS và các bài viết TLV
tự sự của HS một số trường ở Quận 6 thành phố Hồ Chí Minh.
- Phạm vi nghiên cứu là chương