Tín dụng là một phạm trù kinh tế nó ra đời, tồn tại và phát triển cùng với sự phát triển của nền kinh tế hàng hoá. Nếu hiểu theo nghĩa hẹp thì tín dụng là sự vay mượn, trong đó hai chủ thể là người đi vay và người cho vay sẽ thoả thuận một mức lãi suất và một thời hạn nợ nhất định. Nếu hiểu theo nghĩa rộng thì tín dụng là sự vận động các nguồn vốn từ nơi thừa sang nơi thiếu vốn sản xuất.
Như vậy, có thể đưa ra khái niệm tổng quan về tín dụng như sau: tín dụng là quan hệ vay mượn dựa trên nguyên tắc có hoàn trả (cả vốn và lãi) sau một khoản thời gian nhất định.
Ban đầu quan hệ tín dụng chủ yếu thể hiện bằng hiện vật và tồn tại dưới tên gọi là tín dụng nặng lãi. Cho đến khi phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa ra đời, các quan hệ tín dụng mới có điều kiện phát triển. Tín dụng bằng hiện vật đã nhường chổ cho tín dụng bằng hiện kim, tín dụng nặng lãi phi kinh tế đã nhường chổ cho hình thức tín dụng khác như: tín dụng Ngân hàng, tín dụng Nhà nước
Mặc dù tín dụng có quá trình tồn tại và phát triển lâu dài qua nhiều hình thái kinh tế xã hội, với nhiều hình thức khác nhau, song đều có 3 đặc điểm sau:
Tín dụng trước hết là sự chuyển giao quyền sử dụng một số tiền (hiện kim) hoặc tài sản (hiện vật) từ chủ thể này sang chủ thể khác, chứ không làm thay đổi quyền sở hữu chúng.
Tín dụng bao giờ cũng có thời hạn và phải được hoàn trả.
Người sở hữu vốn tín dụng được nhận một phần thu nhập dưới hình thức lợi tức.
92 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 1884 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Rủi ro tín dụng và những biện pháp hạn chế rủi ro tín dụng tại ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Luận văn tốt nghiệp
"Rủi Ro Tín Dụng & Những Biện Pháp Hạn Chế Rủi Ro Tín Dụng Tại Ngân Hàng Nông Nghiệp & Phát Triển Nông Thôn Việt Nam"MỤC LỤC
NỘI DUNG LUẬN VĂN
&
CHƯƠNG 1: CỞ SỞ LÝ LUẬN
1.1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TÍN DỤNG NGÂN HÀNG
1.1.1 Khái niệm về Tín dụng và TDNH:
1.1.1.1. Khái niệm vế Tín dụng:
Tín dụng là một phạm trù kinh tế nó ra đời, tồn tại và phát triển cùng với sự phát triển của nền kinh tế hàng hoá. Nếu hiểu theo nghĩa hẹp thì tín dụng là sự vay mượn, trong đó hai chủ thể là người đi vay và người cho vay sẽ thoả thuận một mức lãi suất và một thời hạn nợ nhất định. Nếu hiểu theo nghĩa rộng thì tín dụng là sự vận động các nguồn vốn từ nơi thừa sang nơi thiếu vốn sản xuất.
Như vậy, có thể đưa ra khái niệm tổng quan về tín dụng như sau: tín dụng là quan hệ vay mượn dựa trên nguyên tắc có hoàn trả (cả vốn và lãi) sau một khoản thời gian nhất định.
Ban đầu quan hệ tín dụng chủ yếu thể hiện bằng hiện vật và tồn tại dưới tên gọi là tín dụng nặng lãi. Cho đến khi phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa ra đời, các quan hệ tín dụng mới có điều kiện phát triển. Tín dụng bằng hiện vật đã nhường chổ cho tín dụng bằng hiện kim, tín dụng nặng lãi phi kinh tế đã nhường chổ cho hình thức tín dụng khác như: tín dụng Ngân hàng, tín dụng Nhà nước…
Mặc dù tín dụng có quá trình tồn tại và phát triển lâu dài qua nhiều hình thái kinh tế xã hội, với nhiều hình thức khác nhau, song đều có 3 đặc điểm sau:
Tín dụng trước hết là sự chuyển giao quyền sử dụng một số tiền (hiện kim) hoặc tài sản (hiện vật) từ chủ thể này sang chủ thể khác, chứ không làm thay đổi quyền sở hữu chúng.
Tín dụng bao giờ cũng có thời hạn và phải được hoàn trả.
Người sở hữu vốn tín dụng được nhận một phần thu nhập dưới hình thức lợi tức.
1.1.1.2. Khái niệm về Tín dụng Ngân hàng:
Tín dụng Ngân Hàng là quan hệ tín dụng giữa Ngân Hàng, các tổ chức tín dụng với các thành phần kinh tế và các tầng lớp dân cư như: các doanh nghiệp, các tổ chức, cá nhân, hộ gia đình… trong đó Ngân Hàng đóng vai trò là tổ chức trung gian đứng ra huy động vốn và sử dụng số vốn huy động được để cho vay đối với các đối tượng nói trên.
Như vậy trong mối quan hệ trên, Ngân hàng vừa là người đi vay vừa là người cho vay.
Với tư cách là người đi vay, Ngân hàng nhận tiền gửi hoặc phát hành các chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu,… để tập trung các nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi trong xã hội làm nguồn vốn hoạt động của mình.
Với tư cách là người cho vay, Ngân hàng cung cấp tín dụng cho các thành phần kinh tế dưới nhiều hình thức khác nhau như cho vay, chiết khấu giấy tờ có giá trị, bảo lãnh, cho thuê tài chính,… thông qua các hoạt động này, Ngân hàng có thể cung ứng vốn kịp thời cho nền kinh tế đồng thời tối đa hóa hiệu quả sử dụng vốn của mình.
1.1.2. Vai trò của TDNH:
1.1.2.1 Tín dụng góp phần thúc đẩy sản xuất và lưu thông hàng hóa:
Trong quá trình sản xuất kinh doanh, để duy trì sự hoạt động liên tục đòi hỏi vốn của các xí nghiệp phải tạm thời tồn tại ở cả ba giai đoạn: dự trữ, sản xuất và lưu thông nên hiện tượng thừa thiếu vốn tạm thời thường xuyên xãy ra ở các doanh nghiệp. Từ đó tín dụng đã góp phần điều tiết các nguồn vốn tạo điều kiện sản xuất kinh doanh không bị gián đoạn.
Mặt khác, với mục tiêu mở rộng sản xuất kinh doanh đối với từng doanh nghiệp thì yêu cầu về nguồn vốn là một trong những mối quan tâm hàng đầu được đặt ra. Bởi lẽ, đẩy mạnh tiến độ sản xuất không chỉ trông chờ vào nguồn vốn tự có mà doanh nghiệp phải biết tận dụng những dòng chảy khác của vốn trong xã hội. Từ đó, tín dụng với với chức năng là nơi tập trung đại bộ phận vốn nhàn rỗi sẽ là trung tâm đáp ứng nhu cầu vốn bổ sung cho đầu tư phát triển. Như vậy, vừa giúp cho doanh nghiệp rút ngắn được thời gian tích lũy vốn, nhanh chóng cho đầu tư mở rộng sản xuất, vừa góp phần đẩy nhanh tốc độ tập trung vốn và tích lũy vốn cho nền kinh tế.
Trong điều kiện hiện nay cùng với sự phân phối và hợp tác quốc tế ngày một sâu rộng thì quá trình điều tiết vốn không chỉ giới hạn trong phạm vi quốc gia mà hình thành các quan hệ trên cả thế giới.
1.1.2.2. Tín dụng góp phần ổn định tiền tệ, ổn định giá cả:
Khi thực hiện chức năng trên, tận dụng những nguồn vốn nhàn rỗi trong xã hội, tín dụng đã làm giảm khối lượng tiền mặt tồn đọng trông lưu thông. Do đó tín dụng được xem là một trong những biện pháp hữu hiệu góp phần làm giảm lạm phát và ổn định tiền tệ. Mặt khác do cung cấp vốn tín dụng cho nền kinh tế, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp hoàn thành kế hoạch sản xuất kinh doanh, làm cho sản xuất ngày càng phát triển, sản phẩm hàng hóa làm ra ngày càng nhiều đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của xã hội. Chính nhờ đó mà tín dụng góp phần ổn định thị trường giá cả trong nước.
Bên cạnh đó tín dụng đã tạo điều kiện mở rộng thanh toán không dùng tiền mặt. Đây là một trong những nhân tố tích cực làm giảm việc sử dụng tiền mặt trong nền kinh tế, là bộ phận lưu thông tiền mà Nhà nước rất khó quản lý và nhạy cảm với biến động của nền kinh tế.
Trong những thập niên gần đây, ở hầu hết các nước có nền kinh tế phát triển, trong công tác quản lí vĩ mô của Nhà nước nhằm thực hiện mục tiêu chính sách tiền tệ trong từng thời kỳ nhất định, lãi suất tín dụng đã trở thành một trong những công cụ điều tiết nhạy bén và linh hoạt để đưa thêm tiền vào lưu thông hay rút tiền ra khỏi lưu thông. Từ đó tạo ra sự phù hợp giữa khối lượng tiền tệ với yêu cầu tăng trưởng của nền kinh tế.
Như vậy tín dụng đã góp phần không nhỏ trong việc ổn định tiền tệ tạo điều kiện ổn định giá cả, đây là tiền đề quan trọng để sản xuất và lưu thông phát triển.
1.1.2.3.Tín dụng góp phần ổn định đời sống, tạo công ăn việc làm, ổn định trật tự xã hội:
Đây là hệ quả tất yếu của hai vai trò tín dụng nêu trên: nền kinh tế phát triển trong một môi trường ổn định về tiền tệ là điều kiện để nâng cao đời sống của các thành viên trong xả hội từ đó rút ngắn sự chênh lệch giữa các giai cấp.
Trên cơ sở đa dạng hoá các hình thức cho vay, tín dụng không chỉ đáp ứng nhu cầu vốn cho các doanh nghiệp mà còn phục vụ cho các tầng lớp dân cư trong xã hội. Hiện nay, ngoài việc phát triển các loại hình tín dụng dân cư, Nhà nước còn thành lập các quỹ xoá đói giảm nghèo, cho vay theo chương trình tín dụng… nhằm đáp ứng nhu cầu vay vốn hợp lý của các cá nhân như phát triển kinh tế gia đình, mua sắm nhà cửa thiết bị sinh hoạt… từ đó tạo công ăn việc làm và mức sống ổn định cho cá nhân, gia đình góp phần ổn định xã hội.
1.1.2.4. Tạo điều kiện phát triển mối quan hệ kinh tế với nước ngoài:
Trong điều kiện hiện nay, phát triển kinh tế của một nước luôn gắn liền với thị trường thế giới, kinh tế “đóng” đã nhường bước cho nền kinh tế “mở”. Và tín dụng đã trở thành một trong những biện pháp nối liền quan hệ kinh tế giữa các nước với nhau.
Đối với các nước đang phát triển và nước ta nói riêng, tín dụng đóng vai trò rất quan trọng trong việc mở rộng xuất khẩu hàng hoá, đồng thời nhờ nguồn tín dụng bên ngoài để công nghiệp hoá hiện đại hoá nền kinh tế.
1.1.3.Các hình thức của TDNH:
1.1.3.1.Căn cứ vào mục đích sủ dụng: theo tiêu thức này tín dụng ngân hàng có thể phân chia thành các loại sau:
Cho vay phục vụ SXKD công thương nghiệp
Cho vay tiêu dùng cá nhân
Cho vay bất đông sản
Cho vay nông nghiệp
Cho vay kinh doanh xuất nhập khẩu
1.1.3.2.Dựa vào thời hạn tín dụng: theo tiêu thức này tín dụng có thể phân chia thành các loại sau:
Cho vay ngắn hạn: Là loại cho vay có thời hạn dưới một năm. Mục đích của loại cho vay này thường là nhằm tài trợ cho việc đầu tư vào tài sản lưu động.
Cho vay trung hạn: Là loại cho vay có thời hạn từ 1 năm đến 5 năm. Mục đích của loại cho vay này là thường là nhằm tài trợ đầu tư vào tài sản cố định.
Cho vay dài hạn: Là loại cho vay có thời hạn trên 5 năm. Mục đích của loại cho vay này là thường là nhằm tài trợ đầu tư vào các danh mục đầu tư.
1.1.3.3. Dựa vào mức độ tín nhiệm của khách hàng: theo tiêu thức này tín dụng có thể phân chia thành các loại sau:
Cho vay không có đảm bảo: Là loại cho vay không có tài sản thế chấp, cầm cố hoặc bảo lãnh của người khác mà chỉ dựa vào uy tín của bản thân khách hàng vay vốn để quyết định cho vay.
Cho vay có đảm bảo: Là loại cho vay dựa trên cơ sở có tài sản đảm bảo cho tiền vay như thế chấp, cầm cố hoặc bảo lãnh của một bên thứ ba nào khác.
1.1.3.4. Dựa vào phương thức cho vay: theo tiêu thức này tín dụng có thể chia thành các loại sau:
Cho vay theo món hay còn gọi là cho vay từng lần.
Cho vay theo hạn mức tín dụng.
1.1.3.5. Dựa vào phương thức hoàn trả nợ gốc: theo tiêu thức này tín dụng có thể được chia thành các loại sau:
Cho vay chỉ có một kỳ trả nợ hay còn gọi là cho vay trả nợ một lần khi đáo hạn.
Cho vay có nhiều kỳ trả nợ hay còn gọi là cho vay trả góp.
Cho vay trả nợ nhiều lần nhưng không có kỳ hạn trả nợ cụ thể mà tùy khả năng tài chính của mình người đi vay có thể trả nợ bất kỳ lúc nào.
1.1.4. Nguyên tắc của TDNH
1.1.4.1. Vốn vay luôn được đảm bảo bằng các nguồn vốn tương đương:
Nguyên tắc này xuất phát từ sự yêu cầu của quy luật lưu thông tiền tệ nhằm làm cho sự vận động của tiền tệ gắn liền với sự vận động của vật tư hàng hóa giữ vững sức mua của tiền.
Thực hiện nguyên tắc này đòi hỏi ngay từ khi nhận tiền vay và trong suốt quá trình sử dụng vốn vay đơn vị phải có một số hàng hóa tương đương làm đảm bảo cho khoảng vay đó.
Nguyên tắc này nhằm đảm bảo hiệu quả của vốn vay tạo điều kiện thực hiện việc hoàn trả nợ vay của đơn vị. Mặt khác, mục đích cho vay là nhằm bổ sung vốn lưu thông trong quá trình SXKD. Nó được xác định trước khi cho vay và kiểm soát trong quá trình sủ dụng vốn vay.
1.1.4.2. Sữ dụng vốn vay đúng mục đích đã thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng:
Cho vay đúng mục đích không những là nguyên tắc má còn là phương châm hoạt động của tín dụng ngân hàng, đối với ngân hàng bất kỳ nột khoản cho vay nào đối với nền kinh tế cũng phải luôn hướng đến mục tiêu và yêu cầu phát triển kinh tế xã hội trong từng giai đoạn phát triển. Đối với khách hàng vay vốn cũng phải đáp ứng các mục đích cụ thể trong quá trình hoạt động để thúc đẩy đơn vị hoàn thành nhiệm vụ của mình.
Khi khoản vay được ngân hàng chấp nhận thì mục đích sử dụng vốn vay cũng sẽ được ghi vào trong hợp đồng tín dụng, ngân hàng có trách nhiệm thường xuyên kiểm tra tình hình sủ dụng vốn vay của khách hàng nếu phát hiện khách hàng sủ dụng vốn sai mục đích thì ngân hàng có thề sử dụng các biện pháp phù hợp để xử lý.
Thực hiện nguyên tắc này, không những là thực hiện nguyên tắc vốn có của tín dụng nói chung mà cón có tác dụng lớn trong tín dụng đấu tư, tác dụng đó thể hiện trên hai mặt sau:
Một là: việc sủ dụng tiền vay đúng mục đích là yêu cầu cơ bản để hoàn thành kế hoạch xây dựng cơ bản chung của xã hội cũng như kế hoạch xây dựng của Nhà nước, của các chủ thể đầu tư…
Hai là: sử dụng tiền vay đúng mục đích, phù hợp với khối lượng và chi phí đầu tư theo luận chứng kinh tế kỹ thuật sẽ cho phép đảm bảo tiến độ thi công và hoàn thành từng hạn mục công trình hay toàn bộ công trình, vừa là nhân tố để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư.
1.1.4.3. Hoàn trả nợ gốc và lãi đúng hạn:
Đây là nguyên tắc không thể thiếu của của tín dụng ngân hàng nó được đặc trên các cơ sở sau:
Xuất phát từ chức năng trung gian tín dụng ngân hàng thực hiện đi vay để cho vay nhằm đảm bảo khả năng thanh toán đồng thời tạo thêm nguồn thu để duy trì sự tồn tại và phát triển của ngân hàng thì việc thực hiện nguyên tắc hoàn trả là rất cần thiết đối với mỗi NHTM.
Trong nền kinh tế thị trường tín dụng hoạt động trên cơ sở kinh doanh, cho nên ngoài việc hoàn trả vốn vay đơn vị vay phải trả một số tiền ứng với lãi suất vay.
Tuy nhiên, trên thực tế do tác động của nhiều nguyên nhân khiến cho đơn vị vay vốn không trả được nợ vay. Để đảm bảo nguyên tắc này, tổ chức tín dụng buộc đơn vị phải thế chấp tài sản và tiến hành phát mãi tài sản thế chấp để thu hồi vốn trong trường hợp đơn vị vay không trả được nợ vay. Đối với Ngân hàng Nông nghiệp tài sản thế chấp thường là quyền sủ dụng đất mà hộ sản xuất đang canh tác.
1.2. RỦI RO TRONG HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG NGÂN HÀNG
Về nhận thức thực tiễn cũng như về lí luận, nếu như nâng cao chất lượng tín dụng là mục tiêu quan trọng trong hoạt động tín dụng, thì phòng ngừa rủi ro có thể coi như một giải pháp quan trọng có tính chất quyết định để nâng cao chất lượng tín dụng. Hai nội dung này tất nhiên có mối quan hệ mật thiết với nhau. Đây là vấn đề luôn luôn thời sự đối với hoạt động Ngân Hàng ở nước ta, nhất là trong bối cảnh hiện nay ở nước ta khi tín dụng có xu hướng tăng trưởng nhanh, lãi suất cho vay cao, doanh nghiệp thành lập nhiều, thị trường diễn biến phức tạp, nhiều vụ việc xảy ra đối với doanh nghiệp có liên quan đến pháp luật,… thì lại càng phải quan tâm đồng thời đến mở rộng tín dụng, gắn với nâng cao chất lượng tín dụng. Khi viết về rủi ro tín dụng là tác giả đứng về phía Ngân Hàng là chính, rủi ro tín dụng là rủi ro NHTM.
Trong kinh doanh của Ngân Hàng tại Việt Nam lợi nhuận từ hoạt động tín dụng chiếm tỷ trọng thu nhập chủ yếu của các NHTM, tuy nhiên hoạt động này luôn tiềm ẩn rủi ro cao. Đặc biệt là các nước có nền kinh tế mới phát triển như Việt Nam bởi hệ thống thông tin thiếu minh bạch trình độ quản lý rủi ro còn hạn chế, tính chuyên nghiệp của Ngân Hàng chưa cao nói cách khác rủi ro là một tất yếu trong hoạt động kinh doanh tín dụng. P.Volker cựu Chủ tịch Cục dự trữ Liên bang Mỹ nói “Nếu Ngân Hàng không có rủi ro và các khoản nợ xấu thì không phải là hoạt động kinh doanh của Ngân Hàng” điều đó cho thấy rủi ro tín dụng luôn tồn tại và nợ xấu là một thực tế hiển nhiên ở bất cứ Ngân Hàng nào kể cả các Ngân Hàng hàng đầu trên thế giới bởi có những rủi ro nằm ngoài khả năng kiểm soát của con người. Tuy nhiên sự khác biệt cơ bản của các Ngân Hàng có năng lực quản trị rủi ro tín dụng để mở rộng và nâng cao chất lượng tín dụng là khả năng khống chế rủi ro và nợ xấu ở một tỷ lệ nhờ xây dựng một mô hình quản trị rủi ro hiệu quả phù hợp với môi trường hoạt động để hạn chế rủi ro tín dụng.
Như trên đã nói muốn nâng cao và mở rộng tín dụng thì phải giảm thiểu rủi ro. Như vậy ta phải nhận biết rủi ro:
1.2.1. Các loại rủi ro trong kinh doanh của Ngân Hàng
Trong hoạt động của Ngân hàng có rất nhiều loại rủi ro sau: rủi ro tín dụng, rủi ro lãi suất, rủi ro thanh khoản, rủi ro hối doái, rủi ro môi trường, rủi ro công nghệ và hoạt động, rủi ro quốc gia và rủi ro khác…Trong đó rủi ro tín dụng đóng vai trò quan trọng nhất vì nó có ảnh hưởng đến khả năng sinh lời cuối cùng, sự tồn tại và phát triển của Ngân hàng .
1.2.1.1. Rủi ro Tín dụng:
Là loại rủi ro phát sinh khi một trong các bên tham gia hợp đồng tín dụng không có khả năng chi trả cho các bên còn lại. Đối với NHTM rủi ro tín dụng phát sinh trong trường hợp ngân hàng không thu đủ cả gốc và lãi của các khoản vay, hoặc là việc thanh toán nợ gốc và lãi không đúng hạn. Nếu tất cả các khoản cho vay của ngân hàng đều được thanh toán đầy đủ và đúng hạn cả gốc và lãi thì ngân hàng không bị rủi ro tín dụng. Ngược lại, nếu người vay tiền không có khả năng trả nợ hoặc cố ý không trả nợ thì rủi ro nảy sinh.
Rủi ro tín dụng không chỉ giới hạn ở hoạt động cho vay mà còn bao gồm nhiều hoạt động mang tính chất tín dụng khác của NHTM như: hoạt động bảo lãnh, tài trợ ngoại thương, cho thuê tài chính…
1.2.1.2. Rủi ro Lãi suất:
Rủi ro lãi suất là loại rủi ro do sự biến động của lãi suất hoặc những yếu tố liên quan đến lãi suất làm tổn thất về tài sản và thu nhập của ngân hàng.
Loại rủi ro này phát sinh trong quan hệ tín dụng của tổ chức tín dụng có những khoản đi vay hoặc cho vay theo lãi suất thả nổi, khi lãi suất thị trường tăng khiến chi phí trả lãi của ngân hàng tăng theo. Ngược lại, nếu ngân hàng cho vay theo lãi suất thả nổi, khi lãi suất thị trường xuống thấp khiến thu nhập lãi cho vay của ngân hàng giảm. Rủi ro lãi suất đặc biệt quan trọng khi ngân hàng huy động vốn thông qua phát hành trái phiếu, hoặc đầu tư tài chính khá lớn và theo lãi suất thị trường.
Mặt khác, ngân hàng còn có thể gặp rủi ro giảm giá trị tài sản khi lãi suất thị trường thay đổi. Như chúng ta đã biết, giá thị trường của tài sản Có hay tài sản Nợ là dựa trên khái niệm giá trị hiện tại của tiền tệ. Do đó, nếu lãi suất thị trường tăng lên thì mức chiếc khấu giá trị tài sản cũng tăng lên, và do đó giá trị hiện tại của tài sản Có và tài sản Nợ giảm xuống. Ngược lại, nếu lãi suất thị trường giảm thì giá trị của tài sản Có và tài sản Nợ sẽ tăng lên. Do đó, nếu kỳ hạn của tài sản Có và tài sản Nợ không cân xứng với nhau. Ví dụ tài sản Có có kỳ hạn dài hơn tài sản Nợ, thì lãi suất thị trường tăng, giá trị tài sản Có sẽ giảm nhanh hơn nhiếu so với sự giảm của giá trị tài sản Nợ. Rủi ro giảm giá trị tài sản khi lãi suất thị trường thay đổi thuộc loại rủi ro về lãi suất có thể dẫn đến thiệt hại về tài sản cho ngân hàng.
Ngoài ra rủi ro lãi suất còn có thể xảy ra do các nguyên nhân khác như: Do bất lợi trong cạnh tranh buộc ngân hàng phải tăng lãi suất huy động và hạ lãi suất cho vay để thu hút khách hàng do đó đã làm tăng chi phí và giảm thu nhập của ngân hàng; do cung tiền tệ nhỏ hơn cầu tiền tệ nên ngân hàng phải tăng lãi suất để huy động vốn; do chính sách ưu đãi trong cho vay của Nhà nước nên ngân hàng phải giảm lãi suất cho vay.
1.2.1.3. Rủi ro thanh khoản:
Rủi ro thanh khoản là loại rủi ro chỉ xuất hiện trong trường hợp ngân hàng mất khả năng thanh toán các khoản nợ khi những người gửi tiền có nhu cầu rút tiền gửi ở ngân hàng ngay lập tức. Rủi ro thanh khoản là rủi ro nguy hiểm nhất của ngân hàng có liên quan đến sự sống còn của ngân hàng. Một ngân hàng hoạt động bình thường phải đảm bảo được các nhu cầu thanh toán trong hiện tại, tương lai và các nhu cầu thanh toán đột xuất. Nếu không đáp ứng được các nhu cầu thanh toán đó ngân hàng có thể bị mất khả năng thanh toán và có nguy cơ phá sản. Trong những trường hợp như vậy thì ngân hàng phải đi vay bổ sung nguồn vốn thanh toán hoặc phải bán tài sản có của mình để đáp ứng nhu cầu rút tiền của người gửi tiền.
Đặc trưng cơ bản của rủi ro thanh toán là tính lỏng của tài sản Có thấp hơn so với tài sản Nợ, nên Ngân hàng có thể không đáp ứng được đầy đủ các yêu cầu thanh toán. Rủi ro thanh toán xuất hiện do hai nguyên nhân chính đó là nguyên nhân từ phía tài sản Nợ và nguyên nhân từ phía tài sản Có.
Nguyên nhân từ phía tài sản Nợ phát sinh do Ngân hàng không đáp ứng được các nhu cầu thanh toán buộc phải nhượng bán các tài sản khác với giá thấp hơn giá thị trường. Để có thu nhập cao hầu hết các Ngân hàng đều giảm dự trữ tiền mặt và tăng đầu tư vào những tài sản có tính thanh khoản thấp và có thời hạn dài, do vậy khi những người gửi tiền đồng thời có nhu cầu rút tiền ngay lập tức thì ngân hàng rất dễ bị rủi ro.
Nguyên nhân từ phía tài sản Có phát sinh trong trường hợp một số các khoản tín dụng đã cấp không được hoàn trả đúng hạn, trong khi vốn huy động đã đến hạn thanh toán và các hợp đồng tín dụng đã ký đến hạn giải ngân. Trong trường hợp này, Ngân hàng phải tìm ngay những nguồn vốn khác để tài trợ. Để đáp ứng kịp thời các nhu cầu thanh toán phát sinh buộc ngân hàng phải sử dụng tiền mặt dự trữ, hoặc bán tài sản Có khác hoặc đi vay từ bên ngoài. Điều này có thể dẫn đến những rủi ro về tài sản Nợ cho ngân hàng, hoặc làm giảm thu nhập của ngân hàng , hoặc làm tăng rủi ro về tài sản Nợ cho ngân hàng.
Ngoài ra còn có thể do kẻ gian cố ý làm chứng từ giả, truy cập vào mạng của ngân hàng để ăn cắp tiền nếu không được phát hiện kịp thời thì rủi ro thanh toán nảy sinh.
1.2.1.4.Rủi ro hối đoái:
Rủi ro hối đoái là rủi ro do sự biến động của tỷ giá hối đoái gây nên. Những rủi ro này có thể phát sinh trong tất cả các nghiệp vụ có liên quan đến ngoại ngoại tệ của ngân hàng như: cho vay , huy động vốn bằng ngoại tệ, mua bán ngoại tệ, đầu tư chứng khoán bằng ngoại tệ…
Trong các giao dịch ngoại hối và trong cân đối tài sản bằng ngoại tệ của ngân hàng, bất cứ một trạng thái ngoại hối “trường” hay “đoản” đều có thể gặp rủi ro hối đoái khi tỷ giá ngoại tệ thay đổi. Nếu ngân hàng ở trạng thái ngoại tệ trường thì khi ngoại tệ tăng giá ngân hàng sẽ có lãi, ngược lại ngân hàng sẽ bị lỗ khi ngoại tệ đó xuống giá. Nếu ngân hàng ở trạng thái đoản về một loại ngoại tệ nào đó, khi ngoại t