Việt Nam là một quốc gia có nhiều dân tộc, mỗi dân tộc, mỗi địa
phƣơng có những nét độc đáo riêng về văn hoá tinh thần và văn hoá vật chất.
Những nét riêng, nét độc đáo ấy tạo nên một vƣờn hoa muôn màu sắc, tạo nên
sự thống nhất trong tính đa dạng của nền văn hoá Việt Nam. Vì vậy việc giữ
gìn và phát huy những giá trị văn hoá truyền thống của các dân tộc đang là
mục tiêu chung của toàn Đảng và nhân dân ta. Sƣu tầm, nghiên cứu những
sáng tác văn học dân gian đang đƣợc lƣu truyền ở các địa phƣơng cũng nằm
trong mục tiêu đó.
Làn điệu sli, lƣợn của ngƣời Nùng Phàn Slình ở Hoà Bình - Đồng Hỷ
- Thái Nguyên phản ánh đời sống tinh thần của cộng đồng dân tộc Nùng
Phàn Slình ở nơi đây. Những lời ca dân gian ấy mang giá trị văn học to lớn
nhƣng chƣa đƣợc nghiên cứu rộng rãi và sâu sắc. Đã có một số công trình
nghiên cứu nhƣng mới chỉ tiếp cận ở khía cạnh văn hoá. Các ban ngành đã
bƣớc đầu quan tâm nhƣng chƣa hệ thống, bộ phận ngữ văn chƣa nghiên cứu
cụ thể.
116 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 2575 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Sli, lượn và lễ hội oóc pò của người nùng phàn slình ở Hoà Bình, Đồng Hỷ, Thái Nguyên, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
®¹i häc th¸i nguyªn
tr•êng ®¹i häc s• ph¹m
---------------------------------
hoµng thuý nga
sli, l•în vµ lÔ héi oãc pß cña ng•êi nïng phµn
sl×nh ë hoµ b×nh - ®ång hû - th¸i nguyªn
luËn v¨n th¹c sÜ khoa häc ng÷ v¨n
tH¸I NGUY£N - 2010
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
1
®¹i häc th¸i nguyªn
tr•êng ®¹i häc s• ph¹m
------------------------------
hoµng thuý nga
sli, l•în vµ lÔ héi oãc pß cña ng•êi nïng phµn
sl×nh ë hoµ b×nh - ®ång hû - th¸i nguyªn
chuyªn ngµnh: v¨n häc viÖt nam
m· sè: 60.22.34
luËn v¨n th¹c sÜ khoa häc ng÷ v¨n
Ng•êi h•íng dÉn khoa häc: TS. NguyÔn H»ng Ph•¬ng
tH¸I NGUY£N - 2010
LỜI CẢM ƠN
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
2
Để hoàn thành luận văn này, ngoài sự cố gắng, nỗ lực của bản thân, em
đã nhận đƣợc rất nhiều sự giúp đỡ. Qua đây em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu
sắc tới:
Nhà trƣờng, khoa Ngữ văn và các thầy cô giáo đã giảng dạy em
trong suốt khoá học.
TS. Nguyễn Hằng Phƣơng đã tận tâm hƣớng dẫn, chỉ bảo cho em
trong suốt quá trình nghiên cứu để em hoàn thành luận văn của mình.
Bác Hoàng Văn Toòng, bác Hoàng Văn Bạn và nhân dân xã Hoà Bình đã
nhiệt tình giúp đỡ em trong quá trình đi điền dã sƣu tầm và dịch tƣ liệu.
Các thầy cô trong Hội đồng chấm Luận văn đã đọc và chỉ bảo giúp em
tiếp tục hoàn thiện hơn luận văn của mình.
MỤC LỤC
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
3
Trang
Trang phụ bìa……………………………………………………………...….1
Lời cảm ơn………………………………………………………………...….2
Mục lục …………………………………………………………………...….3
MỞ ĐẦU ………………………………………………………………...…..4
Chƣơng 1. KHÁI QUÁT VỀ NGƢỜI NÙNG PHÀN SLÌNH Ở HOÀ BÌNH -
ĐỒNG HỶ - THÁI NGUYÊN VÀ MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÍ LUẬN LIÊN QUAN
ĐẾN ĐỀ TÀI....................................................................................................11
1.1. Khái quát về huyện Đồng Hỷ...................................................................11
1.2. Ngƣời Nùng Phàn Slình ở Hoà Bình - Đồng Hỷ - Thái Nguyên ............15
1.3. Khái lƣợc về sli, lƣợn…………………….…………..............................24
Chƣơng 2. SLI, LƢỢN CỦA NGƢỜI NÙNG PHÀN SLÌNH Ở HOÀ BÌNH -
ĐỒNG HỶ - THÁI NGUYÊN..........................................................................32
2.1. Những nội dung cơ bản của sli, lƣợn ở Hoà Bình - Đồng Hỷ - Thái
Nguyên............................................................................................................32
2.1.1. Tiếng hát ca ngợi con ngƣời..................................................................32
2.1.2. Tiếng hát tâm tình của đôi lứa...............................................................37
2.1.3. Bức tranh nông thôn miền núi...............................................................43
2.2. Một số yếu tố nghệ thuật của sli, lƣợn ở Hoà Bình - Đồng Hỷ - Thái Nguyên.........52
2.2.1. Ngôn ngữ...............................................................................................52
2.2.2. Kết cấu...................................................................................................59
2.2.3. Diễn xƣớng sli, lƣợn..............................................................................63
Chƣơng 3. LỄ HỘI OÓC PÒ VỚI SLI, LƢỢN CỦA NGƢỜI NÙNG PHÀN
SLÌNH Ở HOÀ BÌNH - ĐỒNG HỶ - THÁI NGUYÊN....................................70
3.1. Các nghi thức và yếu tố tâm linh trong lễ hội Oóc Pò ............................70
3.2. Mối quan hệ giữa lễ hội Oóc Pò với các làn điệu sli, lƣợn .....................83
3.3. Bảo tồn, phát huy những giá trị của lễ hội Oóc Pò và các làn điệu sli lƣợn .........93
KẾT LUẬN………………………………………….....………………….....99
TÀI LIỆU THAM KHẢO……………………….……………………....….104
PHỤ LỤC …………….…………………………………………………….116
MỞ ĐẦU
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
4
1. Lý do chọn đề tài.
1.1. Việt Nam là một quốc gia có nhiều dân tộc, mỗi dân tộc, mỗi địa
phƣơng có những nét độc đáo riêng về văn hoá tinh thần và văn hoá vật chất.
Những nét riêng, nét độc đáo ấy tạo nên một vƣờn hoa muôn màu sắc, tạo nên
sự thống nhất trong tính đa dạng của nền văn hoá Việt Nam. Vì vậy việc giữ
gìn và phát huy những giá trị văn hoá truyền thống của các dân tộc đang là
mục tiêu chung của toàn Đảng và nhân dân ta. Sƣu tầm, nghiên cứu những
sáng tác văn học dân gian đang đƣợc lƣu truyền ở các địa phƣơng cũng nằm
trong mục tiêu đó.
Làn điệu sli, lƣợn của ngƣời Nùng Phàn Slình ở Hoà Bình - Đồng Hỷ
- Thái Nguyên phản ánh đời sống tinh thần của cộng đồng dân tộc Nùng
Phàn Slình ở nơi đây. Những lời ca dân gian ấy mang giá trị văn học to lớn
nhƣng chƣa đƣợc nghiên cứu rộng rãi và sâu sắc. Đã có một số công trình
nghiên cứu nhƣng mới chỉ tiếp cận ở khía cạnh văn hoá. Các ban ngành đã
bƣớc đầu quan tâm nhƣng chƣa hệ thống, bộ phận ngữ văn chƣa nghiên cứu
cụ thể.
1.2. Bản thân là một giáo viên Ngữ văn, đang theo học cao học chuyên
ngành Văn học Việt Nam, quá trình giảng dạy và học tập đã giúp ngƣời viết
nhận thức đƣợc những giá trị văn hoá, văn học dân gian có ý nghĩa hết sức to
lớn đối với đời sống tinh thần của ngƣời dân. Việc nghiên cứu văn học dân
gian nói chung, làn điệu sli, lƣợn và lễ hội Oóc Pò của ngƣời Nùng Phàn
Slình ở xã Hoà Bình huyện Đồng Hỷ tỉnh Thái Nguyên nói riêng sẽ giúp cho
ngƣời viết tích luỹ kiến thức, nâng cao chuyên môn nghiệp vụ, trau dồi tình
cảm thẩm mĩ và rèn luyện nhân cách. Từ đó giáo dục cho học sinh những
tình cảm tốt đẹp về lòng yêu thƣơng con ngƣời, tình yêu quê hƣơng đất nƣớc,
khơi dậy ở mỗi học sinh ý thức về việc giữ gìn phát huy những giá trị văn hoá
truyền thống của dân tộc.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
5
1.3. Là ngƣời sinh ra và lớn lên trên mảnh đất Đồng Hỷ – Thái Nguyên,
ngay từ khi còn học phổ thông, tôi đã đƣợc tiếp xúc, giao lƣu và có mối quan
hệ gần gũi với cộng đồng dân tộc Nùng ở xã Hoà Bình huyện Đồng Hỷ. Từng
tham dự các lễ hội, đƣợc nghe những làn điệu sli, lƣợn của đồng bào nơi đây,
tôi sớm có tình cảm, sự đam mê văn hoá của họ. Đặc biệt trong đợt thực tế
tìm hiểu, sƣu tầm các làn điệu sli, lƣợn, và lễ hội Oóc Pò, lòng nhiệt tình, sự
say mê của những ngƣời dân nơi đây đã thúc đẩy tôi thực hiện đề tài này.
Đồng Hỷ là một vùng đất giàu truyền thống văn hoá với sự đa dạng của
các dân tộc anh em cùng chung sống. Trƣớc sự vận động và phát triển của xã
hội, những yếu tố của cuộc sống hiện đại tác động mạnh đến đời sống của mỗi
ngƣời dân. Thực tế: “Thanh niên bây giờ không mấy quan tâm đến văn hoá
của dân tộc mình, số người thuộc, biết hát những làn điệu sli, lượn ngày càng
ít đi…” (Lời của Ông Toòng ở xóm Tân Đô xã Hoà Bình huyện Đồng Hỷ),
cho thấy sự cần thiết trong việc bảo tồn nét văn hoá của dân tộc Nùng. Thực
hiện đề tài này, tôi mong sẽ góp phần bảo tồn gìn giữ những giá trị văn hoá quý
báu đang có nguy cơ bị mất đi đó.
Qua việc nghiên cứu làn điệu sli, lƣợn và lễ hội Oóc Pò của ngƣời Nùng
ở Hoà Bình - Đồng Hỷ – Thái Nguyên, tôi mong sẽ đóng góp một phần vào
việc gìn giữ những giá trị văn học dân gian của địa phƣơng, cũng là góp phần
vào việc gìn giữ những giá trị văn hoá phi vật thể của dân tộc.
Chính vì những lẽ trên, chúng tôi đã lựa chọn đề tài: “Sli, lƣợn và lễ hội
Oóc Pò của ngƣời Nùng Phàn Slình ở Hoà Bình - Đồng Hỷ - Thái Nguyên”,
với mong muốn đóng góp một phần vào việc nghiên cứu Văn học dân gian
hiện nay.
2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu
Không phải đến tận bây giờ sli, lƣợn (những làn diệu dân ca) và những lễ
hội văn hoá của ngƣời Nùng mới đƣợc quan tâm. Từ lâu những nội dung này
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
6
đã thu hút sự chú ý của nhiều nhà nghiên cứu. Họ đã có công sƣu tầm, giới
thiệu, dịch thuật và tìm hiểu những khía cạnh của vốn văn hoá cổ này.
Ngƣời đầu tiên phải kể đến là tác giả Vi Hồng với cuốn “Sli, lƣợn, dân ca
trữ tình tày Nùng” [ 25 ].Nội dung của tác phẩm này đã nghiên cứu về đời
sống văn hoá tinh thần của đồng bào Tày, Nùng qua các làn điệu dân ca sli,
lƣợn của họ. Những nét đẹp của con ngƣời, những nét văn hoá độc đáo trong
đời sống lao động đã đƣợc tác giả phản ánh rõ trong tác phẩm. Tác phẩm
cũng đã giới thiệu một số bài sli, bài lƣợn của dân tộc Tày, Nùng.
Cũng trong tác phẩm của Vi Hồng, trong bài “Nội dung của Lƣợn”
[04], tác giả đã phân tích những giá trị nội dung phong phú của lƣợn “một loại
hình dân ca chủ yếu của dân tộc Tày - và một phần của Nùng”. Lƣợn là những
bài ca ca ngợi con ngƣời, ca ngợi thiên nhiên, ca ngợi cuộc sống và sức lao
động cũng nhƣ sự sáng tạo của họ. Đặc biệt, tác giả cũng nhận thấy sự vận
động thay đổi của lƣợn:
“Cuộc sống mới ngày nay có bao nhiêu sự thay đổi lớn, lƣợn cũng một
lần nữa thay màu, đổi sắc để thích hợp hơn với thời đại mới” [04;191]
Ngoài ra, nghiên cứu về các làn điệu dân ca của các dân tộc Tày Nùng,
nhà văn Vi Hồng còn một số bài viết nhƣ: “Vài ý nghĩ nhỏ bƣớc đầu về thơ ca
dân tộc Tày, Nùng” [04;109], “Thì thầm dân ca nghi lễ” [26]
Bài viết: “Giá trị vốn cổ văn học dân tộc thơ ca - Tục ngữ Tày - Nùng”
của tác giả Lạc Dƣơng in trong cuốn “Bƣớc đầu tìm hiểu vốn văn nghệ Việt
Bắc” - Sở Văn Hoá Thông Tin Việt Bắc phát hành, có đoạn viết: “Vốn cổ thơ
ca, tục ngữ Tày - Nùng có nhiều nét đặc sắc phản ánh nhiều mặt xa xƣa của
đồng bào Tày – Nùng nhƣ kĩ thuật sản xuất nông nghiệp, xã hội…mà giá trị
nhận thức, giá trị giáo dục, giá trị phê phán hiện thực tới nay vẫn còn phát huy
tác dụng thời sự thiết thực.” [04; 38]
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
7
Cuốn “Sơ lƣợc giới thiệu các nhóm dân tộc Tày, Nùng, Thái ở Việt
Nam” của Lã Văn Lô, Đặng Nghiêm Vạn [11] đã giới thiệu khái quát xã hội,
con ngƣời và văn hoá ba dân tộc Tày, Nùng, Thái.
Những thành tựu trên đã phản ánh những đóng góp lớn cho lịch sử
nghiên cứu văn hoá, văn học dân gian của các dân tộc Tày, Nùng. Song
những nghiên cứu trên đều trải dài trên một phạm vi rộng, do vậy chƣa làm rõ
đƣợc sắc thái phong phú, đa dạng của văn hóa Nùng ở một địa phƣơng cụ thể.
Làn điệu sli, lƣợn của ngƣời Nùng Phàn Slình ở xã Hoà Bình huyện
Đồng Hỷ rất phong phú và đa dạng, thƣờng gắn với các lễ hội trong sinh hoạt
văn hoá tinh thần của dân tộc Nùng: Đám cƣới, ma chay, mừng nhà mới,
mừng thọ…Trong lễ hội Oóc Pò, lời sli, lƣợn là những lời ca, ca ngợi mùa xuân,
ca ngợi tình yêu, lời giao duyên, tỏ tình của những chàng trai, cô gái Nùng.
Nghiên cứu về các lễ hội, về sli, lƣợn của ngƣời Nùng ở xã Hoà Bình
huyện Đồng Hỷ, đã thu hút một số nhà nghiên cứu:
- “Múa xiên tâng và tang ca trong đám ma của dân tộc Nùng” - Th.s
Nguyễn Thị Ngân. (Cán bộ Bảo tàng văn hoá các dân tộcViệt Nam)
- Phóng sự: “ Đám cưới Nùng và câu chuyện về chiếc túi nải”
- “Nghi lễ và âm nhạc trong hôn nhân của ngƣời Nùng Phàn Slình ở
Tân Đô – Hoà Bình - Đồng Hỷ - Thái Nguyên” – Ngô Thị Việt Anh (Giảng
viên trƣờng Đại học Sƣ phạm nghệ thuật Trung ƣơng)
Các công trình nghiên này chủ yếu tìm hiểu về các khía cạnh phong
tục, tập quán, nghi lễ dân gian, chƣa quan tâm đến phần lời của các làn điệu
sli, lƣợn.
Mặc dù chƣa nghiên cứu cụ thể, hệ thống về sli, lƣợn của ngƣời Nùng
nhƣng những công trình nghiên cứu trên là những gợi ý đáng quý để chúng
tôi thực hiện đề tài nghiên cứu này.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
8
3. Mục đích nghiên cứu.
Tìm hiểu về làn điệu sli, lƣợn và lễ hội Oóc Pò của ngƣời Nùng ở Hoà
Bình - Đồng Hỷ – Thái Nguyên nhằm:
* Chỉ ra cái hay, cái đẹp về nội dung và nghệ thuật trong lời sli, lƣợn của
dân tộc Nùng Phàn Slình ở Hoà Bình - Đồng Hỷ - Thái Nguyên, góp phần khẳng
định giá trị của chúng trong đời sống văn hoá tinh thần của ngƣời Nùng nói chung
trong đó có ngƣời Nùng Phàn Slình ở Hoà BÌnh - Đồng Hỷ - Thái Nguyên.
* Nghiên cứu lễ hội Oóc Pò trong mối quan hệ với sli, lƣợn nhằm phát hiện
ra mối quan hệ biện chứng, sâu sắc giữa văn học dân gian với đời sống văn hoá
tinh thần của ngƣời Nùng Phàn Slình ở Hoà Bình - Đồng Hỷ - Thái Nguyên
* Góp phần bảo tồn, phát huy những giá trị văn hoá truyền thống của dân tộc.
4. Đối tƣợng nghiên cứu
* Đối tƣợng chính là lời sli, lƣợn của ngƣời Nùng Phàn Slình ở Hoà Bình
- Đồng Hỷ – Thái Nguyên
* Đối tƣợng quan tâm nữa là lễ hội Oóc Pò và những nét văn hoá của
ngƣời Nùng Phàn Slình .
* Ngoài ra trong điều kiện có thể chúng tôi sẽ tìm hiểu thêm lời sli, lƣợn
và những đặc điểm văn hoá của ngƣời Nùng ở nơi khác để so sánh đối chiếu.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
* Nghiên cứu một số vấn đề lí luận có liên quan đến đề tài.
* Sƣu tầm, khảo sát, thống kê, phân tích lí giải lời sli, lƣợn và lễ hội Oóc Pò
của ngƣời Nùng Phàn Slình ở Hoà Bình - Đồng Hỷ từ các góc độ nhìn nhận.
* Tìm hiểu lễ hội Oóc Pò và mối quan hệ của nó với làn điệu sli, lƣợn.
Từ đó hiểu về đời sống văn hoá, tinh thần của đồng bào dân tộc Nùng ở Hoà
Bình - Đồng Hỷ - Thái Nguyên.
* Bƣớc đầu nêu một số suy nghĩ về bảo tồn, phát huy những giá trị văn
hoá của làn điệu sli, lƣợn và Lễ hội cầu mùa trong đời sống đƣơng đại.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
9
6. Phạm vi nghiên cứu
* Phạm vi tƣ liệu nghiên cứu:
- Văn bản của chính tác giả sƣu tầm từ các nghệ nhân qua điền dã.
- Những tƣ liệu ở các vùng khác để so sánh đối chiếu.
- Mạng Intenet.
* Phạm vi vấn đề nghiên cứu:
Trong khuôn khổ luận văn thạc sĩ, chúng tôi tìm hiểu một số đặc điểm
nội dung, thi pháp tiêu biểu và mối quan hệ giữa làn điệu sli, lƣợn với lễ hội
Oóc Pò (Lễ hội cầu mùa) của ngƣời Nùng Phàn Slình ở Hoà Bình - Đồng Hỷ
– Thái nguyên.
7. Phƣơng pháp nghiên cứu
Trên bình diện phƣơng pháp luận, chúng tôi tiếp cận chủ yếu theo quan
điểm ngữ văn học, dựa vào những thành tố ngôn từ của lời sli, lƣợn trong lễ
hội Oóc Pò để phân tích. Tuy nhiên sli, lƣợn là một loại hình dân ca cho nên
khi tìm hiểu phải đặt nó trong môi trƣờng diễn xƣớng, đời sống văn hoá của
dân tộc Nùng. Do vậy tiếp cận nghiên cứu theo quan điểm văn hoá học là cần
thiết, song cần phải nghiên cứu theo quan điểm tiếp cận liên ngành, xem xét
đối tƣợng từ nhiều góc độ, ngành khoa học khác nhau.
Trên bình diện phƣơng pháp cụ thể, chúng tôi sử dụng: Phƣơng pháp
điền dã văn học, phƣơng pháp hệ thống, phƣơng pháp khảo sát thống kê,
phƣơng pháp so sánh đối chiếu, phƣơng pháp phân tích tổng hợp.
8. Đóng góp của đề tài
Luận văn là công trình khoa học đầu tiên nghiên cứu có hệ thống về các
làn điệu sli, lƣợn và lễ hội Oóc Pò ở Hoà Bình - Đồng Hỷ - Thái Nguyên
Sƣu tầm, nghiên cứu lời sli, lƣợn và lễ hội Oóc Pò của ngƣời Nùng Phàn
Slình ở Hoà Bình - Đồng Hỷ – Thái Nguyên, ngƣời viết sẽ góp phần bảo tồn
những giá trị đặc sắc của văn học dân gian đang có nguy cơ bị mai một trƣớc
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
10
sự thay đổi của xã hội hiện đại, góp phần nâng cao tình yêu quê hƣơng, ý thức
giữ gìn vốn văn hoá dân gian của quê hƣơng.
9. Bố cục đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận và thƣ mục tham khảo, nội dung chính của
luận văn gồm 3 chƣơng:
Chƣơng 1. Khái quát về ngƣời Nùng Phàn Slình ở Hoà Bình - Đồng
Hỷ - Thái Nguyên và một số vấn đề lí luận liên quan đến đề tài
Chƣơng 2. Sli, lƣợn của ngƣời Nùng Phàn Slình ở Hoà Bình - Đồng
Hỷ - Thái Nguyên
Chƣơng 3. Lễ hội Oóc Pò với sli, lƣợn của ngƣời Nùng Phàn Slình ở
Hoà Bình - Đồng Hỷ – Thái Nguyên
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
11
NỘI DUNG
CHƢƠNG 1. KHÁI QUÁT VỀ NGƢỜI NÙNG PHÀN SLÌNH Ở
HOÀ BÌNH - ĐỒNG HỶ - THÁI NGUYÊN VÀ MỘT SỐ VẤN ĐỀ
LÍ LUẬN LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
1.1. Khái quát về huyện Đồng Hỷ
1.1.1. Vị trí địa lý và đặc điểm tự nhiên của huyện Đồng Hỷ tỉnh Thái Nguyên
* Vị trí địa lý: Đồng Hỷ là một huyện miền núi nằm ở phía Đông Bắc
tỉnh Thái Nguyên, có diện tích tự nhiên 46.177 ha, trải dài từ 21 độ 32 phút
đến 21 độ 51 phút vĩ Bắc, giữa 105 độ 46 phút đến 106 độ 04 phút kinh Đông.
Huyện Đồng Hỷ giáp huyện Chợ Mới tỉnh Bắc Kạn ở phía Bắc, huyện Võ
Nhai ở phía Đông Bắc; giáp huyện Phú Lƣơng ở phía Tây; giáp thành phố
Thái Nguyên và huyện Phú Bình ở phía Nam và giáp huyện Yên Thế thuộc
tỉnh Bắc Giang về phía Đông.
* Điều kiện tự nhiên:
Đất đai: Địa hình huyện Đồng Hỷ có độ dốc thoai thoải từ Đông Bắc
xuống Tây Nam. Phía Bắc và Đông Bắc huyện thuộc dãy núi đá vôi Bắc Sơn
hùng vĩ. Các xã Văn Lăng, Tân Long, Hoà Bình, Quang Sơn và kéo dài xuống
phía Nam huyện có những khối núi đá vôi đồ sộ, có đỉnh cao tới 600 mét. Các
xã phía Bắc và Đông Bắc của huyện thuộc vùng núi cao, độ cao trung bình là
120 mét so với mặt nƣớc biển. Tiếp dãy núi đá lớn là vùng đồi núi thấp nhiều
đồi hình bát úp, độ cao từ 50 đến 60 mét, có khả năng phát triển cây công
nghiệp (mía, lạc, chè…). Các xã nằm phía hạ lƣu sông Cầu có độ cao trung
bình 20 mét so với mặt nƣớc biển với những cánh đồng bằng phẳng thuận lợi
cho việc phát triển lúa nƣớc và cây thực phẩm (rau xanh, đậu…).
Khí hậu: Đồng Hỷ nằm ở vùng Bắc chí tuyến, trong vành đai nhiệt đới
Bắc bán cầu, nên khí hậu ở đây mang tính chất nhiệt đới nóng ẩm, gió mùa.
Mùa nóng từ tháng 3 đến tháng 10; mùa lạnh từ tháng 11 đến tháng 3 năm
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
12
sau. Nhiệt độ trung bình là 22 độ C. Số giờ nắng trong năm là 1.628 giờ. Mỗi
năm ở Đồng Hỷ trung bình có khoảng 21 – 22 đợt gió mùa Đông Bắc tràn qua.
Sông ngòi: Mật độ sông, suối của Đồng Hỷ bình quân là 0,2 km/km2,
tất cả đều bắt nguồn từ khu vực núi cao phía Bắc, Đông Bắc và đều chảy vào
sông Cầu. Sông Cầu chảy theo hƣớng Bắc – Nam là biên giới phía Tây của
huyện với độ dài 47 km, là nguồn cung cấp nƣớc chính, có tiềm năng khai
thác vận tải thuỷ. Theo đánh giá của các nhà địa chất, mạch nƣớc ngầm của
Đồng Hỷ có trữ lƣợng lớn, đủ cung cấp nƣớc sinh hoạt cho năm, bảy trăm
ngàn dân.
Giao thông: Về giao thông, tổng chiều dài đƣờng bộ của huyện là
729,8 km, trong đó có quốc lộ 1B qua địa bàn huyện dài 15,5 km, đƣờng liên
tỉnh dài 27 km, đƣờng liên huyện dài 57,5 km, đƣờng liên xã 171 km, đƣờng
liên xóm 404 km. Mật độ giao thông toàn huyện bình quân đạt 13,4 km/km2,
ô tô vận tải cỡ lớn có thể đến đƣợc trung tâm tất cả các xã trong huyện, đây là
điều kiện thuận lợi cho giao lƣu văn hoá kinh tế trong huyện ngày càng phát triển.
1.1.2. Đặc điểm lịch sử của huyện Đồng Hỷ tỉnh Thái Nguyên
Huyện Đồng Hỷ đƣợc thành lập năm 1469. Đời Hồng Đức năm thứ 21
gồm 9 tổng, 33 xã. Từ ngày thành lập đến nay, địa giới hành chính của huyện
đã nhiều lần thay đổi. Tính từ năm 1960 đến 1985, huyện lị chuyển đến 5 lần.
Ban đầu địa điểm của huyện ở Xuân Quang xã Gia Sàng, năm 1962 dịch lên
Xuân Thịnh (Gia Sàng), năm 1965 chuyển vào Xà Cạt (xã Quyết Thắng) sau
đó chuyển ra làng Thịnh (xã Quyết Thắng). Từ tháng 7 năm 1985 đến nay,
huyện lị lại chuyển sang thị trấn Chùa Hang cách thành phố Thái Nguyên 3
km về phía Đông Bắc.
Trƣớc đây, huyện Đồng Hỷ nằm trên tả ngạn sông Công và dọc hai bên
bờ sông Cầu, đến tháng 4 năm 1985, Hội đồng Bộ trƣởng (nay là Chính phủ)
ra Quyết định số 108/HĐBT điều chỉnh địa giới một số huyện, thành, thị
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
13
trong Tỉnh Bắc Thái, huyện Đồng Hỷ chuyển sang nằm trọn trên tả ngạn
sông Cầu.
Toàn huyện có 20 đơn vị hành chính trực thuộc, bao gồm 17 xã và 3 thị
trấn, trong đó có hai xã thuộc xã vùng cao là Tân long và Văn Lăng, 2 xã
vùng đặc biệt khó khăn là Hợp Tiến và Cây Thị, 4 xã và 1 thị trấn thuộc vùng
I (trung du) là thị trấn Chùa Hang, các xã Đồng Bẩm, Cao Ngạn, Huống
Thƣợng, 12 xã, 1 thị trấn còn lại thuộc vùng II (miền núi).
1.1.3. Khái quát về kinh tế – văn hoá xã hội của huyện Đồng Hỷ
Trƣớc kia Đồng Hỷ không phải là huyện giàu có, nhƣng nền kinh tế đa
dạng, có tiềm năng về rừng, khoáng sản, có khả năng tự cấp, tự túc lƣơng
thực đến những nhu cầu thiết yếu của đời sống trong một xã hội nông nghiệp.
Sau Cách mạng tháng Tám, nhân dân các dân tộc Đồng Hỷ từng bƣớc xây
dựng đời sống mới. Đặc biệt sau khi thực hiện đƣờng lối