Luận văn So sánh phương thức nối trong văn bản tiếng Việt và tiếng Anh

Ngữ pháp truyền thống xem câu là đơn vị lớn nhất, trên câu không có một đơn vị nào khác, do vậy, trước những hiện tượng tuy bị khuôn định trong phạm vi câu như các từ ngữ nối (TNN): nói tóm lại, trước hết, kế đến . hoặc các đơn vị qui mô lớn hơn câu như chỉnh thể trên câu, đoạn văn, chương, phần thì chưa được chú ý đến. Vì vậy, ngữ pháp văn bản (NPVB) và phân tích diễn ngôn (PTDN) ra đời như một tất yếu của quá trình nghiên cứu ngôn ngữ học (NNH), để giải quyết những vấn đề ngôn ngữ trong hành chức mà do nhiều lý do ngữ pháp câu chưa vươn tới. Những công trình đặt nền móng cho NNH văn bản đã xuất hiện vào những năm 501 của thế kỷ XX. Nhưng lúc bấy giờ có ít người quan tâm đến sự tồn tại của ngành học này. Bước sang những năm 70 của thế kỷ XX, NNH văn bản đã nhanh chóng đạt tới thời kỳ phát triển nở rộ. Ở Việt Nam, sau đó, từ những năm 80 của thế kỷ XX, các thành tựu nghiên cứu ngành học này, bước đầu, được đưa ra giảng dạy ở trường phổ thông và đã thu được những kết quả nhất định

pdf202 trang | Chia sẻ: duongneo | Lượt xem: 1547 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn So sánh phương thức nối trong văn bản tiếng Việt và tiếng Anh, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH BÙI VĂN NĂM SO SÁNH PHƯƠNG THỨC NỐI TRONG VĂN BẢN TIẾNG VIỆT VÀ TIẾNG ANH Chuyên ngành: Lý luận ngôn ngữ Mã số: 62.22.01.01 LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN Người hướng dẫn khoa học: PGS TS. TRỊNH SÂM Thành phố Hồ Chí Minh – Năm 2010 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong Luận án là trung thực và chưa từng được ai công bố trong một công trình nào khác. Tác giả luận án Bùi Văn Năm Thành phố Hồ Chí Minh – Năm 2010 QUY ƯỚC VIẾT TẮT Liên kết LK Luận án LA Ngữ pháp văn bản NPVB Ngôn ngữ học NNH Phân tích diễn ngôn PTDN Phương thức liên kết PTLK Phép nối PN Từ ngữ nối TNN Văn bản VB Số cứ liệu 20, Nam Cao, Chí Phèo [20, NC , CP] MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Ngữ pháp truyền thống xem câu là đơn vị lớn nhất, trên câu không có một đơn vị nào khác, do vậy, trước những hiện tượng tuy bị khuôn định trong phạm vi câu như các từ ngữ nối (TNN): nói tóm lại, trước hết, kế đến ... hoặc các đơn vị qui mô lớn hơn câu như chỉnh thể trên câu, đoạn văn, chương, phần thì chưa được chú ý đến. Vì vậy, ngữ pháp văn bản (NPVB) và phân tích diễn ngôn (PTDN) ra đời như một tất yếu của quá trình nghiên cứu ngôn ngữ học (NNH), để giải quyết những vấn đề ngôn ngữ trong hành chức mà do nhiều lý do ngữ pháp câu chưa vươn tới. Những công trình đặt nền móng cho NNH văn bản đã xuất hiện vào những năm 501 của thế kỷ XX. Nhưng lúc bấy giờ có ít người quan tâm đến sự tồn tại của ngành học này. Bước sang những năm 70 của thế kỷ XX, NNH văn bản đã nhanh chóng đạt tới thời kỳ phát triển nở rộ. Ở Việt Nam, sau đó, từ những năm 80 của thế kỷ XX, các thành tựu nghiên cứu ngành học này, bước đầu, được đưa ra giảng dạy ở trường phổ thông và đã thu được những kết quả nhất định. Các nhà NNH hiện đại như J. L. Austin(1962)2, quan niệm rằng, giao tiếp bằng ngôn ngữ, thực chất là một hành động tương tác giữa con người với nhau. Đó là một phát hiện độc đáo về chức năng của ngôn ngữ, giúp các nhà ngữ học đánh giá đúng bản chất mọi mặt biểu hiện của giao tiếp lời nói. Khi bàn đến giao tiếp lời nói thì phải nói tới phát ngôn3 (câu) và diễn ngôn (văn bản). Và do đó mà E. Benveniste đã có nhận định rằng “câu là sự sáng tạo không cùng, sự đa dạng không có giới hạn, chính là đời sống của ngôn ngữ đang hành chức”. Càng ngày các nhà NNH càng nhận thấy rằng nghiên cứu VB và diễn ngôn thì không thể tách rời các phát ngôn một cách đơn lẻ. Và, như vậy thì chưa giải quyết triệt để được vấn đề phân tích mọi khía cạnh ngữ nghĩa của lời nói, của phát ngôn. “Nếu xem xét bản thân mỗi phát ngôn riêng lẻ sẽ không thể giải thích nhiều hiện tượng biểu hiện trong phạm vi phát ngôn, nhưng lại liên quan tới nhiều khía cạnh ngoài phát ngôn, ngoài câu” [108, tr. 13]. Những nhà NNH VB như P. Hartmann (1968) và W.Dressler (1970) đã thừa nhận VB là đơn vị lớn nhất có chức năng giao tiếp. Nó đã thu hút sự quan tâm nghiên cứu của nhiều ngành học khác nữa, trong đó có NNH. Những năm 70 của thế kỷ XX, nhiều công trình lý luận về NPVB đã đến với các nhà Việt ngữ học. Nhiều thành tựu NPVB đã được ứng dụng vào việc nghiên cứu tiếng Việt. Nhờ đó, nhiều cuốn sách, bài viết nghiên cứu về NPVB tiếng Việt, đã được xuất bản hoặc được giới thiệu khá phong phú trên tạp chí chuyên ngành. Và cũng từ đó, việc nghiên cứu tiếng Việt có thêm những khám phá mới, nhất là khi có vận dụng những thành tựu của NPVB và PTDN vào để miêu tả tiếng Việt. Ngày nay, việc khảo sát lời nói đặt trong chuỗi phát ngôn, đặt trong VB là một vấn đề có tính nguyên tắc, khi phân tích ngữ nghĩa của phát ngôn, trong các hoàn cảnh giao tiếp cụ thể. Hay nói một cách khác, nghiên cứu ngữ nghĩa biểu hiện của các phát ngôn trong ngôn cảnh, là một xu hướng nghiên cứu phổ biến, được đặc biệt chú ý trong ngôn ngữ học hiện đại. Và trong thực tế, NNH hiện đại – với những thành tựu xuất sắc của ngữ dụng học - đã đem lại ý nghĩa lý luận và thực tiễn lớn lao về lĩnh vực này. NPVB trở thành một chuyên ngành NNH, theo chúng tôi, vẫn còn đặt ra nhiều đề tài hấp dẫn cho những ai quan tâm đến nó. Liên kết (LK; tiếng Anh: cohesion) trong VB là một hiện tượng luôn được đề cập và khảo sát trước tiên trong NPVB. Vấn đề này đã được nhiều nhà NNH xem xét với những phạm vi và mức độ khác nhau. Bởi vì, nếu quan sát các phát ngôn trong giao tiếp, ta sẽ thấy bên cạnh những phát ngôn có ý nghĩa hiển ngôn, còn có những phát ngôn mà nếu chúng ta tách riêng ra để tìm hiểu thì nhiều khi chúng ta thấy nó trở nên mơ hồ, có khi tối nghĩa. Trong một ngữ đoạn, có thể có phát ngôn chỉ là một từ, một ngữ, thậm chí một từ tình thái. Hãy quan sát các ví dụ sau: (1) Tức mình, hắn chửi ngay tất cả làng Vũ Đại. Nhưng cả làng Vũ Đại ai cũng tự nhủ: “Chắc nó trừ mình ra!”. Không ai lên tiếng cả. Tức thật! Ồ, thế này thì tức thật! Tức chết đi được mất! [26, NC, CP] (2) Có một người đi chơi xa, dặn con là có ai hỏi thì nói là bố đi vắng. Cẩn thận hơn, ông liền viết vào giấy để nếu con có quên thì đưa tờ giấy để khách biết. Cậu con cầm tờ giấy bỏ vào túi áo. Tối đến, sẵn có ngọn đèn, nó tò mò mở giấy ra xem, chẳng may vô ý để giấy cháy mất. Hôm sau, có người đến chơi hỏi: - Thầy cháu có nhà không? Nó ngẩn người . Sực nhớ ra, nó sờ vào túi và hốt hoảng: - Mất rồi! Khách giật mình hỏi: - Mất bao giờ? - Mất hôm qua - Vậy sao mà mất? - Cháy [79, TCDGVN] Nếu chúng ta tách riêng các phát ngôn được in nghiêng trên đây để khảo sát về ngữ pháp – ngữ nghĩa: trước hết, chúng là những phát ngôn chưa có đủ các thành phần 'nòng cốt' (chủ ngữ - vị ngữ), là những phát ngôn 'đặc biệt' và biểu thị ý nghĩa không trọn vẹn, không rõ ràng. Nhưng trong hoạt động giao tiếp, có rất nhiều phát ngôn mà không thể quy về các mô hình câu hay quy về hình thức của mô hình cấu trúc cú pháp nào. Ngữ pháp truyền thống (ngữ pháp câu) coi đó là những hiện tượng không chuẩn mực, không điển hình. Nhưng trong giao tiếp, đó chính là những biểu hiện phong phú về biểu đạt. Đó là nét đẹp, sự linh hoạt, sự đa dạng trong cách diễn đạt của các nhà văn, là sự uyển chuyển trong hoạt động ngôn ngữ của con người. Đây chính là thực tiễn giao tiếp sinh động, là cái hay và đồng thời cũng là cái phức tạp dưới góc độ phân tích ngữ pháp - ngữ nghĩa, PTDN, dưới ánh sáng của NNH hiện đại. N. D. Arutjunova đã viết: “Ra khỏi phạm vi của những câu kinh điển, người nghiên cứu rơi vào một đại dương rộng mở và không bờ bến của những câu [] rất ít được quy phạm hóa về mặt hình thức” [108, tr. 14]. Thực tiễn giao tiếp cho thấy rõ ràng, phát ngôn chỉ là một yếu tố trong tổng thể diễn ngôn. Nó không phải tồn tại một cách cô lập mà giữa chúng có một chuỗi quan hệ về nghĩa, về chức năng. Nói khác đi, chúng hình thành nên một hệ thống LK. Những thành tựu nghiên cứu về phương thức LK văn bản, đã gợi mở và thúc đẩy chúng tôi tiếp tục khảo sát, nghiên cứu theo hướng đi sâu vào một phương thức LK cụ thể trong hệ thống LK VB tiếng Việt. Qua thực tế giảng dạy ngữ văn ở trường trung học phổ thông, nhất là giảng dạy môn tiếng Việt và môn tập làm văn, chúng tôi nhận thấy còn nhiều giáo viên lúng túng khi gặp phải những vấn đề mà nếu chỉ dựa vào ngữ pháp truyền thống thì không thể nào lý giải một cách thuyết phục. Còn học sinh thường không nắm vững lý thuyết về nối LK4, thường mắc lỗi về hành văn, lỗi lập luận, lỗi mạch lạc trong bài làm, nhất là trong tập làm văn. Nếu học sinh hiểu một cách đầy đủ hơn về các phép LK câu, LK đoạn văn thì chắc chắn sẽ có thể tạo ra những câu văn sáng sủa, những đoạn văn, bài văn mạch lạc, khúc chiết hơn nhiều (xem phụ lục số 1 và phụ lục số 2). Nghiên cứu ngôn ngữ gắn liền với hoàn cảnh sử dụng, gắn với con người sử dụng chính là khuynh hướng chủ yếu của các nhà ngôn ngữ học hiện đại. Có thể kể như NNH tri nhận (cognitive linguistics), NNH chức năng (functional linguistics), NNH tâm lý (psychological linguistics) Riêng NNH văn bản, như ta đã biết là một ngành khoa học lúc đầu gồm có ba bộ phận: (i) Lý thuyết văn bản đại cương (ii) Phong cách học văn bản (iii) Ngữ pháp văn bản. Trong đó vấn đề 'liên kết' thuộc bộ phận NPVB, là hiện tượng được các nhà ngữ pháp học chú ý nghiên cứu đầu tiên và nhiều nhất. Vì người ta đã khẳng định rằng, “văn bản không phải là một phép cộng đơn thuần giữa các câu mà giữa chúng có những sợi dây liên hệ chặt chẽ, trong đó mỗi câu riêng biệt gắn bó chặt chẽ với những câu còn lại”[98]. M.A.K. Halliday và R. Hassan (1976) cũng đã viết: "These non-structural resourses for discourse are what are referred to by the term cohesions". Có thể tạm dịch: “Những nguồn lực phi cấu trúc của diễn ngôn là những điều được xác định bởi những phương thức LK”. Trên cứ liệu tiếng Anh, hai tác giả này là những người đầu tiên nghiên cứu ngữ pháp văn bản theo khuynh hướng mở rộng, trong đó LK giữa các phát ngôn đã được các tác giả mô hình hoá một cách khái quát. Trên cứ liệu tiếng Việt, về mặt khái quát, hệ thống LK đã được xác định (Trần Ngọc Thêm 1985, Nguyễn Thị Việt Thanh 1999) ... Và một số phương thức LK cụ thể cũng đã được nghiên cứu (Phạm Văn Tình 2002, Nguyễn Phú Thọ 2008) ... Tuy nhiên, có thể nói rằng đó mới chỉ là bước đầu. Nhiều đề tài nghiên cứu về một phương thức LK cụ thể vẫn còn mới mẻ. Chỉ riêng về phương thức nối - hay phép nối (PN) đã đặt ra nhiều vấn đề cần được lý giải: (i) PN được sử dụng trong các thể loại VB như thế nào ? (ii) PN có liên quan gì đến quan hệ ngữ nghĩa, ngữ pháp và mạch lạc của các phát ngôn, của VB, của diễn ngôn ? (iii) Đặc điểm về cấu tạo và định danh ngữ pháp của các phương tiện ngôn ngữ được dùng trong PN? (iv) Sự thể hiện PN trong văn bản tiếng Việt và tiếng Anh có những điểm tương đồng và dị biệt như thế nào? ... Bấy nhiêu vấn đề tiềm ẩn đó, đã thôi thúc chúng tôi suy nghĩ để chọn một đề tài nghiên cứu cho mình. Từ tất cả những điều kể trên, khiến chúng tôi chọn vấn đề “So sánh phương thức nối trong văn bản tiếng Việt và tiếng Anh” làm đề tài cho luận án (LA) này. 2. Mục đích nghiên cứu Để thực hiện đề tài này LA đặt ra những mục đích nghiên cứu như sau: (i) Lý giải về vai trò tất yếu của PN trong việc tạo ra mạch lạc trong VB nói chung, trong lập luận nói riêng. (ii) Xác lập bản chất ngôn ngữ của PN tiếng Việt, có so sánh với tiếng Anh. LA tập trung khảo sát chủ yếu trên hai bình diện: cấu tạo của TNN và vai trò của chúng trong việc thiết lập các quan hệ ngữ nghĩa và ngữ pháp qua PN. (iv) Đi tìm sự tương đồng và khác biệt trên hai bình diện đã xác định của PN trong tiếng Anh – một ngôn ngữ biến hình và trong tiếng Việt – một ngôn ngữ đơn lập. (v) Từ các kết quả này, thông qua khảo sát thực tế, LA đề xuất một số biện pháp về giảng dạy và đối dịch Anh – Việt, Việt – Anh về PN. 3. Phạm vi nghiên cứu PN là một phương thức LK VB phổ biến và được coi là một trong những điều kiện cần thiết để tạo ra mạch lạc, để tổ chức VB, diễn ngôn. PN không chỉ có chức năng LK các phát ngôn với nhau mà còn LK cả những đơn vị lớn hơn như: các đoạn văn, các chương, các phần khác nhau của văn bản, của diễn ngôn để tạo nên một khối thống nhất chặt chẽ về cấu trúc và ý nghĩa. Vì vậy, nó cần phải được xem xét trước hết với tư cách một phương thức LK độc lập, đồng thời, cần được đối chiếu, xác lập chức năng LK, quan hệ ngữ nghĩa, giá trị ngữ pháp, trong hệ thống LK văn bản tiếng Việt. Và chúng ta đã biết, PN có thể xuất hiện trong một phát ngôn và giữa các phát ngôn và các cấp độ lớn hơn phát ngôn. LA này chỉ tập trung khảo sát PN giữa các phát ngôn. Dựa theo cách biện giải của Trần Ngọc Thêm (1985) có thể hình dung: - Gọi U1 là phát ngôn, U2 là phát ngôn kế cận, c là yếu tố LK thì PN có thể được hình dung bằng một mô hình tổng quát5 sau đây: U1. c U2 (U: utterance; c: connector) (3) Tôi vội vàng bước ra khỏi nhà. Và nó cũng nối gót theo sau U1 . c U 2 Trong đó c là từ ngữ nối (TNN), thực hiện chức năng nối. Đây là mô hình có tính chất điển hình, trong thực tế còn có các dạng: (i) c1 U1.c2U2. c3 U3 (4) Thoạt đầu thì người vợ chính ngạc nhiên. Rồi thì tức tối. Sau cùng thì nhẫn nại, phải nhẫn nại là hơn, nếu hắn về thì cũng thế. [47, NCH, BĐC] c1 = thoạt đầu; c2 = rồi; c3 = sau cùng. (ii) U1 . Ø U2 (5) Gió mỗi lúc một mạnh. (Và) Đoàn xe vẫn lao đi vun vút trong mưa. [13, HTHN] Đây là kiểu nối không có TNN (nối zêrô)6. Dù rằng, tác giả không dùng TNN và (hay một TNN nào khác), nhưng về mặt nguyên tắc, ta có thể xác lập quan hệ nghĩa và lựa chọn những TNN tương thích để tạo ra PN giữa hai phát ngôn trên đây. Trong phần lớn các trường hợp, LA chỉ tập trung khảo sát ở mô hình điển hình, sau đó là mô hình ở (i), còn ở (ii) chỉ xem xét khi thật cần thiết, nhất là khi cần biện giải cho PN và các phép LK liên quan. 4. Lịch sử nghiên cứu đề tài Các câu trong VB thường có ‘sợi dây liên hệ chặt chẽ’ tạo ra sự gắn kết giữa câu với câu, trong đó PN là một phương thức LK hình thức trong hệ thống LK trong VB. Việc nghiên cứu về PN trong VB tiếng Việt, trong thực tiễn, còn đặt ra nhiều vấn đề cần phải tiếp tục bàn sâu, làm rõ. Sau đây chúng tôi thử điểm qua những công trình nghiên cứu về các phương thức LK trong VB nói chung và việc nghiên cứu PN nói riêng. Trên thế giới, các công trình đầu tiên, đặt nền móng và khẳng định sự ra đời của NPVB bắt đầu xuất hiện vào cuối những năm 40 của thế kỷ XX. Các nhà NNH đều nhận thấy phải mở rộng phạm vi nghiên cứu ngôn ngữ. M. A. K. Halliday (1976), nhận định, đơn vị cơ bản khi chúng ta sử dụng ngôn ngữ không phải là từ hay câu mà là VB. Nguyễn Quang Ninh, 1989 viết “ cần dành một vị trí riêng cho chuỗi hoàn chỉnh các câu có chung ý nghĩa và là một chỉnh thể cú pháp – ngữ nghĩa nhất định”. Cùng nhận định về đối tượng nghiên cứu ngôn ngữ tương đối mới mẻ này, H. Harmann (1965) cũng cho rằng, các ký hiệu ngôn ngữ chỉ bộc lộ mình, chừng nào chúng là những cái gắn bó với nhau trong VBMọi người chỉ nói bằng VB, chứ không phải bằng các từ và bằng các câu, ít ra cũng bằng các câu làm thành từ các từ nằm trong VB. W. Dressler (1970) cũng thống nhất ý kiến rằng, trong thời đại chúng ta mọi người thừa nhận rằng đơn vị ngôn ngữ cao nhất, ít lệ thuộc nhất, không phải là câu mà là VB. NPVB là một bộ môn chỉ thực sự được biết đến một cách rộng rãi từ những năm 1970, sau thời kỳ cực thịnh của ngữ pháp và ngữ nghĩa tạo sinh. Tuy nhiên, sau khi ra đời, NPVB đã tỏ ra có những ứng dụng hết sức thiết thực trong việc đề ra các phương pháp xây dựng, phân tích, tóm tắt, biên tập và hiệu đính VB. Nhờ vậy, nó đã nhanh chóng được phổ biến và phát triển mạnh mẽ. NNH VB đã trải qua những giai đoạn khác nhau trong nhận diện đối tượng nghiên cứu. O. I. Moskalskaja [71] ghi nhận rằng, thời kỳ đầu người ta coi đối tượng nghiên cứu của NNH VB là chỉnh thể cú pháp trên câu ( còn gọi là thể thống nhất cú pháp). Từ những năm 1981 về sau, người ta chú ý đến toàn VB. Vậy, sự ra đời của NPVB không phải là một hiện tượng đột biến mà do yêu cầu tất yếu, là kết quả logic của quá trình nghiên cứu ngôn ngữ và cả những vấn đề nảy sinh từ thực tiễn sử dụng ngôn ngữ. NPVB không hề đối lập với ngữ pháp truyền thống mà kế tục, hoàn thiện và mở ra những bình mới, đầy hứa hẹn của ngữ pháp học. Nói đến NPVB là nói đến các phương thức LK VB. Trong đó PN có một vị trí đặc biệt, góp phần tạo nên VB. Trên cứ liệu tiếng Việt, Trần Ngọc Thêm có công rất lớn trong việc giới thiệu và nghiên cứu về NPVB, xác lập hệ thống LK tiếng Việt, trong đó có PN. Theo Diệp Quang Ban (2003) - một trong những nhà Việt ngữ học rất quan tâm nghiên cứu NPVB tiếng Việt nhận định rằng, “các mối quan hệ xuyên câu thì mờ ảo hơn nhiều so với các mối quan hệ nội câu. Những khái niệm do cú pháp tìm ra không còn đủ để giải quyết những vấn đề ngữ pháp câu nữa. Do vậy, chúng ta cần phải quan tâm, sử dụng đến cả những bộ môn ngoài NNH, logic học, dụng học, tâm lý học”. Bên cạnh tên gọi ‘PTDN’, nhiều người cũng nhắc đến tên gọi ‘phân tích VB’. Thực tế đó cho chúng ta thấy rằng, NNH hiện đại quan tâm nghiên cứu một cách tổng hợp về NNH VB. Trần Ngọc Thêm [98] khẳng định, nếu chúng ta dừng lại ở ranh giới câu, thì NNH truyền thống gây cho mọi người ấn tượng rằng chỉ cần biết thật nhiều từ và nắm vững các mô hình cấu tạo câu là có thể giao tiếp được. Vì vậy, muốn có một VB hình như chúng ta chỉ cần ghép các câu đúng ngữ pháp lại với nhau. Cái gì là nhân tố có tác dụng biến một chuỗi câu trở thành VB? Đó chính là những mối liên hệ qua lại phức tạp về nội dung cũng như về hình thức giữa các câu văn, giữa các đoạn văn, là mạng lưới các mối liên hệ giữa các câu trong một VB, là tính LK của VB. Do vậy, hiện tượng đầu tiên được các nhà NNH VB chú ý đến là vấn đề tính LK của VB, trong đó có PN. Các nhà nghiên cứu ngôn ngữ biến hình và quan tâm xem xét các mối LK giữa các phát ngôn, ngoài M.A.K. Halliday (1970, 2004), M.A.K. Halliday và R. Hassan (1976) và những nhà NNH tiên phong, còn có thể kể đến Wolfgang Dressler (1982), Patricia L. Carrell (1982), Gillian Brown and George Yule (1983), Regina Blass (1986), Kim S. Campbell (1995), Wolfram Bublitz (2000), Một số tác giả khác còn nghiên cứu mở rộng LK như Liên kết hội thoại (On Dialogue Cohesion) của Jeanne Mari Conte (1999), Ngữ pháp diễn ngôn và Loại hình học (Discourse Grammar and Typology) của Abraham, Werner, Talmy Givón and Sandra A. Thompson (1994), Chuyển tiếp mạch lạc và liên kết (Coherence Continuity and Cohesion) của Kim S. Campbell (1995), Ở Việt Nam, về NPVB, PTDN tiếng Việt, cho đến hôm nay, vẫn chưa có nhiều công trình nghiên cứu, khả dĩ đáp ứng mong mỏi cho những người quan tâm đến vấn đề này - nhất là các giáo viên ngữ văn. Theo các nhà Việt ngữ học, ở Việt Nam, NPVB đã được đưa vào nghiên cứu và giảng dạy ở Trường Đại học tổng hợp Hà Nội (nay thuộc ĐHQG Hà Nội) từ năm 1978. Những năm tiếp theo, có nhiều trường ĐHSP và Cao đẳng sư phạm, đã quan tâm đến lĩnh vực mới này. Tiếp sau đó, các Trường ĐHSP Hà Nội I, Viện khoa học giáo dục, ĐHSP Qui Nhơn, ĐHSP Vinh, ĐHSP Huế , rất chú ý đến lĩnh vực NPVB. Tài liệu tham khảo và giảng dạy lúc bấy giờ có Hệ thống liên kết văn bản tiếng Việt (1985) của Trần Ngọc Thêm, Ngữ pháp văn bản và việc dạy làm văn (1985) của Nguyễn Trọng Báu – Nguyễn Quang Ninh – Trần Ngọc Thêm. Nguyễn Quang Ninh (1989), có Ngữ pháp văn bản (Phục vụ chương trình CCGD). Đỗ Hữu Châu (1994) biên soạn cuốn Ngữ pháp văn bản - Tài liệu sử dụng Bồi dưỡng thường xuyên cho giáo viên cấp 2 phổ thông. Trần Ngọc Thêm – Trịnh Sâm (1989) có Ngữ pháp văn bản (Hỏi – Đáp) do trường CĐSP Thành phố Hồ Chí Minh ấn hành Sách dịch có tác phẩm Văn bản với tư cách đối tượng nghiên cứu của ngôn ngữ học của I. P.Gal’perin (1987), Ngữ pháp văn bản của I.O. Moskalskaja do Trần Ngọc Thêm dịch và chú giải Nhìn chung các công trình NPVB tiếng Việt trên đây đều có đề cập đến PN. Tuy nhiên, kết quả nghiên cứu về PN thì chưa thật hệ thống. Giáo trình NPVB và việc dạy tập làm văn của nhóm tác giả Nguyễn Trọng Báu – Nguyễn Quang Ninh – Trần Ngọc Thêm (1985) có xem xét PN như một phương thức LK riêng biệt. Các tác giả chỉ đề cập đến PN thông qua Chương hai với đề mục 'Liên kết liên câu' [9, tr. 15-24]. Nguyễn Hữu Chỉnh [26] có bài nghiên cứu về quan hệ ngữ pháp trong văn bản. Lương Đình Dũng (Ngôn ngữ (6), 2005, tr. 38-47) có 'Phép nối và một vài suy nghĩ về phương pháp dạy phép nối trong tiếng Việt'. Trong bài này, tác giả đã đưa ra một số quan niệm về LK, PN và đưa ra sáu kiểu quan hệ nghĩa của PN. Ngoài ra, gần đây còn có một số luận văn của học viên, LA của nghiên cứu sinh về LK, liên từ và PN ... Nhưng, nhìn chung, công trình nghiên cứu về các phương thức LK cũng chưa thật sự phong phú. Các phép LK trong VB tiếng Việt thật sự được nhiều nhà Việt ngữ học quan tâm hơn. Trần Ngọc Thêm (1985) với Hệ thống liên kết văn bản tiếng Việt có thể coi là người đi tiên phong ở lĩnh vực này trong số các nhà NPVB tiếng Việt. Với công trì
Luận văn liên quan