Nhân dân ta có lịch sử hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước. Trong đấu
tranh chống kẻ thù xâm lược cũng như trong lao động sản xuất nhân dân Việt
Nam đã thể hiện tinh thần chiến đấu ngoan cường, sự thông minh sáng tạo, ý
thức độc lập tự chủ, tự lực, tự cường. Trong truyền thống dân tộc ấy Hồ Chí
Minh nhìn thấy nổi bật lên sức mạnh của lòng yêu nước. Tinh thần yêu nước của
nhân dân Việt Nam có những đặc điểm riêng biệt, đặc sắc, vì phải luôn luôn đối
đầu với nhiều khó khăn của tự nhiên và chiến tranh xâm lược, sự đô hộ của kẻ
thù từ nhiều phương kéo đến. Lòng yêu nước Việt Nam đã trở thành sức mạnh,
một thứ đạo lý, một lẽ sống của mỗi người dân, cũng là một tiêu chí cao nhất để
đánh giá con người trong xã hội ta.
Hồ Chí Minh xác định con đường cứu nước đúng đắn để giải phóng dân tộc
đã phát huy lòng yêu nước truyền thống và nâng thành lòng yêu nước xã hội chủ
nghĩa. Tinh thần, ý chí độc lập, tự chủ, tự cường và lòng yêu nước phát huy được
sức mạnh to lớn, tạo nên truyền thống đoàn kết dân tộc, đoàn kết toàn dân. Hồ
Chí Minh đã làm nổi bật sức mạnh của con người Việt Nam, đó là sức mạnh thể
lực và trí tuệ, sức mạnh của bề dày lịch sử và trong cuộc đấu tranh hiện tại, sức
mạnh của sự thông minh và dũng cảm, của lòng tin chân chính không gì lay
chuyển. Sức mạnh ấy bền vững và được nhân lên nhiều lần dưới sự lãnh đạo của
Đảng cộng sản Việt Nam.
18 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 1987 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem nội dung tài liệu Luận văn Sự cống hiến của Hồ Chí Minh trong việc làm phong phú thêm những vấn đề lớn trong kho tàng lý luận của chủ nghĩa Mác - Lê Nin, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN:
Sự cống hiến của Hồ Chí Minh trong việc
làm phong phú thêm những vấn đề lớn
trong kho tàng lý luận của chủ nghĩa
Mác-Lê Nin
LỜI NÓI ĐẦU
Lâu nay ,tên tuổi Hồ Chí Minh đã trở nên gần gũi thân thiết đối với hàng
trăm triệu người trên thế giới.Hồ Chí Minh là con người Việt Nam ưu tú điển
hình của mọi thời đại.Suốt cuộc đời hoạt động,Người đã dành phần lớntâm tư và
sức lực cho sự nghiệp vĩ đại là tìm racon đường cách mạng giải phóng dân
tộc.Đây cũng là một trong những tư tưởng lớn của Hồ Chí Minh.
Bài tiểu luận:“Cách mạng giải phóng dân tộc-tư tưởng vĩ đại của những tư
tưởng lớn” sẽ trình bày một cách tương đối có hệ thống về đề tài Cách mạng giải
phóng dân tộc trong tư tưởng Hồ Chí Minh
Qua 3 chương của bài tiêu luận, em đã nêu lên được sự cống hiến của Hồ
Chí Minh trong việc làm phong phú thêm những vấn đề lớn trong kho tàng lý
luận của chủ nghĩa Mác-Lê Nin và làm rõ mối quan hệ về sức mạnh dân tộc với
sức mạnh thời đại trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Để thực hiện tốt điều này Hồ
Chủ Tịch và Đảng ta đã giải quyết vần đề trong suốt tiến trình CMVN như thế
nào?
NỘI DUNG
I. Đặt Vấn Đề
Nhân dân ta có lịch sử hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước. Trong đấu
tranh chống kẻ thù xâm lược cũng như trong lao động sản xuất nhân dân Việt
Nam đã thể hiện tinh thần chiến đấu ngoan cường, sự thông minh sáng tạo, ý
thức độc lập tự chủ, tự lực, tự cường. Trong truyền thống dân tộc ấy Hồ Chí
Minh nhìn thấy nổi bật lên sức mạnh của lòng yêu nước. Tinh thần yêu nước của
nhân dân Việt Nam có những đặc điểm riêng biệt, đặc sắc, vì phải luôn luôn đối
đầu với nhiều khó khăn của tự nhiên và chiến tranh xâm lược, sự đô hộ của kẻ
thù từ nhiều phương kéo đến. Lòng yêu nước Việt Nam đã trở thành sức mạnh,
một thứ đạo lý, một lẽ sống của mỗi người dân, cũng là một tiêu chí cao nhất để
đánh giá con người trong xã hội ta.
Hồ Chí Minh xác định con đường cứu nước đúng đắn để giải phóng dân tộc
đã phát huy lòng yêu nước truyền thống và nâng thành lòng yêu nước xã hội chủ
nghĩa. Tinh thần, ý chí độc lập, tự chủ, tự cường và lòng yêu nước phát huy được
sức mạnh to lớn, tạo nên truyền thống đoàn kết dân tộc, đoàn kết toàn dân. Hồ
Chí Minh đã làm nổi bật sức mạnh của con người Việt Nam, đó là sức mạnh thể
lực và trí tuệ, sức mạnh của bề dày lịch sử và trong cuộc đấu tranh hiện tại, sức
mạnh của sự thông minh và dũng cảm, của lòng tin chân chính không gì lay
chuyển. Sức mạnh ấy bền vững và được nhân lên nhiều lần dưới sự lãnh đạo của
Đảng cộng sản Việt Nam.
Thời đại của chúng ta mở đầu bằng Cách mạng tháng Mười Nga 1917.
Cuộc cách mạng này đã mở ra con đường giải phóng cho các dân tộc và cả loài
người, mở đầu thời đại mới trong lịch sử. Theo Hồ Chí Minh sức mạnh thời đại
là sức mạnh của giai cấp vô sản thế giới, của nhân dân lao động thế giới. Trong
quá trình nhận thức và vận dụng sáng tạo Chủ nghĩa Mác-Lênin vào hoàn cảnh
cụ thể của Vịêt Nam, Hồ Chí Minh nhận thấy phải dựa vào sức mạnh của dân tộc
là chủ yếu, đồng thời phải khai thác sức mạnh của thời đại. Những nội dung,
nguyên tắc về kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại là một bộ phận
quan trọng của tư tưởng Hồ Chí Minh.
Thời đại ngày nay, đặc biệt là giai đoạn hiện nay đang diễn ra một cuộc đấu
tranh gay gắt trên mặt trận tư tưởng cũng như về hoạt động thực tiễn mà chúng ta
cần nhận thức đúng đắn để tiến hành những hoạt động quốc tế phù hợp phục vụ
sự nghiệp xây dựng CNXH và bảo vệ Tổ quốc XHCN.
Do vậy phải giáo dục cho nhân dân có được niềm tin về lý tưởng XHCN
trong điều kiện thế giới có nhiều biến đổi. Cần phải xử lý nghiêm minh, công
bằng đối với những hành vi vi phạm pháp luật làm suy thoái tư tưởng, băng hoại
đạo đức xã hội. Hội nhập quốc tế mà không được chệch hướng XHCN, bảo đảm
mục tiêu xây dựng một nước Việt Nam hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ,
giàu mạnh và góp phần xứng đáng vào cách mạng thế giới.
Không ngừng bảo vệ và pháy huy bản sắc văn hóa truyền thống của dân tộc,
làm cho bản sắc văn hoá được giữ vững và phát triển. Giữ vững tinh thần độc lập
tự chủ trong tiếp thu sức mạnh bên ngoài, kết hợp sức mạnh trong nước. Việc
giáo dục tinh thần yêu nước, lòng tự hào dân tộc chính đáng, ý thức bảo vệ văn
hoá dân tộc, tiếp thu có chọn lọc văn hoá nước ngoài là những yêu cầu cấp thiết
được đặt ra đối với việc “mở cửa”. Công tác đối ngoại được xác định có vai trò
quan trọng đối với việc kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh của thời đại.
Tư tưởng về kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại là một nội
dung lớn của tư tưởng Hồ Chí Minh. Tư tưởng đó được vận dụng và phát triển
trong suốt tiến trình cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng của Chủ
tịch Hồ Chí Minh. Nội dung cuả tư tưởng này rất phong phú, sâu sắc về thời đại,
về sự kết hợp các sức mạnh này trong thực tiễn đấu tranh. Tư tưởng của Người
còn thấm đượm chủ nghĩa nhân văn sâu sắc, tính cách mạng triệt để nên ảnh
hưởng to lớn đến cuộc đấu tranh lâu dài cho nhân dân các nước vì sư nghiệp”Giải
phóng dân tộc, giải phóng xã hội, giải phóng con người”
II. Giải Quyết vấn Đề
1. Mối quan hệ về sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trong tư tưởng Hồ
Chí Minh
a) Đặt cách mạng giải phóng dân tộc Việt Nam trong sự gắn bó với cách
mạng vô sản thế giới
Thời đại mà Hồ Chí Minh sống và hoạt động là thời đại đã chấm dứt sự tồn
tại biệt lập giữa các quốc gia, mở ra mối quan hệ quốc tế ngày càng rộng lớn giữa
các dân tộc.
Sự thất bại của các phong trào yêu nước chống Pháp cuối thế kỷ XIX, đầu
thế kỷ XX không phải vì nhân dân ta thiếu anh dũng, các lãnh tụ phong trào kém
nhiệt huyết mà do nhiều nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân thiếu đường lối
cách mạng đúng đắn, phương pháp cách mạng không phù hợp với xu thế mới của thời
đại.
Do nhận thức đúng sự biến chuyển của thời đại, Hồ Chí Minh đã sớm đến được
với cánh tả của cách mạng Pháp, gặp được Luận cương của V.I. Lênin, tán thành
Quốc tế III, tìm thấy con đường giải phóng dân tộc Việt Nam theo con đường
cách mạng vô sản. Người viết: "Thời đại của chủ nghĩa tư bản lũng đoạn cũng là
thời đại một nhóm nước lớn do bọn tư bản tài chính cầm đầu thống trị các nước
phụ thuộc và nửa phụ thuộc, bởi vậy công cuộc giải phóng các nước và các dân
tộc bị áp bức là một bộ phận khăng khít của cách mạng vô sản. Do đó mà trước
hết nảy ra khả năng và sự cần thiết phải có liên minh chiến đấu chặt chẽ giữa các dân
tộc thuộc địa với giai cấp vô sản của các nước đế quốc để thắng kẻ thù chung"
1
.
Sau khi nắm được đặc điểm của thời đại mới, Hồ Chí Minh đã hoạt động
không mệt mỏi để gắn cách mạng Việt Nam với cách mạng thế giới. Người đã
chỉ ra một trong những nguyên nhân gây ra sự suy yếu của các dân tộc phương
Đông, đó là sự biệt lập. Theo Người, "Cách mệnh An Nam cũng là một bộ phận
trong cách mệnh thế giới. Cách mệnh trong thế giới đều là đồng chí của dân An
Nam cả"
2
. Do đó, cần phải "Làm cho các dân tộc thuộc địa, từ trước đến nay vẫn
cách biệt nhau, hiểu biết nhau hơn và đoàn kết lại để đặt cơ sở cho một Liên
minh phương Đông tương lai, khối liên minh này sẽ là một trong những cái cánh
của cách mạng vô sản"
3
. Do nhiều nguyên nhân, giai cấp công nhân ở phương
Tây lúc đó chưa có hiểu biết đầy đủ và chính xác về vấn đề thuộc địa. Một số
lãnh tụ cơ hội của Quốc tế II đã bênh vực chính sách thuộc địa của chủ nghĩa đế
quốc. V.I. Lênin đã kiên quyết đấu tranh chống lại quan điểm sai lầm này. Hồ
Chí Minh đã bảo vệ và phát triển quan điểm của V.I. Lênin về khả năng to lớn và
vai trò chiến lược của cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa đối với thắng lợi
của cách mạng vô sản: cách mạng ở phương Tây muốn thắng lợi thì nó phải liên
hệ chặt chẽ với phong trào giải phóng chống chủ nghĩa đế quốc ở các nước thuộc
địa và các nước bị nô dịch.
Chính nhờ nắm bắt được đặc điểm và xu thế phát triển của thời đại mà Hồ
Chí Minh đã xác định chính xác đường lối chiến lược, sách lược và phương pháp
cách mạng đúng đắn cho sự nghiệp cứu nước, giải phóng dân tộc Việt Nam theo
con đường của cách mạng vô sản. Hồ Chí Minh khẳng định: "Cách mạng Việt
Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác, điều đó chứng minh rằng trong thời
đại đế quốc chủ nghĩa, ở một nước thuộc địa nhỏ, với sự lãnh đạo của giai cấp
vô sản và đảng của nó, dựa vào quần chúng nhân dân rộng rãi trước hết là nông
dân và đoàn kết được mọi tầng lớp nhân dân yêu nước trong mặt trận thống
nhất, với sự đồng tình và ủng hộ của phong trào cách mạng thế giới, trước hết là
của phe xã hội chủ nghĩa hùng mạnh, nhân dân nước đó nhất định thắng lợi"
1
.
b) Kết hợp chặt chẽ chủ nghĩa yêu nước chân chính với chủ nghĩa quốc tế
trong sáng
Là nhà yêu nước chân chính, Hồ Chí Minh đã triệt để phát huy sức mạnh
của chủ nghĩa yêu nước và tinh thần dân tộc; đồng thời là nhà quốc tế chủ nghĩa
trong sáng. Hồ Chí Minh đã suốt đời đấu tranh không mệt mỏi để củng cố và
tăng cường tình đoàn kết và hữu nghị giữa Việt
Nam và các dân tộc khác đang đấu tranh cho mục tiêu chung là hòa bình, độc lập
dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội. Người cho rằng: Đảng lấy toàn bộ thực tiễn
của mình để chứng minh rằng chủ nghĩa yêu nước triệt để không thể nào tách rời
với chủ nghĩa quốc tế vô sản. Tinh thần yêu nước chân chính khác hẳn với tinh
thần "vị quốc" của bọn đế quốc phản động. Nó là một bộ phận của tinh thần quốc
tế.
Kẻ thù của các dân tộc và cách mạng thế giới hiểu rõ sức mạnh của khối
đoàn kết dân tộc và đoàn kết quốc tế, vì vậy, để áp đặt và duy trì được ách thống
trị của chúng đối với các thuộc địa, chúng đã ra sức chia rẽ các dân tộc, truyền bá
tư tưởng của chủ nghĩa chủng tộc, khuyến khích thói kỳ thị màu da, kích động
chủ nghĩa dân tộc cực đoan... Hồ Chí Minh đã chứng kiến sự thối nát đó của chủ
nghĩa thực dân khi còn ở trong nước cũng như khi đi tìm đường cứu nước, song
Người cũng đã chứng kiến về sự chan hòa giữa các dân tộc, các chủng tộc khi
đến Liên Xô năm 1923. Người rất phấn khởi nhìn thấy ở Trường Đại học phương
Đông hình ảnh đại đoàn kết giữa các dân tộc đủ màu da:
"Rằng đây bốn biển một nhà.
Vàng, đen, trắng, đỏ đều là anh em".
Hồ Chí Minh là người có đóng góp lớn vào lý luận Mác- Lênin về kết hợp
chặt chẽ giữa chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa quốc tế, kết hợp sức mạnh dân
tộc với sức mạnh thời đại. Luận điểm coi chủ nghĩa đế quốc là "con đỉa hai vòi",
coi liên minh các dân tộc ở phương Đông là một trong những cái cánh cách mạng
vô sản", khẳng định chủ nghĩa cộng sản có thể áp dụng được ở phương Đông,
cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa có thể thắng lợi trước cách mạng vô
sản ở chính quốc,... là sự phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin của Hồ Chí
Minh.
Đề cao sự giúp đỡ quốc tế với cách mạng Việt Nam, Hồ Chí Minh cũng
đồng thời nhấn mạnh trách nhiệm của cách mạng Việt Nam với cách mạng thế
giới. Khi phong trào cộng sản và công nhân quốc tế có sự chia rẽ, Đảng ta và Hồ
Chí Minh đã hoạt động không mệt mỏi để mong góp phần khôi phục sự đoàn kết
quốc tế trên cơ sở những nguyên tắc của chủ nghĩa Mác - Lênin và chủ nghĩa
quốc tế vô sản, có lý, có tình.
Như vậy, theo Hồ Chí Minh, từ đại đoàn kết dân tộc phải đi đến đại đoàn
kết quốc tế; đại đoàn kết dân tộc đúng đắn là cơ sở cho việc thực hiện đoàn kết
quốc tế trong sáng. Đại đoàn kết dân tộc là một trong những nhân tố bảo đảm
thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Đoàn kết quốc tế cũng là một nhân tố hết sức
quan trọng giúp cho cách mạng Việt Nam đi đến thắng lợi hoàn toàn của sự
nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất đất n-ước, đưa cả nước quá độ lên chủ
nghĩa xã hội.
Kết hợp chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa quốc tế vô sản đòi hỏi phải đấu
tranh chống lại mọi biểu hiện của chủ nghĩa dân tộc vị kỷ, chủ nghĩa sô vanh và
mọi thứ chủ nghĩa cơ hội khác. Chúng ta không chỉ chiến đấu vì độc lập, tự do
của đất nước mình mà còn vì độc lập, tự do của các nước khác, không chỉ bảo vệ
lợi ích sống còn của dân tộc mình mà còn vì những mục tiêu cao cả của thời đại:
hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội.
c) Dựa vào sức mình là chính, tranh thủ sự giúp đỡ của các nước xã hội
chủ nghĩa, sự ủng hộ của nhân loại tiến bộ, đồng thời không quên nghĩa vụ quốc
tế cao cả của mình
Trong mối quan hệ giữa sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại, bao giờ Hồ
Chí Minh cũng tích cực và quan tâm đến phát huy sức mạnh của dân tộc, coi
nguồn lực nội sinh giữ vai trò quyết định, còn nguồn lực ngoại sinh chỉ phát huy
được tác dụng thông qua nguồn lực nội sinh. Vì vậy, trong đấu tranh cách mạng,
Hồ Chí Minh luôn luôn nêu cao khẩu hiệu "tự lực cánh sinh, dựa vào sức mình là
chính", "muốn người ta giúp cho, thì trước mình phải tự giúp lấy mình đã". Một
dân tộc không tự lực cánh sinh mà cứ ngồi chờ dân tộc khác giúp đỡ thì không
xứng đáng được độc lập.
"Tự giải phóng" là tư tưởng, quan điểm lớn, xuyên suốt của tư tưởng Hồ
Chí Minh. Trong lời kêu gọi gửi tới những người anh em ở các thuộc địa, Người
viết: Anh em phải làm thế nào để được giải phóng?
Vận dụng công thức của C. Mác, chúng tôi xin nói với anh em rằng, công cuộc
giải phóng anh em chỉ có thể thực hiện được bằng sự nỗ lực của bản thân anh em.
Chính vì đánh giá cao sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước và tinh thần dân tộc
mà Hồ Chí Minh đã đi tới luận điểm: Cách mạng thuộc địa không những không
phụ thuộc vào thắng lợi của cách mạng vô sản ở chính quốc mà trong điều kiện
lịch sử nhất định, có thể và cần thiết phải chủ động tiến hành trước và bằng thắng
lợi của cách mạng thuộc địa mà góp phần "giúp đỡ những người anh em mình ở
phương Tây trong nhiệm vụ giải phóng hoàn toàn"
1
.
Hồ Chí Minh cho rằng, muốn tranh thủ được sức mạnh thời đại, ngoài sức
mạnh cần thiết bên trong, còn phải có đường lối độc lập tự chủ đúng đắn mới
tranh thủ được sức mạnh thời đại. Cuộc kháng chiến chống Mỹ của nhân dân ta
diễn ra trong bối cảnh lịch sử phức tạp, đó là sự chia rẽ của hệ thống xã hội chủ
nghĩa, của phong trào cách mạng thế giới. Để tranh thủ được sự đồng tình và ủng
hộ của nhân dân thế giới, Đảng ta và Hồ Chí Minh đề ra đường lối kết hợp chặt
chẽ mục tiêu đấu tranh cho độc lập, thống nhất của dân tộc mình với mục tiêu
của thời đại là hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội.
Nêu cao chủ nghĩa yêu nước kết hợp với chủ nghĩa quốc tế, tranh thủ cao
nhất sự ủng hộ và giúp đỡ của loài người tiến bộ, nhân dân ta đồng thời tích cực
thực hiện nghĩa vụ quốc tế cao cả của mình. Hồ Chí Minh đã nhiều lần nhắc nhở:
phải coi cuộc đấu tranh của bạn cũng như cuộc đấu tranh của ta... Người cùng
một hội, một thuyền phải giúp đỡ lẫn nhau". Người đặc biệt coi trọng xây dựng
khối đoàn kết Việt Nam, Lào, Campuchia - ba nước cùng cảnh ngộ thuộc địa trên
bán đảo Đông Dương trong cuộc đấu tranh giải phóng đất nước. Trong kháng
chiến chống chủ nghĩa đế quốc thực dân, tư tưởng Hồ Chí Minh đã định hướng
cho việc hình thành ba tầng Mặt trận: Mặt trận đại đoàn kết dân tộc; Mặt trận
đoàn kết Việt Nam, Lào, Campuchia; Mặt trận nhân dân thế giới đoàn kết với
Việt Nam chống đế quốc xâm lược. Đây thực sự là sự phát triển rực rỡ nhất và
thắng lợi to lớn nhất của tư tưởng đại đoàn kết của Hồ Chí Minh.
Nhờ có sự giúp đỡ của quốc tế, Việt Nam đã giành toàn thắng trong hai
cuộc kháng chiến giải phóng dân tộc và bảo vệ Tổ quốc, song cũng bằng việc
đánh bại thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, Việt Nam ta đã góp phần quan
trọng làm suy yếu chủ nghĩa đế quốc, từng bước hạn chế và làm thất bại âm mưu
gây chiến tranh thế giới của chúng, góp phần củng cố hòa bình và dân chủ trên
thế giới, mở rộng và tăng cường lực lượng cho chủ nghĩa xã hội.
d) Có quan hệ hữu nghị, hợp tác, sẵn sàng "làm bạn với tất cả mọi nước
dân chủ"
Sinh ra và lớn lên ở một nước thuộc địa, phong kiến lạc hậu, bôn ba khắp
thế giới đi tìm đường cứu nước, cứu dân, hơn ai hết, Hồ Chí Minh là người thấu
hiểu sâu sắc nỗi nhục mất nước của các dân tộc và sự thống khổ của nhân dân lao
động tất cả các nước trên thế giới. Vì vậy, trong suốt cuộc đời hoạt động của
mình, Hồ Chí Minh luôn luôn chăm lo xây dựng, vun đắp cho tình hữu nghị, hợp
tác và đoàn kết giữa nhân dân các nước theo tinh thần "bốn phương vô sản đều là
anh em" nhằm tạo nên sức mạnh to lớn cho sự nghiệp cách mạng của các dân tộc.
Những năm bôn ba tìm đường cứu nước, Hồ Chí Minh đã từng sống, làm
việc, hoạt động ở nhiều nước do đó có vinh dự là người đặt cơ sở đầu tiên cho
tình hữu nghị giữa nhân dân Việt Nam với nhân dân nhiều nước trên thế giới.
Sau khi nước ta giành đ-ược độc lập, Người đã nhiều lần tuyên bố: "Chính sách
ngoại giao của Chính phủ thì chỉ có một điều tức là thân thiện với tất cả các nước
dân chủ trên thế giới để giữ gìn hòa bình"
1
; "Thái độ nước Việt Nam đối với
những nước á châu là một thái độ anh em, đối với ngũ cường là một thái độ bạn
bè"
2
... Thực hiện quan điểm đối ngoại hòa bình, hữu nghị, Hồ Chí Minh đã thể
hiện là một nhà ngoại giao mẫu mực, vừa cứng rắn về nguyên tắc, vừa mềm dẻo
về sách lược, "Dĩ bất biến ứng vạn biến". Phong cách đối ngoại của Hồ Chí Minh
là phong cách ứng xử văn hóa, mà hạt nhân là ứng xử có lý, có tình. Hồ Chí
Minh chủ trương giương cao ngọn cờ hòa bình, đoàn kết quốc tế, đồng thời luôn
phân biệt rõ bạn, thù của cách mạng, tỉnh táo với mọi âm mưu xấu xa của các thế
lực phản động quốc tế, trân trọng mọi sự giúp đỡ, hợp tác chân thành, nhưng
cũng kiên quyết đấu tranh chống sự chia rẽ, xâm lược.
Trong Lời kêu gọi gửi tới Liên hợp quốc năm 1946, Hồ Chí Minh nêu rõ:
"Trong chính sách đối ngoại của mình, nhân dân Việt Nam sẽ tuân thủ những
nguyên tắc dưới đây:
1. Đối với Lào và Miên, nước Việt Nam tôn trọng nền độc lập của hai nước
đó và bày tỏ lòng mong muốn hợp tác trên cơ sở bình đẳng tuyệt đối giữa các
nước có chủ quyền.
2. Đối với các nước dân chủ, nước Việt Nam sẵn sàng thực thi chính sách
mở cửa và hợp tác trong mọi lĩnh vực:
a) Nước Việt Nam dành sự tiếp nhận thuận lợi cho đầu tư của các nhà tư bản,
nhà kỹ thuật nước ngoài trong tất cả các ngành kỹ nghệ của mình.
b) Nước Việt Nam sẵn sàng mở rộng các cảng, sân bay và đường sá giao
thông cho việc buôn bán và quá cảnh quốc tế.
c) Nước Việt Nam chấp nhận tham gia mọi tổ chức hợp tác kinh tế quốc tế
dưới sự lãnh đạo của Liên hợp quốc.
d) Nước Việt Nam sẵn sàng ký kết với các lực lượng hải quân, lục quân
trong khuôn khổ của Liên hợp quốc những hiệp định an ninh đặc biệt và những
hiệp ước liên quan đến việc sử dụng một vài căn cứ hải quân và không quân"
1
.
Trong quan hệ rộng mở với nhân dân các nước, Hồ Chí Minh đã dành ưu
tiên cho mối quan hệ với các nước xã hội chủ nghĩa anh em. Đối với Lào và
Campuchia, những nước trên bán đảo Đông Dương, Hồ Chí Minh luôn có mối
quan tâm đặc biệt, ra sức xây dựng quan hệ đoàn kết về mọi mặt nhằm hình
thành liên minh chiến đấu chống kẻ thù chung. Người cũng hết sức coi trọng,
thiết lập mối quan hệ hữu nghị, láng giềng với các nước trong khu vực dù có chế
độ chính trị khác nhau. Những hoạt động ngoại giao không mệt mỏi của Người
đã nâng cao địa vị của Việt Nam trên trường quốc tế, trong phe xã hội chủ nghĩa
cũng như trong các nước thuộc thế giới thứ ba. Đồng thời qua đó, Hồ Chí Minh
và Đảng, Nhà nước ta đã có những đóng góp tích cực, chủ động vào cuộc đấu
tranh bảo vệ sự trong sáng của chủ nghĩa Mác-Lênin, tăng cường hữu nghị giữa
các nước, các dân tộc.
Tóm lại, với trí tuệ của mình, với chủ nghĩa quốc tế trong sáng, với đức độ
khiêm nhường, thái độ thiện chí, Hồ Chí Minh đã vượt qua mọi trở ngại, khó
khăn, từ trong những mối quan hệ chồng chéo, phức tạp của thời đại, đề ra được
chủ trương, phương châm, phương pháp, đối sách, ứng xử quốc tế đúng đắn, sáng
tạo, phù hợp với mỗi tình hình, mỗi giai đoạn cách mạng.
2. Quá trình nhận thức và giải quyết vấn đề của Hồ Chí Minh và Đảng
về mối quan hệ giữa sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trong tiến trình
thực hiện CMVN
Hồ Chí Minh có niềm tin vững chắc vào sức