Kinh tế biển trong vòng vài thập kỷ trở lại đây đã và đang trở thành một mũi
nhọn trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của các quốc gia có ưu thế về biển.
Đối với Việt Nam là một quốc gia ven biển, có nhiều tiềm năng và điều kiện thuận
lợi trong việc phát triển đa dạng các ngành kinh tế biển thì việc tận dụng lợi thế đó
nhằm đưa Việt Nam từng bước "trở thành một quốc gia mạnh về biển, giàu lên từ
biển" ngày càng trở nên quan trọng.
Trong các ngành kinh tế biển chủ chốt thì ngành nuôi trồng thủy sản ở nước
ta trong những năm gần đây được đẩy mạnh phát triển nhờ có giá trị kinh tế cao, dựa
trên điều kiện tự nhiên thuận lợi cùng truyền thống kinh nghiệm lâu đời của người
dân, ngày càng đóng một vai trò quan trọng đối với sự phát triển kinh tế-xã hội của
đất nước và bảo vệ an ninh ven biển. Sản phẩm của nuôi trồng thủy sản trước hết
đảm bảo an toàn lương thực, đáp ứng nhu cầu thực phẩm cho nhân dân, tiếp đến là
góp phần tăng giá trị xuất khẩu, đóng góp đáng kể vào nền kinh tế đất nước (chiếm
3% GDP). Năm 2004, tổng sản lượng thuỷ sản của cả nước đạt khoảng 1.150.000
tấn với giá trị xuất khẩu gần 2.400 triệu USD, trong đó nuôi trồng thuỷ sản đóng góp
tới 40% sản lượng và 50% giá trị xuất khẩu. Kinh tế nuôi trồng thủy sản đang thu
hút ngày càng nhiều lao động tham gia, qua đó góp phần tạo việc làm và thu nhập
cho người dân.
88 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 1927 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Sử dụng mô hình ecvo lab đánh giá một số đặc trưng môi trường khu vực nuôi trồng thủy sản, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1
đại học quốc gia hà nội
trường đại học khoa học tự nhiên
--------------------
Phạm Tiến Đạt
sử dụng mô hình eco lab đánh giá một số đặc trưng
môi trường khu vực nuôi trồng thủy sản
luận văn thạc sỹ khoa học
Hà Nội, 2009
2
đại học quốc gia hà nội
trường đại học khoa học tự nhiên
--------------------
Phạm Tiến Đạt
sử dụng mô hình eco lab đánh giá một số đặc trưng
môi trường khu vực nuôi trồng thủy sản
Chuyên ngành : Hải Dương học
Mã số: 60.44.97
luận văn thạc sỹ khoa học
người hướng dẫn khoa học:
TS. Nguyễn minh huấn
Hà Nội, 2009
3
Mục lục
Lời cảm ơn
Mở đầu 1
Chương 1: Tổng quan về điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội vịnh
Vân Phong - Bến Gỏi
4
1.1 Vị trí địa lý 4
1.2 Địa hình ven bờ và địa hình đáy 5
1.3 Đặc điểm khí tượng - thủy văn 7
1.4. Đặc điểm chế độ động lực biển vùng vịnh Vân Phong 12
1.5. Đặc điểm các yếu tố thủy hóa môi trường 13
1.6 Đặc điểm kinh tế -xã hội và hiện trạng nghề nuôi trồng thủy sản
biển
18
Chương 2: Mô hình ECO Lab 25
2.1. Tình hình nghiên cứu trong và ngoài nước 25
2.2 Mô hình ECO Lab 29
2.3 Cơ sở toán học 31
Chương 3: Các kết quả tính toán chất lượng nước cho khu vực vịnh
Vân Phong
42
3.1. Kết quả tính toán module thủy lực 42
3.2. Kết quả tính toán module chất lượng nước 51
Kết luận 74
Tài liệu tham khảo 75
Phụ lục
4
Lời cảm ơn
Để hoàn thành khoá luận này, tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành và
sâu sắc nhất tới TS. Nguyễn Minh Huấn - bộ môn Hải dương học - người
đã định hướng, trực tiếp hướng dẫn và tận tình giúp đỡ em về nhiều mặt.
Tôi cũng xin gửi lời cảm ơn tới TS. Nguyễn Kỳ Phùng - Viện khoa học Khí
tượng thủy văn và Môi trường (phân viện phía Nam), TS. Nguyễn Văn Lục
- Viện Hải dương học - đã giúp đỡ tôi tiếp cận với nguồn số liệu để tính
toán, cùng với một số hình ảnh minh hoạ; cùng các thầy cô trong Bộ môn
Hải Dương học - Khoa KTTVHDH đã có những chỉ dẫn và giải đáp quý
báu để tôi có thể hoàn thành khoá luận.
Trong quá trình thực hiện, luận văn chắc chắn không khỏi có nhiều
thiếu sót, vì vậy tôi rất mong nhận được sự góp ý của thầy cô và các bạn
đồng nghiệp để luận văn có thể hoàn thiện hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn !
Hà Nội, ngày tháng năm 2009
Học viên
Phạm Tiến Đạt
5
mở đầu
Kinh tế biển trong vòng vài thập kỷ trở lại đây đã và đang trở thành một mũi
nhọn trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của các quốc gia có ưu thế về biển.
Đối với Việt Nam là một quốc gia ven biển, có nhiều tiềm năng và điều kiện thuận
lợi trong việc phát triển đa dạng các ngành kinh tế biển thì việc tận dụng lợi thế đó
nhằm đưa Việt Nam từng bước "trở thành một quốc gia mạnh về biển, giàu lên từ
biển" ngày càng trở nên quan trọng.
Trong các ngành kinh tế biển chủ chốt thì ngành nuôi trồng thủy sản ở nước
ta trong những năm gần đây được đẩy mạnh phát triển nhờ có giá trị kinh tế cao, dựa
trên điều kiện tự nhiên thuận lợi cùng truyền thống kinh nghiệm lâu đời của người
dân, ngày càng đóng một vai trò quan trọng đối với sự phát triển kinh tế-xã hội của
đất nước và bảo vệ an ninh ven biển. Sản phẩm của nuôi trồng thủy sản trước hết
đảm bảo an toàn lương thực, đáp ứng nhu cầu thực phẩm cho nhân dân, tiếp đến là
góp phần tăng giá trị xuất khẩu, đóng góp đáng kể vào nền kinh tế đất nước (chiếm
3% GDP). Năm 2004, tổng sản lượng thuỷ sản của cả nước đạt khoảng 1.150.000
tấn với giá trị xuất khẩu gần 2.400 triệu USD, trong đó nuôi trồng thuỷ sản đóng góp
tới 40% sản lượng và 50% giá trị xuất khẩu. Kinh tế nuôi trồng thủy sản đang thu
hút ngày càng nhiều lao động tham gia, qua đó góp phần tạo việc làm và thu nhập
cho người dân. Hiện nay, nuôi trồng thủy sản ở nước ta không chỉ tập trung vào nuôi
nước ngọt mà đã hướng đến nuôi ở môi trường nước lợ và nuôi biển, trong đó hình
thức nuôi lồng bè với một số loài có giá trị kinh tế cao như: cá giò, cá song, tôm
hùm, vẹm xanh, trai ngọc, ốc hương… đang rất phổ biến và được phát triển dọc theo
bờ biển đất nước ở bất cứ vũng vịnh ven bờ nào có điều kiện thuận lợi.
Tuy nhiên, vấn đề quản lý môi trường ở những khu vực nuôi lồng trên biển
đang trở nên cấp thiết bởi nguy cơ ô nhiễm chất lượng nước từ các bè nuôi là rất cao.
Theo nhiều nghiên cứu thì biểu hiện rõ nhất về sự tác động đến môi trường đó là làm
gia tăng nồng độ các chất dinh dưỡng trong nước tự nhiên (do lượng vật chất hữu cơ
thải ra từ thức ăn và các sản phẩm bài tiết của đối tượng nuôi) gây ra sự biến đổi
quần xã sinh vật phù du và vi khuẩn dẫn đến hiện tượng phú dưỡng ở các thủy vực tự
nhiên ven biển, ảnh hưởng trực tiếp tới năng suất sinh học sơ cấp của thủy vực. Các
6
chất thải từ hoạt động nuôi, các hóa chất độc hại là những tác nhân chủ yếu làm
giảm đa dạng sinh học, gây độc cho đối tượng nuôi… Bên cạnh đó, sự lắng đọng
trầm tích gây ảnh hưởng tới dòng chảy và chất lượng nước, quá trình tích tụ quá
nhiều chất hữu cơ và chất thải tại đáy lồng bè sẽ dẫn đến tình trạng yếm khí, giải
phóng nhiều chất độc như H2S và CH4 vào trong môi trường nước.
Với những nguy cơ ô nhiễm môi trường rõ ràng như vậy thì việc đánh giá
chất lượng nước tại khu vực nuôi lồng bè phục vụ cho mục đích cảnh báo, quản lý và
xa hơn là phát triển bền vững môi trường nuôi trên biển là hết sức cần thiết. Một
trong những công cụ hữu hiệu được dùng phổ biến hiện nay đó là sử dụng các mô
hình sinh thái tổng hợp để nghiên cứu và đánh giá môi trường khu vực nuôi.
Với mục tiêu đó, học viên đã lựa chọn đề tài: "Sử dụng mô hình ECO Lab
đánh giá một số đặc trưng môi trường biển khu vực nuôi trồng thủy sản" trong đó có
dùng mô hình ECO Lab trong gói phần mềm MIKE của Viện Thủy lực Đan Mạch
để đánh giá chất lượng nước khu vực nuôi thủy sản biển dựa trên một số phương án
tính toán khác nhau. Khu vực được lựa chọn nghiên cứu ở đây là vịnh Vân Phong
(Nha Trang - Khánh Hòa). Vịnh Võn Phong hiện nay là một điểm núng kinh tế biển
của tỉnh Khỏnh Hũa núi riờng và của cả nước núi chung. Là một trong 8 vịnh ven bờ
biển Việt Nam gồm vịnh Hạ Long – Cỏi Lõn (Quảng Ninh); vịnh Vũng Áng (Hà
Tĩnh); vịnh Chõn Mõy (Thừa Thiờn Huế); vịnh Đà Nẵng (Đà Nẵng); vịnh Dung
Quất (Quảng Ngói) và cỏc vịnh Võn Phong, vịnh Nha Trang, vịnh Cam Ranh thuộc
tỉnh Khỏnh Hũa là những nơi tập trung tiềm năng tài nguyờn bờ chủ yếu, trong đú
chứa đựng sự đa dạng và phong phỳ về tiềm năng để phỏt triển cỏc ngành kinh tế
biển, đặc biệt là ngành nuụi trồng thủy sản truyền thống. Vịnh Võn Phong đó và
đang thu hỳt được nhiều dự ỏn đầu tư phỏt triển kinh tế của cả nhà nước và tư nhõn.
Sự phỏt triển nhanh về mặt kinh tế đó kộo theo sự thay đổi nhiều vấn đề mụi trường,
nguồn lợi tự nhiờn, phương thức sử dụng đất và cơ sở hạ tầng ven vịnh. Sự thay đổi
này làm phỏt sinh những yờu cầu bức xỳc trong cụng tỏc quản lý nhà nước về mụi
trường, tài nguyờn và sản xuất nhằm đảm bảo sự phỏt triển hài hũa và bền vững về
lõu dài. Trong đú ngành nuụi trồng thủy sản mà đặc biệt là nuụi trờn biển đang cú
7
những tỏc động nhất định về nhiều mặt (kinh tế - xó hội, tự nhiờn mụi trường trong
vịnh) đối với quỏ trỡnh quy hoạch sử dụng hợp lý khụng gian mặt nước trong vịnh.
Cấu trỳc của luận văn gồm 3 chương:
- Chương I: Tổng quan về điều kiện tự nhiờn, kinh tế - xó hội vịnh Võn
Phong
- Chương II: Mụ hỡnh ECO Lab – DHI MIKE
- Chương III: Cỏc kết quả tớnh toỏn chất lượng nước cho khu vực vịnh
Võn Phong
8
chương 1 - tổng quan về điều kiện tự nhiên,
kinh tế - xã hội vịnh vân phong
1.1. Vị trí địa lý [5], [7], [13]
Vịnh Vân Phong là một vịnh biển nửa kín, nằm ở phía Bắc tỉnh Khánh Hòa,
cách thành phố Nha Trang về phía bắc hơn 60km theo đường bộ. Vịnh Vân Phong
có tọa độ địa lý trong khoảng từ 12o26’ đến 12o48’N và từ 109o10’ đến 109o26’E,
nằm trong địa phận của huyện Vạn Ninh và một phần huyện Ninh Hòa.
Hình 1.1: Bản đồ khu vực vịnh Vân Phong [13]
Vân Phong là một vịnh lớn, sâu và kín gió. Vịnh có diện tích khoảng 510km2,
trong đó phần ngập nước là 458.6 km2, còn lại là các đảo và bán đảo trong đó lớn
nhất là đảo Hòn Lớn có diện tích 57.97km2. Ranh giới cửa vịnh kéo dài từ điểm cực
Nam của bán đảo Hòn Gốm đến mũi Mương của Hòn Mỹ Giang. Bán đảo Hòn Gốm
9
là điểm cực Đông của nước ta trên đất liền, chính vì vậy vịnh Vân Phong là khu vực
gần đường hàng hải quốc tế nhất so với các vịnh và cảng biển khác trong cả nước.
Từ vịnh tới đường hàng hải nội địa là 20km và cách đường hàng hải quốc tế 130km.
Vịnh Vân Phong thông với biển bằng 2 cửa: Cửa Bé xấp xỉ 2.8km (từ đầu
ngoài bán đảo Hòn Gốm đến Mũi Cỏ của đảo Hòn Lớn), Cửa Lớn khoảng 10.2km
(từ mũi Mương ở hòn Mỹ Giang đến Mũi Cỏ của đảo Hòn Lớn). Độ dài theo trục
vịnh khoảng 35km, chiều rộng trung bình 10km.
1.2. Địa hình ven bờ và địa hình đáy [5], [13]
Vùng ven bờ vịnh Vân Phong có một đặc điểm địa hình khá đặc biệt: hầu như
toàn bộ dải bờ phía Bắc, phía Tây và phía Nam của vịnh bị che chắn bởi các dãy núi.
Dãy núi phía Tây Bắc bờ vịnh chạy theo hướng Đông Bắc - Tây Nam, kéo dải
70km từ dãy núi Đa Bia (Phú Yên) ở phía Bắc cho tới phần Tây Bắc của Nha Trang.
Phía Đông Nam có dãy núi kéo dài khoảng 20km từ nam Hòn Khói tới phần Đông
Bắc của vịnh Bình Cang theo hướng Tây Bắc - Đông Nam. Phía Đông Bắc có bán
đảo Hòn Gốm và đảo Hòn Lớn che chắn vịnh, tạo cho vịnh có dạng nửa kín và thông
với biển Đông về phía Đông.
Về địa hình đáy, nhìn chung Vân Phong là một vịnh sâu so với các vịnh khác
trong khu vực ven biển Việt Nam. Địa hình đáy biển vùng vịnh Vân Phong mang
những nét đặc trưng của địa hình dạng vũng vịnh. Khu vực trung tâm vịnh tương đối
bằng phẳng ít có sự biến đổi, càng về phía cửa vịnh độ dốc càng lớn.
Bảng 1.1 : Phân bố diện tích theo đới độ sâu vùng vịnh Văn Phong [5]
STT Độ Sâu (m) Diện tích (ha)
1 0-5 19.870,0
2 5-10 7.660,84
3 10-15 6.313,85
4 15-20 5.508,74
5 20-25 6.820,30
6 25-30 1.508,54
7 30-35 511,12
10
Vịnh Vân Phong được chia thành 3 vùng nhỏ, đó là: phần vịnh phía ngoài (độ
sâu 20-30m), vũng Bến Gỏi ở phía trong (độ sâu < 18m) và phần vụng Cổ Cò - lạch
Cửa Bé (độ sâu < 25m) nằm giữa đảo Hòn Lớn và bán đảo Hòn Gốm.
Địa hình đáy vụng Bến Gỏi khá bằng phẳng, chỉ những nơi có san hô phát triển
thì đáy biển mới có sự gồ ghề, lồi lõm do vậy các đường đẳng sâu phân bố theo một
khoảng cách tương đối đồng đều gần như song song với nhau và với đường bờ.
Phần vụng lạch Cổ Cò – Cửa Bé có độ sâu tăng từ hai bờ ra giữa dòng, trắc
diện ngang hình chữ V có độ sâu lớn nhất đạt tới 25m.
0 20 40 60 80 100 120 140 160
0
20
40
60
80
100
120
140
160
180
VT.I
VT.II
VT.III
VT.IV
VT.V
VT.VI
VT.VII
(*250m)
(*
25
0m
)
Hoứn Lụựn
Myừ Giang
Hoứn Khoựi
B
.ẹ
. H
oứn G
oõm
ẹaùi Laừnh
VAẽN GIAế
H. Bũp
Vaùn Hửng
M. Gheành
M. ẹaự Chuoõng
Laùch C
ửỷa B
eự
VUẽNG
BEÁN GOÛI
VềNH
VAấN PHONG
Xuaõn Thoù
Ninh Haỷi
109-15'E 109-30'E
12-45'N
12-30'N
: ẹửụứng
ủaỳng saõu (m)
: Vũ trớ traùm
Hình 1.2: Đặc điểm địa hình đáy vịnh Vân Phong [13]
Khu vực vịnh Vân Phong phía ngoài tương đối bằng phẳng, tạo thành một
máng lớn, thoải với độ dốc khoảng 0 – 0.14% và nghiêng dần về phía cửa vịnh. Các
11
đường đẳng sâu có dạng ngoằn nghèo, uốn lượn, phân khoảng không đều. ở phía
Tây chúng dày xít và song song với đường bờ trong khi ở phía Đông các đường đẳng
sâu dãn ra nhưng mức độ ngoằn nghèo và uốn lượn lại tăng lên rõ rệt.
1.3. Đặc điểm khí tượng - thủy văn [5]
Điều kiện khí hậu thủy văn vịnh Vân Phong có nhiều đặc điểm mang tính địa
phương khá rõ nét và có sự phân hóa do ảnh hưởng của địa hình bờ, sự che chắn của
các đảo và dãy núi bao quanh. Do trong vịnh không có trạm khí tượng thủy văn nên
để tìm hiểu đặc điểm khí hậu - thủy văn trong vịnh cần tổng hợp các tài liệu của khu
vực Nha Trang kết hợp với các điều kiện địa phương.
1.3.1. Chế độ nhiệt
Nhiệt độ trung bình năm của khu vực vịnh là 26.7oC, tổng nhiệt toàn năm là
9600 - 9700oC. Số giờ nắng trung bình từ 7 - 8 giờ/ngày, cực đại có thể vượt quá 12
giờ và cả năm có thể đạt 200 - 2500 giờ. Đây là vùng có tháng có nhiệt độ cao nhất
là tháng 7 - 8 (trung bình 28-29oC), giá trị nhiệt độ cao nhất ghi nhận được vào
tháng 7/1976 là 37.9oC. Tháng có nhiệt độ thấp nhất là tháng I với giá trị thấp nhất
là 15.8oC vào năm 1984.
Bảng 1.2: Nhiệt độ không khí trung bình tháng và năm (oC) [2]
Tháng
Trạm
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 Nă
m
Nha
Trang
23.
9
24.
5
25.
8
27.
5
28.
6
28.
7
28.
5
28.
5
27.
7
26.
6
25.
7
24.
4
26.7
Biến trình năm của nhiệt độ không khí thuộc dạng biến trình đơn của của vùng
nhiệt đới gió mùa gồm một cực đại vào mùa hè và một cực tiểu vào mùa đông.
Hình 1.4: Biến
trình năm nhiệt độ
tại trạm Nha
Trang [5]
0
5
10
15
20
25
30
35
40
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12
T
(0
C
)
Thỏng
Ttb Txtb
12
1.3.2. Chế độ mưa - ẩm
Với sự tác động của các chế độ gió mùa thịnh hành, vịnh Vân Phong cũng có
thể chia thành mùa khô (từ tháng 3 đến tháng 5) và mùa mưa (từ tháng 9 – 11).
Trong mùa mưa, lượng mưa chiếm gần 80% tổng lượng mưa của cả năm và 60 – 80
số ngày mưa.
Khu vực vịnh Vân Phong là vùng ít mưa nhất của tỉnh Khánh Hòa. Tổng lượng
mưa bình quân năm vào khoảng 1100 – 1300 mm (năm mưa nhiều nhất 1981 đạt
2154.6 mm, năm mưa ít nhất 1982 với chỉ 618 mm). Số ngày mưa trung bình năm là
73 ngày, lượng mưa lớn nhất trong một ngày được ghi nhận là 486 mm (ngày
2/11/1986). Tháng có số ngày mưa nhiều nhất là tháng 10 với 22 ngày vào năm
1983, tháng có số ngày mưa ít nhất là tháng 2.
Độ ẩm trung bình năm ở Vân Phong đạt 80% với biến trình tương tự như biến
trình của chế độ mưa. Trong mùa mưa, độ ẩm tương đối cao, đạt từ 80 – 83%. Khi
kết thúc mùa mưa, độ ẩm giảm liên tục và đạt cực tiểu vào tháng 6 – 7, dao động
trong khoảng 74 – 77%.
0
50
100
150
200
250
300
350
400
I III V VII IX XI
Hình 1.5: Biến trình mưa trung bình tháng tại trạm Ninh Hòa [5]
1.3.3. Đặc điểm thủy văn
Khu vực vịnh Vân Phong có 3 con sông đổ vào, đó là: sông Đông Điền, sông
Cạn và sông Hiền Lương.
13
- Sông Đông Điền có chiều dài 15km, bắt nguồn từ đỉnh cao 806m, thượng
nguồn là suối Bình Trung, chảy theo hướng Tây Bắc - Đông Nam. Diện tích lưu vực
của sông là 83km2, thảm phủ nghèo nàn, khả năng điều tiết lưu vực kém.
- Sông Cạn bắt nguồn từ Hòn Dông, Hòn Giao với độ cao 840m, chảy theo
hướng Tây Bắc - Đông Nam có chiều dài 14km với diện tích lưu vực là 86km2.
- Sông Hiền Lương có độ dài 10km, đổ ra cửa Giã và cửa Hiền Lương.
Nhìn chung các con sông có lưu vực nhỏ, chế độ thủy văn phụ thuộc theo mùa.
Vào mùa mưa, lượng dòng chảy chiếm tới hơn 80% so với tổng lượng dòng chảy
của cả năm. Do diện tích lưu vực nhỏ và đất đá trên bề mặt có độ bền vững cao nên
lượng phù sa đưa ra biển không nhiều, lưu lượng sông đổ vào biển không ảnh hưởng
đến độ đục và chất lượng nước các bãi tắm, bãi lặn phục vụ du lịch cũng như nghề
nuôi trồng thủy sản.
1.4. Đặc điểm chế độ động lực biển vùng vịnh Vân Phong [5], [13]
1.4.1. Chế độ thủy triều
Thủy triều vùng vịnh Vân Phong mang đặc trưng là nhật triều không đều với tỷ
số phân loại VanderStoke K = 2.7, trong đó tính chất nhật triều thể hiện rõ hơn vào
tháng VI - VII, XII – I (hàng tháng có 18 – 22 ngày nhật triều). Biên độ triều cực
đại vào các kỳ hạ chí (tháng VI) và đông chí (tháng XII), cực tiểu vào thời kỳ xuân
phân (tháng III) và thu phân (tháng IX).
Theo số liệu về độ cao thủy triều trong 10 năm (1990 - 2000, phụ lục) thì giá
trị mực nước trung bình là 124cm. Biên độ triều vào kỳ nước cường có thể đạt 125 –
200cm, trong kỳ nước kém triều chỉ lên xuống khoảng 50cm. Trong năm, mực nước
đạt cực đại vào mùa gió Đông Bắc và đạt cực tiểu vào mùa gió Tây Nam, chênh lệch
mực nước giữa hai mùa gió vào khoảng 25 - 30cm. Trong trường hợp có trường gió
mạnh (>38.6m/s) thổi liên tục nhiều giờ thi biên độ dao động mực nước có thể đạt
60cm.
1.4.2. Chế độ sóng
Do có bán đảo và các đảo che chắn phía ngoài nên chế độ sóng vịnh Vân
Phong khác với chế độ sóng vùng ngoài khơi ven bờ tỉnh Khánh Hòa.
14
Vùng ven bờ khu vực vịnh Vân Phong có cầu tạo phức tạp, đường bờ bị chia
cắt mạnh bởi các đảo, bãi, cửa sông…Có vùng chịu tác động trực tiếp của năng
lượng sóng ngoài khơi, có nơi trước khi sóng tác dụng vào bờ phải trải qua các quá
trình khúc xạ, nhiễu xạ và biến dạng tạo nên sự hội tụ và phân kỳ năng lượng sóng
tùy theo trường gió và điều kiện địa lý từng vùng. Nhìn chung do kín gió nên vịnh
Vân Phong có chế độ sóng yếu, vào các mùa gió thì sóng có giá trị trung bình không
đến 1.0m.
Bảng 1.3: Hướng sóng và độ cao sóng trung bình tại vịnh Vân Phong
Tháng Hướng sóng thịnh hành Độ cao trung bình (m)
I – IV N – NE 0.9 – 1.0
V – IX WE 0.8 – 1.0
X – XII N – NE 0.9
Trong vịnh Vân Phong, đối với từng vùng riêng biệt có những đặc điểm sóng
khác nhau. ở vụng Bến Gỏi, sóng có thể lớn khi gió Tu Bông xuất hiện (thường từ
tháng XI đến tháng II năm sau). Vào mùa hè, tại cửa vịnh Vân Phong, hướng truyền
thuận lợi nhất là hướng Đông Nam.
1.4.3. Đặc điểm dòng chảy
Trong vịnh Vân Phong, dòng chảy bị phân hóa phức tạp cả về hướng và cường
độ, tốc độ dòng chảy trung bình nhỏ. Đây là nguyên nhân tạo nên sự lắng đọng bùn
cát ven bờ vịnh tạo nên các bãi triều ngập mặn và sự hình thành RNM ở ven bờ tây
bán đảo Hòn Gốm.
Dòng chảy trong vịnh phụ thuộc mạnh vào chế độ triều, địa hình đáy và bờ của
vịnh. Vùng ngoài cửa vịnh Vân Phong tốc độ dòng chảy có thể đạt 45cm/s. ở phần
lạch Cổ Cò, tốc độ thường dưới 30cm/s. Trong những trường hợp gió mạnh (bão, áp
thấp nhiệt đới, gió mùa Đông Bắc mạnh) tốc độ dòng có thể đạt trên 40cm/s với tốc
độ gió 20m/s.
Giá trị đặc trưng của tốc độ dòng chảy trong vùng dưới 25cm/s, còn thành
phần không triều thường là trên dưới 15cm/s. Tổng vecto của hai thành phần này
cho các giá trị tốc độ trong khoảng 10 – 40cm/s. Tốc độ dòng cực đại và dòng trung
bình tại các tầng mặt nhỏ hơn tầng sâu còn độ ổn định thì ngược lại.
15
Bảng 1.4: Tốc độ dòng chảy cực đại trong các vịnh tại một số tầng đo Z (m) [5]
Vịnh Vmax(cm/s) Z (m) Tháng
Nha Trang 52 20 XII
Cam Ranh 46 6.5 VIII
Bình Cang 29 13 XI
Nha Phu 34 0 XI
Vân Phong 45 30 VIII
C”a Giỳ
109 12' ẹ 109 15' ẹ 109 18' ẹ 109 21' ẹ 109 24' ẹ 109 27' ẹ
12
30'
B
12
33'
12
36'
12
39'
12
42'
12
45'
12
48'
12
51'
B
ẹaùi Laừnh
Vaùn ThoùVaùn Phửụực
Vaùn Long
Vaùn KhaựnhVaùn Bỡnh
Vaùn Thaộng
Vaùn Thaùnh
Vaùn Phuự
Xuaõn Sụn
Vaùn Hửng
Ninh Thoù
Ninh Haỷi
Ninh Dieõm
Ninh ThuyỷNinh ẹa
Ninh Phửụực
Ninh Phuự
BIEÅN ẹOÂNG
Cửỷa vũnh Vaõn Phong
Vaùn Giaừ
(I)
(II)
(IV)
(III)
20 - 50cm
/s
10 - 20m/s 5 - 25cm/s
3
- 1
5c
m
/s
3
-
1
5
cm
/s
Ghi chuự:
: Pha trieàu leõn
: Pha trieàu xuoỏng
I, II, III, IV : caực vuứng
doứng chaỷy
: ủửụứng phaõn vuứng
Hình 1.6: Sơ đồ phân vùng dòng chảy vùng vịnh Vân Phong - Bến Gỏi [13]
Theo nghiên cứu của Trung tâm Khảo sát nghiên cứu Tư vấn Môi trường Biển
thì trong khu vực vịnh có dòng bồi tích chảy dọc bờ theo hướng từ Bắc – Tây Bắc về
16
Nam – Tây Nam về gặp mũi Hòn Khói. Tuy nhiên, do đặc điểm che chắn của bán
đảo Hòn Khói nên sóng ở đây chỉ có độ cao < 1m, chu kỳ sóng 3 – 5 giây cùng với
thành phần vật liệu trầm tích đáy là cát hạt thô nên khả năng lắng đọng rất nhanh.
Bảng 1.5: Đặc trưng dòng chảy tại trạm đo liên tục (tọa độ 12o30N - 109o22)
Đặc trưng dòng chảy Tâng 10m Tâng 30m
Vmax (cm/s) 30 45
Vmin (cm/s) 4 2
Vtb (cm/s) 11.9 15.3
Hướng 84 34
1.5. Đặc điểm các yếu tố thủy hóa môi trường [5], [7], [10], [13]
1.5.1. Nhiệt độ nước biển
Trong vịnh Vân Phong, vùng có nhiệt độ cao nhất và độ muối thấp nhất so với
các vùng khác của vịnh là vùng ven bờ vũng Hòn Khói và vũng Bến Gỏi. Tại các
vùng này có độ sâu nhỏ, có các sông, suối từ lục địa trực tiếp đổ vào cùng với ảnh
hưởng của các hoạt động kinh tế phát triển mạnh nên khả năng nhiệt độ và độ muối
đạt tới các giá trị cực trị là một hiện tượng tư