Thế kỷ XXI là thế kỷ mà tri thức là yếu tố quyết định hàng đầu sự phát triển của một dân
tộc. Do đó, đòi hỏi giáo dục phải đào tạo những con người có khả năng đáp ứng được yêu cầu của
xã hội trong thời đại mới. Để thực hiện được nhiệm vụ trên Đảng và nhà nước đã chỉ rõ cần phải
đổi mới giáo dục mà trong đó đổi mới phương pháp dạy học là vấn đề hết sức cấp bách.
Hiện nay, với xu hướng đổi mới phương pháp dạy học cũng đã tạo ra nhiều chuyển đổi tích
cực, trong đó việc ứng dụng CNTT vào dạy học đã góp phần nâng cao chất lượng dạy và học. Việc
ứng dụng một số phần mềm vào dạy học vẫn còn ít, chỉ tập trung vào một số tiết dạy giỏi, tiết thao
giảng v.v Tình trạng giáo viên trình chiếu cả bài, chưa phối hợp nhuần nhuyễn các phương pháp
dạy học với các phương tiện dạy học, chưa đáp ứng được yêu cầu của đổi mới phương pháp dạy
học. Học sinh còn thụ động trong cách học do đó chưa tự lực giải quyết các vấn đề khó khăn trong
học tập cũng như trong cuộc sống. Vì vậy nhiệm vụ của người giáo viên là phải nghiên cứu và vận
dụng các phương pháp dạy học một cách tối ưu nhất không chỉ để cung cấp kiến thức mà quan
trọng hơn là phải đào tạo học sinh trở thành những con người có khả năng đáp ứng được những
yêu cầu phát triển của xã hội, có khả năng làm việc hợp tác, hoà nhập cộng đồng thế giới, giúp học
sinh tìm ra phương pháp học tập sáng tạo để các em có thể tự học suốt đời. Là một giáo viên đứng
lớp tôi nhận thức được rằng cần phải đổi mới phương pháp dạy học để rèn luyện cho học sinh
phương pháp học từ khi còn ngồi trên ghế nhà trường. Xuất phát từ những lý do trên, đã thôi thúc
tôi chọn đề tài nghiên cứu:
241 trang |
Chia sẻ: duongneo | Lượt xem: 1105 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Sử dụng phương pháp dạy học phức hợp có ứng dụng công nghệ thông tin để thiết kế bài giảng điện tử bộ môn hoá học ở trường THCS - Lớp 9, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH
Trần Thị Thu Trâm
SỬ DỤNG PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC PHỨC HỢP
CÓ ỨNG DỤNG CÔNG NGHỆ THÔNG TIN ĐỂ
THIẾT KẾ BÀI GIẢNG ĐIỆN TỬ BỘ MÔN HOÁ
HỌC Ở TRƯỜNG THCS - LỚP 9
Chuyên ngành: Lí luận và phương pháp dạy học Hoá học
Mã số: 60 14 10
LUẬN VĂN THẠC SĨ GIÁO DỤC HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. TRANG THỊ LÂN
Thành phố Hồ Chí Minh - 2008
LỜI CẢM ƠN
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến:
TS Trang Thị Lân đã tận tình giúp đỡ, đóng góp nhiều ý kiến quý báu
giúp tôi hoàn thành luận văn.
TS Trịnh Văn Biều và TS Lê Trọng Tín góp ý xây dựng đề cương luận văn
giúp tôi thực hiện thành công luận văn này.
Các thầy cô giáo giảng dạy lớp cao học khoá 16 chuyên ngành phương
pháp giảng dạy Hoá học đã truyền cho tôi nhiều kiến thức và kinh
nghiệm quý báu.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn đến ban giám hiệu, các thầy cô, các em học
sinh trường THPT Trương Vĩnh Ký, THCS Vân Đồn đã tạo điều kiện
giúp tôi hoàn thành luận văn.
Các thầy cô, anh chị công tác tại phòng khoa học công nghệ sau đại học
trường Đại học sư phạm thành phố Hồ Chí Minh đã tạo điều kiện tốt
nhất cho tôi trong suốt quá trình học tập.
Tôi xin cảm ơn gia đình đã giúp đỡ, động viên tôi trong suốt quá trình
tôi thực hiện luận văn.
Tp Hồ Chí Minh 7- 2008
Trần Thị Thu Trâm
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Thế kỷ XXI là thế kỷ mà tri thức là yếu tố quyết định hàng đầu sự phát triển của một dân
tộc. Do đó, đòi hỏi giáo dục phải đào tạo những con người có khả năng đáp ứng được yêu cầu của
xã hội trong thời đại mới. Để thực hiện được nhiệm vụ trên Đảng và nhà nước đã chỉ rõ cần phải
đổi mới giáo dục mà trong đó đổi mới phương pháp dạy học là vấn đề hết sức cấp bách.
Hiện nay, với xu hướng đổi mới phương pháp dạy học cũng đã tạo ra nhiều chuyển đổi tích
cực, trong đó việc ứng dụng CNTT vào dạy học đã góp phần nâng cao chất lượng dạy và học. Việc
ứng dụng một số phần mềm vào dạy học vẫn còn ít, chỉ tập trung vào một số tiết dạy giỏi, tiết thao
giảng v.vTình trạng giáo viên trình chiếu cả bài, chưa phối hợp nhuần nhuyễn các phương pháp
dạy học với các phương tiện dạy học, chưa đáp ứng được yêu cầu của đổi mới phương pháp dạy
học. Học sinh còn thụ động trong cách học do đó chưa tự lực giải quyết các vấn đề khó khăn trong
học tập cũng như trong cuộc sống. Vì vậy nhiệm vụ của người giáo viên là phải nghiên cứu và vận
dụng các phương pháp dạy học một cách tối ưu nhất không chỉ để cung cấp kiến thức mà quan
trọng hơn là phải đào tạo học sinh trở thành những con người có khả năng đáp ứng được những
yêu cầu phát triển của xã hội, có khả năng làm việc hợp tác, hoà nhập cộng đồng thế giới, giúp học
sinh tìm ra phương pháp học tập sáng tạo để các em có thể tự học suốt đời. Là một giáo viên đứng
lớp tôi nhận thức được rằng cần phải đổi mới phương pháp dạy học để rèn luyện cho học sinh
phương pháp học từ khi còn ngồi trên ghế nhà trường. Xuất phát từ những lý do trên, đã thôi thúc
tôi chọn đề tài nghiên cứu:
“Sử dụng phương pháp dạy học phức hợp có ứng dụng CNTT để thiết kế bài giảng điện tử bộ môn
hoá học ở trường THCS - Lớp 9”
2. Mục đích nghiên cứu
Thiết kế một số bài giảng điện tử thuộc chương trình Hoá học lớp 9 theo hướng đổi mới
phương pháp trong đó có ứng dụng CNTT và các phương pháp dạy học nhằm nâng cao hiệu quả
của bài lên lớp.
3. Nhiệm vụ đề tài
- Nghiên cứu cơ sở lý luận về phương pháp và phương tiện dạy học.
- Nghiên cứu lý luận về đổi mới phương pháp dạy học và đổi mới chương trình sách giáo khoa hoá
học THCS.
- Xây dựng bài giảng điện tử thuộc chương trình Hoá học lớp 9 có vận dụng phương pháp dạy học
phức hợp và phần mềm trình diễn PowerPoint
- Điều tra thực tiễn dạy và học Hoá học của GV và HS trong việc sử dụng bài giảng điện tử ở một
số trường THCS thuộc thành phố Hồ Chí Minh.
- Tiến hành thực nghiệm sư phạm để xác định hiệu quả của các bài giảng đã được thiết kế.
4. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
4.1. Khách thể nghiên cứu
- Quá trình dạy học Hoá học ở trường trung học cơ sở lớp 9.
4.2. Đối tượng nghiên cứu
- Bài giảng điện tử có sử dụng phương pháp dạy học phức hợp và phần mềm trình diễn
PowerPoint.
5. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp tổng kết lý luận
- Phương pháp phân tích, tổng hợp
- Phương pháp thực nghiệm sư phạm
- Điều tra
- Đánh giá, xử lý kết quả theo thống kê toán học
6. Điểm mới của luận văn
- Xây dựng hệ thống BGĐT thuộc chương trình hóa học lớp 9, theo định hướng đổi mới PPDH.
7. Gỉa thuyết khoa học
Nếu phối hợp các phương pháp dạy học và phương tiện dạy học một cách hợp lý trên BGĐT sẽ
góp phần nâng cao hiệu quả bài lên lớp, nâng cao chất lượng dạy và học bộ môn Hoá học.
Chương 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI
1.1. Lịch sử vấn đề nghiên cứu
- Ở các nước có nền giáo dục tiên tiến như: Anh, Pháp, Mỹ, Australiađã thừa nhận CNTT góp
phần rất lớn cho sự phát triển của giáo dục.
- Ở Việt Nam, việc ứng dụng CNTT đang được chú trọng nhằm nâng cao hiệu quả của quá trình
dạy học. Từ năm học 2005 – 2006 triển khai đại trà chương trình SGK Hoá học lớp 9, nhiều
trường đã khuyến khích giáo viên thiết kế BGĐT và nhiều tiết thao giảng của GV dạy bằng BGĐT
đã mang lại nhiều tác động tích cực.
- Tại trường cao đẳng sư phạm TP Hồ Chí Minh (nay là trường đại học Sài Gòn), năm học 2004-
2005 sinh viên Nguyễn Minh Nhì thực hiện đề tài:
“ỨNG DỤNG CNTT VÀO GIẢNG DẠY HOÁ HỌC Ở TRƯỜNG THCS”
Dưới sự hướng dẫn của cô Hoàng Thị Kim Ngọc.
Đề tài có 5 chương
Chương I: Đổi mới PPDH và vai trò của CNTT
Chương II: Giới thiệu các phần mềm tin học ứng dụng trong thiết kế BGĐT
Giới thiệu sơ lược về tác dụng và cách sử dụng phần mềm viết công thức hoá học, phần mềm trình
diễn hoá học, phần mềm chuyên dùng cắt phim và trích đoạn âm thanh.
Chương III: Kĩ năng thiết kế BGĐT
Cấu trúc BGĐT, những yêu cầu đối với BGĐT, quy trình thiết kế BGĐT, đặc biệt trình bày rất kĩ
phần mềm trình diễn Microsof Powerpoint
Chương IV: Ứng dụng các kiến thức tin học vào các bài giảng cụ thể trong chương trình Hoá 9 thí
điểm
Chương V: Triển khai thiết kế một số BGĐT Hoá 9 thí điểm (4 bài)
Nhận xét:
Luận văn nói rõ cách sử dụng một số phần mềm ứng dụng, đặc biệt là phần mềm trình diễn
Microsoft Powerpoint. Tác giả đã vận dụng để thiết kế BGĐT hoá 9 chương trình thí điểm.Tuy
nhiên, số BGĐT được thiết kế còn ít (4 bài), chưa thể hiện các hoạt động của GV và HS. Luận văn
không đề cập tới việc phối hợp các PPDH và PTDH khi giảng dạy bằng BGĐT.
1.2. Cơ sở lý luận về phương pháp dạy học
1.2.1. Định nghĩa phương pháp dạy học
- Dạy học là một hoạt động rất phực tạp, do đó PPDH cũng rất phức tạp và đa dạng. Hiện nay chưa
có một định nghĩa thống nhất về phương pháp dạy học.
Theo giáo sư Nguyễn Ngọc Quang: “Phương pháp dạy học là cách thức làm việc của thầy và của
trò trong sự phối hợp thống nhất dưới sự chỉ đạo của thầy nhằm làm cho trò tự giác, tích cực, tự
lực đạt tới mục đích học tập” [16, tr. 69]
- Nhiều tác giả coi PPDH là “tổ hợp các cách thức hoạt động” của thầy và của trò trong quá trình
dạy học được tiến hành dưới vai trò chủ đạo của thầy, nhằm thực hiện tốt các nhiệm vụ dạy học.
- Trong một số tài liệu, các tác giả nhấn mạnh và nêu cụ thể mục đích dạy học ngay khi giới thiệu
định nghĩa: PPDH là cách thức, con đường hoạt động của thầy và trò dười sự chỉ đạo của thầy,
nhằm làm cho trò nắm vững kiến thức, kĩ năng và kĩ xảo phát triển năng lực nhận thức, hình thành
thế giới quan khoa học và nhân sinh quan xã hội chủ nghĩa.
1.2.2. Tính chất của PPDH
1.2.2.1. Tính chất chung của PPDH
- Phương pháp dạy học gồm hai mặt: mặt khách quan gắn liền với đối tượng của phương pháp và
điều kiện dạy học; mặt chủ quan gắn với chủ thể sử dụng phương pháp. [2, tr. 7]
- Phương pháp dạy học là một phương pháp kép, là sự tổ hợp của hai phương pháp: phương pháp
dạy và phương pháp học. Hai phương pháp này có tương tác chặt chẽ với nhau trong đó học sinh
vừa là đối tượng của hoạt động dạy vừa là chủ thể của hoạt động học.
- PPDH chịu sự chi phối của mục đích dạy học và nội dung dạy học.
- PPDH có tính đa cấp: [2, tr. 7]
+ Ở cấp độ vĩ mô (khái quát)
PPDH đại cương.
PPDH ứng với các bậc học, cấp học.
PPDH ứng với các loại hình trường
PPDH ứng với từng môn học
+ Ở cấp độ vi mô
PPDH ứng với từng bài học, từng nội dung cụ thể.
- PPDH luôn có tính khái quát, ổn định tương đối và luôn biến đổi. tính độc lập, ổn định tương đối
ở cấp độ vĩ mô; tính phụ thuộc, luôn biến đổi ở câp độ vi mô.
1.2.2.2. Đặc trưng riêng của phương pháp dạy học hóa học
PPDH hóa học một mặt phải tuân theo những quy luật chung của PPDH, đồng thời tất cả
những tính chất và chức năng của phương pháp khoa học nói chung đều phải được phản ánh vào
trong bản chất của PPDH hóa học.
Tuy nhiên, nó còn có những nét đặc trưng riêng mà các PPDH các bộ môn khác không có, đó là:
- Trong dạy học hóa học, thí nghiệm là một phương tiện không thể thiếu được. Thí nghiệm có ý
nghĩa to lớn và giữ vai trò cơ bản trong việc thực hiện những nhiệm vụ của việc dạy học hóa học.
Đặc biệt, khi bắt đầu học hóa học thì việc dạy học phải xuất phát từ trực quan sinh động, từ đó đi
tới việc hình thành các khái niệm trừu tượng.
- Trong dạy học hóa học, chúng ta buộc phải dùng những mô hình cụ thể ở kích thước vĩ mô để
diễn tả cấu tạo phân tử các chất và cơ chế của các phản ứng hóa học, dựa trên những biểu hiện bên
ngoài của chúng để giúp học sinh suy ra tính chất các chất. Giáo viên phải sử dụng các phương
tiện trực quan (hình vẽ, mô hình...) khi đề cập tới những vấn đề mà học sinh không thể quan sát
trực tiếp bằng mắt thường.
- Các học thuyết định luật có vai trò rất lớn trong dạy học hóa học
- Định luật tuần hoàn- hệ thống tuần hoàn và các kiến thức về cấu tạo chất (thuyết nguyên tử, phân
tử, thuyết cấu tạo nguyên tử, thuyết cấu tạo phân tử, thuyết cấu tạo hóa học...) là lý thuết chủ đạo
của hệ thống kiến thức hóa học.
- Bài tập hóa học là một phương pháp học tập tích cực đối với học sinh, là công cụ để củng cố,
khắc sâu và mở rộng kiến thức.
- Hóa học là bộ môn có nhiều ứng dụng trong đời sống. Gắn liền giảng dạy hóa học với thực tiễn
cuộc sống sẽ làm cho học sinh yêu thích môn hóa học, là một trong những nhiệm vụ của việc dạy
học hóa học ở trường phổ thông.
1.2.3. Một số PPDH cơ bản
PPDH cơ bản là những PPDH được sử dụng một cách rộng rãi, phổ biến, ổn định qua nhiều giai
đoạn của quá trình dạy học, và thích hợp với nhiều kiểu nội dung trí dục, với nhều môn học khác
nhau. PPDH cơ bản có thể được sử dụng như hạt nhân cốt lõi để thiết kế những phương pháp mới,
riêng lẽ hoặc liên kết với nhau thành những tổ hợp.
PPDH cơ bản hoặc PPDH truyền thống bao gồm: phương pháp thuyết trình, phương pháp thí
nghiệm, phương pháp đàm thoại, phương pháp nghiên cứu, bài toán.
PPDH cơ bản là những PPDH sơ đẳng (chưa biến hóa), ổn định được dùng phổ biến và rộng rãi,
có thể dùng để liên kết thành những biến dạng khác nhau và những tổ hợp PPDH phức hợp.[16, tr.
68]
1.2.3.1. Phương pháp thuyết trình
Phương pháp thuyết trình bao gồm các dạng cơ bản của nó là giảng thuật (trần thuật), giảng giải và
giảng diễn. Dạng đơn giản của thuyết trình là thuyết trình thông báo tái hiện khi nghiên cứu tài
liệu mới và thường được sử dụng trong nhà trường.
Đặc điểm cơ bản của phương pháp thuyết trình là tính chất thông báo của lời giảng của thầy và
tính chất tái hiện sau khi lĩnh hội của trò. Học sinh chỉ nghe, nhìn, cùng tư duy theo lời giảng của
giáo viên, hiểu ghi nhớ kiến thức.
1.2.3.2. Thí nghiệm hóa học
Hóa học là môn khoa học thực nghiệm. Do đó trong dạy học hóa học ở trường phổ thông thí
nghiệm giữ vai trò hết sức quan trọng trong quá trình nhận thức. Nó giữ vai trò cơ bản trong việc
thực hiện các nhiệm vụ của việc dạy học hóa học vì những lý do sau: [16, tr. 98]
- Thí nghiệm giúp học sinh hiểu bài và hiểu bài sâu sắc. Thí nghiệm là cơ sở là xuất phát điểm cho
quá trình học tập- nhận thức của học sinh.
- Thí nghiệm giúp nâng cao lòng tin của học sinh vào khoa học và phát triển tư duy của học sinh.
Thí nghiệm là cầu nối giữa lý thuyết và thực tiễn, là tiêu chuẩn đánh gía tính chân thực của kiến
thức, hỗ trợ đắc lực cho tư duy sáng tạo. Nó là phương tiện duy nhất giúp hình thành ở học sinh kĩ
năng, kĩ xảo thực hành và tư duy kĩ thuật.
- Thí nghiệm do tự tay giáo viên làm, các thao tác rất mẫu mực sẽ là thao tác cho học trò học tập
cách làm thí nghiệm. Do đó thí nghiệm do giáo viên làm giúp học sinh hình thành kĩ năng thí
nghiệm đầu tiên cho học sinh.
- Giúp học sinh hứng thú học tập.
- Thí nghiệm được dùng trong tất cả các khâu của quá trình dạy học. Thí nghiệm biểu diễn của
giáo viên được dùng trong nghiên cứu tài liệu mới, hoặc trong khâu hoàn thiện kiến thức. Thí
nghiệm giữ vai trò như một bài toán dùng để kiểm tra kiến thức, kĩ năng, kĩ xảo khi giáo viên biểu
diễn thí nghiệm rồi buộc học sinh giải thích hiện tượng thí nghiệm.
- Thí nghiệm của học sinh được dùng khi nghiên cứu tài liệu mới, khi củng cố kiến thức và để
kiểm tra kiến thức, kĩ năng, kĩ xảo.
- Thí nghiệm hoá học là phương tiện trực quan chủ yếu, có vai trò quyết định trong quá trình dạy
học hoá học.
* Các hình thức thí nghiệm ở trường phổ thông [19, tr. 19]
1. Thí nghiệm biểu diễn bởi giáo viên
2. Thí nghiệm do học sinh làm
Thí nghiệm khi học sinh học bài mới
Thí nghiệm khi học sinh thực hành trong phòng thí nghiệm
Thí nghiệm học sinh làm ở nhà
1.2.3.3. Đàm thoại phát hiện (phương pháp vấn đáp tìm tòi) [3, tr. 137]
Vấn đáp tìm tòi là phương pháp trao đổi giữa giáo viên và học sinh, trong đó giáo viên nêu ra hệ
thống câu hỏi “dẫn dắt” gắn bó logic với nhau để học sinh suy lí, phán đoán, quan sát, tự đi tới kết
luận và qua đó lĩnh hội kiến thức.
* Đặc điểm
Thầy tổ chức sự trao đổi giữa giáo viên và cả lớp, có khi giữa trò với nhau, qua đó học sinh lĩnh
hội kiến thức
Trong phương pháp đàm thoại phát hiện có yếu tố tìm tòi, nghiên cứu của học sinh. Giáo viên
giống như người tổ chức, còn trò có vẻ như người phát hiện. Vì thế, khi kết thúc đàm thoại trò có
vẻ như tự lực tìm ra chân lý và chính vì thế đã tạo ra cho trò niềm vui sướng của nhận thức
Hệ thống câu hỏi mang tính chất nêu vấn đề để tạo nên nội dung trí dục chủ yếu của bài học là
nguồn kiến thức và là mẫu mực của cách giải quyết một vấn đề nhận thức. Thông qua phương
pháp này học sinh không những lĩnh hội được nội dung trí dục mà còn học được cả phương pháp
nhận thức và cách diễn đạt tư tưởng bằng lời nói.
1.2.3.4. Phương pháp nghiên cứu
Giáo viên nêu lên vấn đề cần nghiên cứu, giải thích rõ mục đích cần đạt tới, có thể vạch ra phương
hướng giả quyết vấn đề. Học sinh dưới sự hướng dẫn của giáo viên có thể đề ra giả thuyết, định ra
phương hướng và kế hoạch nghiên cứu, học sinh trực tiếp tác động vào đối tượng nghiên cứu và
nhờ đó mà lĩnh hội kiến thức.
Đây là phương pháp có giá trị đức dục to lớn trong việc dạy học. Nó giáo dục cho học sinh tư duy
tự lực, sáng tạo, kĩ năng tìm tòi sáng chế và những kiến thức vững chắc, phong phú cả về lý thuyết
lẫn thực tiễn
1.2.3.5. Bài toán hóa học [16, tr. 121]
Lý luận dạy học coi bài toán là một PPDH cụ thể. Nó được áp dụng phổ biến và thường xuyên ở
tất cả các cấp học và các loại trường khác nhau.
Nó được sử dụng ở tất cả các khâu của quá trình dạy học: nghiên cứu tài liệu mới, củng cố, vận
dụng, khái quát hóa, hệ thống hóa và kiểm tra – đánh giá kiến thức, kĩ năng, kĩ xảo của học sinh.
Nó thuộc nhóm các công tác tự lực của học sinh và có thể là đề tài chính của phương pháp nghiên
cứu.
Bài toán, đặc biệt là bài toán ơrixtic, là phương pháp chính yếu, chủ đạo của dạy học nêu vấn đề
ơrixtic, một trong ba kiểu cơ bản của PPDH.
1.2.4. Phương pháp dạy học phức hợp [16]
1.2.4.1 Khái niệm phương pháp dạy học phức hợp
Một trong những xu hướng đổi mới PPDH hiện nay là sáng tạo ra các PPDH mới bằng cách liên
kết nhiều PPDH và phương tiện dạy học thành tổ hợp PPDH phức hợp nhằm nâng cao chất lượng
dạy học trong nhà trường phổ thông.
Tổ hợp PPDH phức hợp không phải là một phương pháp đơn lẽ, mà là sự phối hợp biện chứng của
một số phương pháp (và phương tiện) dạy học, trong đó một yếu tố giữ vai trò nồng cốt trung tâm,
liên kết các yếu tố khác còn lại thành một hệ thống nhất về phương pháp, nhằm tạo ra hiệu ứng
tích hợp và cộng hưởng về phương pháp của toàn hệ, nâng cao chất lượng lĩnh hội lên nhiều lần.
Như trong dạy học nêu vấn đề -ơrixtic đó là bài toán ơrixtic; trong dạy học bằng grap - đó là grap
nội dung dạy học. Cũng có khi hạt nhân trung tâm là một phương tiện kĩ thuật dạy học (như máy
tính điện tử).
1.2.4.2. Các PPDH phức hợp
1.2.4.2.1. Dạy học nêu vấn đề - ơrixtic
Bản chất của dạy học nêu vấn đề orixtic
Dạy học nêu vấn đề- ơrixtic không phải là một PPDH cụ thể đơn nhất. Nó là một tập hợp nhiều
PPDH, có thể cả phương tiện dạy học, liên kết chặt chẽ và tương tác bó với nhau , trong đó
phương pháp xây dựng bài toán ơrixtic giữ vai trò trung tâm chủ đạo, gắn bó các PPDH khác trong
tập hợp lại thành một hệ toàn vẹn.
Dạy học nêu vấn đề - ơrixtic có khả năng thâm nhập vào hầu hết các PPDH khác làm cho tính chất
của chúng trở nên tích cực hơn.
Cách xây dựng tình huống có vấn đề trong dạy học hóa học
Nguyên tắc chung làm xuất hiện tình huống có vấn đề trong dạy học là: dựa vào sự không phù hợp
giữa kiến thức đã có của học sinh với yêu cầu đặt ra cho họ khi giải quyết nhiệm vụ mới.
Trên nguyên tắc đó, có thể nêu ra ba cách tạo ra tình huống có vấn đề, đó cũng là ba kiểu tình
huống có vấn đề cơ bản trong dạy học hóa học
Cách 1:
Có thể tạo ra tình huống có vấn đề khi kiến thức học sinh đã có không phù hợp (không đáp ứng
được) với đòi hỏi của nhiệm vụ học tập hoặc thực nghiệm. Ở đây có thể xuất hiện tình huống
không phù hợp (cũng là tình huống khủng hoảng, bế tắc) hoặc tình huống bất ngờ (cũng là tình
huống ngạc nhiên). Có thể algorit hóa quá trình tạo tình huống có vấn đề theo cách này theo ba
bước sau:
Bước 1: Tái hiện kiến thức cũ có liên quan bằng cách cho học sinh nêu lên một kết luận, một quy
tắc ... đã học.
Bước 2: Đưa ra hiện tượng (có thể làm thí nghiệm hoặc nêu ra một hiện tượng, một kinh nghiệm,
mâu thuẫn hoặc trái hẳn với kết luận vừa được nhắc lại, điều đó sẽ gây ra sự ngạc nhiên.
Bước 3: Phát biểu vấn đề
Đi tìm nguyên nhân sự mâu thuẫn và giải thích hiện tượng lạ đó.
Cách thứ hai
Có thể tạo ra tình huống có vấn đề khi học sinh lựa chọn trong những con đường có thể có một con
đường duy nhất bảo đảm được việc giải quyết nhiệm vụ đặt ra. Khi đó xuất hiện tình huống lựa
chọn hay tình huống bác bỏ.
Cách thức 3:
Có thể tạo ra tình huống có vấn đề khi học sinh phải tìm đường ứng dụng kiến thức trong học tập,
trong thực tiễn hoặc tìm lời giải đáp cho câu hỏi “tại sao”.
Lúc này xuất hiện tình huống vận dụng hoặc tình huống tại sao.
Câu hỏi nêu vấn đề
Câu hỏi nêu vấn đề phải chứa đựng một mâu thuẫn nhận thức, kích thích sự suy nghĩ tìm tòi của
học sinh, phải chứa đựng phương hướng giải quyết vấn đề, thu hẹp phạm vi tìm kiếm câu trả lời,
phải phản ánh được tâm trạng ngạc nhiên của học sinh khi nhận ra mâu thuẫn nhận thức, khi đụng
chạm tới vấn đề.
Các mức độ của việc dạy học giải quyết vấn đề
Mức độ học sinh tham gia và giải quyết vấn đề học tập ít hay nhiều sẽ xác định mức độ thấp hay
cao của việc dạy học giải quyết vấn đề trong học tập. Tùy theo trình độ của học sinh, có thể thực
hiện dạy học nêu vấn đề theo các mức độ sau:
- Mức độ thứ nhất: giáo viên thực hiện toàn bộ quy trình: đặt vấn đề, phát biểu vấn đề, giải quyết
vấn đề. Đó là phương pháp thuyết trình có vấn đề.
- Mức độ thứ hai: giáo viên đặt vấn đề và phát biểu vấn đề, học sinh giải quyết vấn đề.
- Mức độ thứ ba: giáo viên đặt vấn đề, học sinh phát biểu và giải quyết vấn đề.
- Mức độ thứ tư: giáo viên tổ chức hướng dẫn cho học sinh tự đặt vấn đề, phát biể