Ngày nay, khi vai trò của nguồn nhân lực đang ngày càng được thừa nhận 
như một yếu tố quan trọng bên cạnh vốn và công nghệ cho mọi sự tăng trưởng thì 
một trong những yêu cầu để hoà nhập vào nền kinh tế khu vực cũng như thế giới 
là phải có được một nguồn nhân lực có đủ sức đáp ứng được những yêu cầu của 
trình độ phát triển của khu vực, của thế giới, của thời đại.
Nguồn nhân lực là toàn bộ những người lao động đang có khả năng tham 
gia vào các quá trình lao động và các thế hệ nối tiếp sẽ phục vụ cho xã hội.
Nguồn nhân lực với tư cách là một yếu tố của sự phát triển kinh tế-xã hội 
là khả năng lao động cả xã hội được hiểu theo nghĩa hẹp hơn, bao gồm nhóm dân 
cư trong độ tuổi lao động có khả năng lao động. Với cách hiểu này nguồn nhân 
lực tương đương với nguần lao động.
Nguồn nhân lực còn có thể hiểu là tổng hợp cá nhân những con người cụ 
thể tham gia vào quá trình lao động, là tổng thể các yếu tố về thể chất và tinh 
thần được huy động vào quá trình lao động. Với cách hiểu này nguồn nhân lực 
bao gồm những người từ giới hạn dưới độ tuổi lao động trở lên.
Nguồn nhân lực được xem xét trên giác độ số lượng và chất lượng. Số 
lượng nguồn nhân lực được biểu hiện thông qua các chỉ tiêu quy mô và tốc độ 
tăng nguồn nhân lực. Các chỉ tiêu này có quan hệ mật thiết với chỉ tiêu quy mô 
và tốc độ tăng dân số. Quy mô dân số càng lớn, tốc độ tăng dân số càng cao thì 
dẫn đến quy mô và tốc độ tăng nguồn nhân lực càng lớn và ngược lại. Tuy nhiên, 
mối quan hệ dân số và nguồn nhân lực được biểu hiện sau một thời gian nhất 
định (vì đến lúc đó con người muốn phát triển đầy đủ, mới có khả năng lao 
động).
                
              
                                            
                                
            
 
            
                 26 trang
26 trang | 
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 1941 | Lượt tải: 3 
              
            Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Sự phát triển nguồn nhân lực - Vai trò của nó với sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và với nền kinh tế tri thức tại nước ta - Thực trạng và thách thức, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN: 
Sự phát triển nguồn nhân lực - vai trò của 
nó với sự nghiệp CNH - HĐH và với nền 
kinh tế tri thức ở nước ta. Thực trạng và 
thách thức 
I. Khái niệm nguồn nhân lực 
Ngày nay, khi vai trò của nguồn nhân lực đang ngày càng được thừa nhận 
như một yếu tố quan trọng bên cạnh vốn và công nghệ cho mọi sự tăng trưởng thì 
một trong những yêu cầu để hoà nhập vào nền kinh tế khu vực cũng như thế giới 
là phải có được một nguồn nhân lực có đủ sức đáp ứng được những yêu cầu của 
trình độ phát triển của khu vực, của thế giới, của thời đại. 
Nguồn nhân lực là toàn bộ những người lao động đang có khả năng tham 
gia vào các quá trình lao động và các thế hệ nối tiếp sẽ phục vụ cho xã hội. 
Nguồn nhân lực với tư cách là một yếu tố của sự phát triển kinh tế-xã hội 
là khả năng lao động cả xã hội được hiểu theo nghĩa hẹp hơn, bao gồm nhóm dân 
cư trong độ tuổi lao động có khả năng lao động. Với cách hiểu này nguồn nhân 
lực tương đương với nguần lao động. 
Nguồn nhân lực còn có thể hiểu là tổng hợp cá nhân những con người cụ 
thể tham gia vào quá trình lao động, là tổng thể các yếu tố về thể chất và tinh 
thần được huy động vào quá trình lao động. Với cách hiểu này nguồn nhân lực 
bao gồm những người từ giới hạn dưới độ tuổi lao động trở lên. 
Nguồn nhân lực được xem xét trên giác độ số lượng và chất lượng. Số 
lượng nguồn nhân lực được biểu hiện thông qua các chỉ tiêu quy mô và tốc độ 
tăng nguồn nhân lực. Các chỉ tiêu này có quan hệ mật thiết với chỉ tiêu quy mô 
và tốc độ tăng dân số. Quy mô dân số càng lớn, tốc độ tăng dân số càng cao thì 
dẫn đến quy mô và tốc độ tăng nguồn nhân lực càng lớn và ngược lại. Tuy nhiên, 
mối quan hệ dân số và nguồn nhân lực được biểu hiện sau một thời gian nhất 
định (vì đến lúc đó con người muốn phát triển đầy đủ, mới có khả năng lao 
động). 
 Khi tham gia vào các quá trình phát triển kinh tế-xã hội, con người đóng 
vai trò chủ động, là chủ thể sáng tạo và chi phối toàn bộ quá trình đó, hướng nó 
tới mục tiêu nhất định. Vì vậy, nguồn nhân lực không chỉ đơn thuần là số lượng 
lao động đã có và sẽ có mà nó còn phải bao gồm một tổng thể các yếu tố thể lực, 
trí lực, kỹ năng làm việc, thái độ và phong cách làm việc... tất cả các yếu tố đó 
ngày nay đều thuộc về chất lượng nguồn nhân lực và được đánh giá là một chỉ 
tiêu tổng hợp là văn hoá lao động. Ngoài ra, khi xem xét nguồn nhân lực, cơ cấu 
của lao động-bao gồm cả cơ cấu đào tạo và cơ cấu ngành nghề cũng là một chỉ 
tiêu rất quan trọng. 
Cũng giống như các nguần lực khác, số lượng và đặc biệt là chất lượng 
nguồn nhân lực đóng vai trò hết sức quan trọng trong việc tạo ra của cải vật chất 
và tinh thần cho xã hội. 
Để đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế và nhu cầu sử dụng lao động, những 
người lao động phải được đào tạo, phân bổ và sử dụng theo cơ cấu hợp lý, đảm 
bảo tính hiệu quả cao trong sử dụng. Một quốc gia có lực lượng lao động đông 
đảo, nhưng nếu phân bổ không hợp lý giữa các ngành, các vùng, cơ cấu đào tạo 
không phù hợp với nhu cầu sử dụng thì lực lượng lao động đông đảo đó không 
những không trở thành nguần lực để phát triển mà nhiều khi còn là gánh nặng 
cản trở sự phát triển. 
vai trò của nó với sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá và với nền 
kinh tế tri thức ở nước ta. 
Ngày nay, trước sự phát triển như vũ bão của cuộc cách mạng khoa học 
công nghệ và thông tin, sự giao lưu trí tuệ và tư tưởng liên minh kinh tế giữa các 
khu vực trên thế giới. Sự ra đời của nhiều công ty xuyên quốc gia đã tạo ra tốc độ 
tăng trưởng kinh tế chưa từng thấy. Tình hình đó đã dẫn đến sự quốc tế hoá kinh 
tế thế giới, gây nên những đảo lộn về chính trị xã hối sâu sắc mang tính toàn cầu 
và đang đi đến thiết lập một trật tự thế giới mới. Trong bối cảnh đó, khu vực châu 
á-Thái Bình Dương đang nổi lên là khu vực kinh tế năng động nhất. Một trong 
những yếu tố chủ chốt thúc đẩy tăng trưởng kinh tế nhanh chóng là vai trò của 
nguồn nhân lực. 
Nền kinh tế tri thức là kinh tế dựa trên các trụ cột chủ yếu là công nghệ 
thông tin, công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu mới... Để có được nền kinh tế 
tri thức cần phải xây dựng cơ sở hạ tầng vững chắc để phát triển khoa học công 
nghệ, đặc biệt là công nghệ thông tin; đồng thời phải đầu tư cho phát triển giáo 
dục đào tạo. hay nói cách khác phải đầu tư cho phát triển nguồn nhân lực. Suy 
cho cùng tri thức là hệ quả, là tất yếu của sự phát triển nguồn nhân lực. Các nước 
muốn phát triển nền kinh tế tri thức cần phải đầu tư cho phát triển con người mà 
cốt lõi là phát triển giáo dục và đào tạo,đặc biệt là đầu tư phát triển nhân tài. Nhà 
kinh tế học người Mỹ, ông Garry Becker-người được giải thưởng Nobel về kinh 
rế năm 1992, đã khẳng định:''không có đầu tư nào mang lại nguần lợi lớn như 
đầu tư cho giáo dục’’ (Nguồn: The Economist 17/10/1992). Nhờ có sự đầu tư cho 
phát triển nguồn nhân lực mà nhiều nước chỉ trong một thời gian ngắn đã nhanh 
chóng trở thành nước công nghiệp phát triển. 
Việt nam là nước đang phát triển có lực lượng sản xuất ở trình độ thấp, 
nền kinh tế tri thức đối với Việt Nam là khái niệm hoàn toàn mới mẻ. Do vậy, có 
ý kiến cho rằng nền kinh tế tri thức đối với Việt Nam hiện nay quá xa và không 
hiện thực; cho rằng Việt Nam phải xây dựng xong CNH, HĐH để làm tiền đề 
cho kinh tế tri thức ra đời và phát triển, kinh tế tri thức không chỉ bao gồm các 
ngành mới xuất hiện dựa trên công nghệ cao, mà còn cả các ngành truyền thống 
được cải tạo bằng khoa học công nghệ cao. Do đó không nên chờ cho đến khi sự 
nghiệp CNH, HĐH kết thúc mới tiến hành xây dựng kinh tế tri thức, mà ngay 
trong giai đoan này, để phát triển và theo kịp các nước trên thế giới, chúng ta 
phải đồng thời quan tâm tới những lĩnh vực mà chúng ta có thể tiếp cận. 
Đối với Việt Nam, một đất nước nông nghiệp, rõ dàng chúng ta không thể 
xây dựng và phát triển nền kinh tế tri thức như các nước công nghiệp phát triển. 
Thực ra đó là sự tiếp tục quá trình CNH, HĐH đất nước ở một trình độ cao hơn, 
dựa trên chất xám của con người. Mặt khác do xuất phát điểm của lực lượng sản 
xuất của ta thấp, mà tiếp cận kinh tế tri thức ở Việt Nam phải phù hợp với điều 
kiện của Việt Nam, tức mang những đặc thù của mình. Do đó việc xác định nội 
dung các ngành kinh tế trong quá trình CNH, HĐH, chuẩn bị các điều kiện vật 
chất và con người để tiếp cận kinh tế tri thức trở thành nhiệm vụ quan trọng hàng 
đầu của mọi cấp, mọi ngành, nhất là các cấp hoạch định chiến lược. Trong việc 
chuẩn bị ấy việc nghiên cứu thực trạng mạnh, yếu và tìm ra giải pháp phát triển 
nguồn nhân lực là quan trọng và cấp bách nhất trong giai đoạn hiện nay. 
Theo kinh nghiệm của nhiều nước thì nếu chỉ có lực lượng lao động đông 
và rẻ thì không thể tiến hành công nghiệp hoá, mà đòi hỏi phải có một đội ngũ 
lao động có trình độ chuyên môn cao. Chính nhờ lực lượng lao động có trình độ 
chuyên môn cao mà Nhật Bản và các nước Nics (các nước công nghiệp mới) vận 
hành có hiệu quả công nghệ nhập khẩu hiện đại, sản xuất ra nhiều mặt hàng có 
sức cạnh tranh cao với các nước công nghiệp phát triển trên thế giới. 
Để đảm bảo thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá 
đất nước, phải bồi dưỡng và phát huy nhân tố con người. Với tư cách là mục tiêu 
và động lực phát triển, con người có vai trò to lớn không những trong đời sống 
kinh tế mà còn trong lĩnh vực hoạt động khác. Bởi vậy phải quan tâm, nâng cao 
chất lượng con người, không chỉ với tư cách là người lao động sản xuất, mà với 
tư cách là công dân trong xã hội, một cá nhân trong tập thể, một thành viên trong 
cộng đồng nhân loại... không thể thực hiện được công nghiệp hoá, hiện đại hoá 
nếu không có đội ngũ đông đảo những công nhân lành nghề, những nhà khoa học 
kỹ thuật tài năng, giỏi chuyên môn nghiệp vụ, những nhà doanh nghiệp tháo vát, 
những nhà lãnh đạo, quản lý tận tuỵ, biết nhìn xa trông rộng. 
Vào những năm 80, quan điểm phát triển nguồn nhân lực đã trở thành vấn 
đề quan tâm đặc biệt ở châu á-Thái Bình Dương. Con người được coi là yếu tố 
quan trọng nhất của sự phát triển. Trong thời đại mới, muốn giải quyết hài hoà 
các yếu tố ciung và cầu có liên quan đến chiến lược phất triển nguồn nhân lực thì 
cần xem xét khía cạnh nguồn nhân lực theo quan hệ một phía. Phải thấy được vai 
trò sản xuất của nguồn là vấn đề cốt lõi của học thuyết vốn con người. Và vai trò 
sản xuất của nguồn nhân lực có quan hệ chặt chẽ với vai trò tiêu dùng được thể 
hiện bằng chất lượng cuộc sống. Cơ chế nối liền hai vai trò là trả công cho người 
lao động tham gia các hoạt động kinh tế và thu nhập đầu tư trở lại để nâng cao 
mức sống của con người tạo nên khả năng nâng cao mức sống cho toàn xã hội và 
làm tăng năng suất lao động... các nước nghèo ở châu á đều nhận thức do tốc độ 
tăng dân số quá nhanh nhiều quốc gia coi việc giảm đói nghèo còn quan trọng 
hơn cả giáo dục, đó là một thiệt thòi to lớn. 
 Việt Nam đang hướng tới một nền kinh tế thị trường theo định hướng xã 
hội chủ nghĩa có sự quản lý vĩ mô của Nhà nước với mục tiêu bảo đảm cho dân 
giàu, nước mạnh, xã hội công bằng văn minh, an ninh quốc gia và sự bền vững 
của môi trường. Nền kinh tế Việt Nam chỉ có thể đạt được tốc độ tăng trưởng 
nhanh, hiệu quả kinh tế-xã hội cao khi nền kinh tế ấy thực sự dựa trên cơ sở công 
nghiệp hoá, hiện đại hoá. trong đó phải lấy việc phát huy nguồn lực con người 
làm yếu tố cơ bản cho sự phát triển bền vững. 
III. Thực trạng, thách thức và xu hướng phát triển của nguồn nhân lực Việt 
Nam. 
1. Số lượng (quy mô) nguồn nhân lực Việt Nam. 
a. Quy mô nguồn nhân lực Việt Nam. 
Việt Nam là một trong những nước đông dân số với quy mô dân số 
đứng 
thứ hai Đông nam á và thứ mười ba trên thế giới. Một đất nước với cơ cấu dân số 
trẻ với số người trong độ tuổi 16-34 chiếm 60% trong tổng số 35,9 triệu người 
lao động: nguần bổ sung hàng năm là 3%-tức khoảng 1,24 triệu người. Theo tổng 
điều tra dân số ngày 1-4-1999, quy mô dân số nước ta là 76,3 triệu người và dự 
tính đến năm 2010 quy mô dân số nước ta vào khoảng 95 triệuvà số người trong 
tuổi lao động gần 58 triệu, chiếm 60,7% dân số. Dự báo thời kỳ 2001 đến 2010 
cần tạo thêm chỗ làm việc mới cho khoảng 11-12 triệu lao động (chưa kể số lao 
đông tồn động các năm chuyển sang), bình quân mỗi năm phải tạo thêm 1,1 đến 
1,2 triệu chỗ làm việc mới. Tính đến 1/7/2000, tổng lực lượng lao động cả nước 
có 38.643.089 người, so với kết quả điều tra tại thời điểm 1/7/1996 tăng bình 
quân hàng năm là 975.645 người, với tốc độ tăng 2,7% một năm, trong khi tốc độ 
tăng bình quân hàng năm của thời kỳ này là 1,5% một năm. 
Chỉ tính riêng số lượng cán bộ chính quyền cơ sở ( bao gồm cán bộ công 
tác ở các xã, phường, thị trấn) cũng cho ta thấy nước ta có số lượng lao đông đảo, 
số lượng lao động ngày một gia tăng. Theo quy định trong Nghị định 174/CP ban 
hành tháng 9 năm 1994, cơ cấu số lượng của uỷ ban nhân dân xã, phường, thị 
trấn gồm có 1 chủ tịch, 1 phó chủ tịch và 5 uỷ viên uỷ ban. Với khoảng 1 vạn xã, 
đội ngũ cán bộ chính quyền cơ sở gồm có số lượng trên dưới 70000 người. Tuy 
nhiên, nếu tính theo cách định biên theo cơ cấu cán bộ cơ sở theo Nghị định 50-
CP ngày 26-7-1995 thì ngoài số uỷ viên uỷ ban đã nêu trên, còn có chức danh 
khác được bố trí theo yêu cầu của từng địa phương với mức quy định như sau: 
 - Dưới 5000 dân: 12 cán bộ. 
- Từ 5000 dân đến dưới 10000 dân : 14 cán bộ. 
- Từ 10000 dân đến 15000 dân :16 cán bộ. 
- Từ 15000 dân đến 20000 dân :18 cán bộ. 
- Từ 20000 dân trở lên tối đa không quá 20 cán bộ. 
Từ số cán bộ làm công tác đoàn thể, số cán bộ chính quyền cơ sở gồm chủ 
tịch uỷ ban nhân dân, phó chủ tịch uỷ ban nhân dân và các thành viên của uỷ ban 
dao động từ khoảng 7 đến 13 người tuỳ theo từng loại xã. 
Đến Nghị định 09/1998/NĐ-CP ban hành ngày 23-1-1998 số lượng cán bộ 
chính quyền cơ sở loại xã sau đây được ấn định như sau : 
- Dưới 10000 dân :17-19 cán bộ. 
- Từ 10000 đến 20000 dân: 19-21 cán bộ. 
- Trên 20000 dân cứ thêm 3000 dân thêm 1 cán bộ, tối đa không quá 25 
cán bộ. 
 Như vậy, nếu trừ số cán bộ làm công tác đoàn thể, số lượng cán bộ làm 
công tác chính quyền cơ sở đã tăng lên ở từng loại xã từ 3 đến 5 người và nếu 
lấy bình quân mỗi xã có khoảng 20 cán bộ, thì tổng số cán bộ chính quyền cơ sở 
trong cả nước sẽ vào khoảng trên dưới 150.000 người. So với đội ngũ công chức 
hành chính trong cả nước từ cấp huyện lên trung ương hiện có khoảng trên dưới 
200.000 người, thì đội ngũ cán bộ làm công tác chính quyền cơ sở không phải là 
nhỏ. Ngoài số đó ra còn có khoảng 200.000 là đại biểu hội đồng dân cư, những 
người đang được chính quyền cơ sở trao những quyền hạn nhất định về mặt 
chính quyền, hợp thành một đội ngũ cán bộ đông đảo ở cơ sở và trong toàn quốc. 
 So với các nước trong khu vực, quy mô dân số Việt Nam cùng với 
Philippin và Thái Lan ở vào khoảng trung bình. Nhưng nếu so sánh với thế giới 
thì về quy mô dân số, Việt Nam đứng thứ 13, còn trong ASEAN, Việt Nam xếp 
thứ hai, chỉ sau Inđônêxia. điều đó được thể hiện qua bảng sau: 
Một số chỉ tiêu về dân số và lao động của các nước ASEAN 
Nước Dânsố Tỷ lệ tăng dân số(%) Lực lượng lao động 
1994 
(Triệu 
người) 
1960-1992 1992-2000 
1994 
(triệu 
người) 
% tăng 
giai đoạn 
90-94 
% 
trong 
dân 
số 
Brunây 0,284 3,8 2,1 0,112 --- 
Inđônêxia 192,2 2,2 1,7 81,2 1,1 43 
Malaixia 19,5 2,6 2,1 7,85 2,8 38 
Philippin 68,6 2,7 2,0 27,48 3,0 56 
Thái Lan 59,4 2,4 1,1 32,84 1,1 56 
Việt Nam 72,5 2,2 2,1 33,7 2,8 49 
Xingapo 2,93 1,7 1,7 1,69 2,9 56 
Nguồn: - Chỉ tiêu và chỉ số phát triển con người,Nxb Thống kê, Hà Nội, 
1995. 
Xem bảng trên ta thấy dân số trong toàn khối giai đoạn 1960-1992 còn 
khá cao, trừ Xingapo có tỷ lệ là 1,7% và trải qua thời kỳ chuyển tiếp dân số. 
Trong giai đoạn 1992-2000, có thêm Inđônêxia và Thái Lan giảm được tỷ lệ tăng 
dân số. Riêng Việt Nam luôn nằm ở nhóm có tỷ lệ gia tăng dân số cao trong khu 
vực: 2,2% trong giai đoạn 1992-2000. điều này dẫn đến sự gia tăng lực lượng lao 
động trong những năm 90 còn cao ở phần lớn các nước trong khối: Malaixia là 
2,8%; Philippin là 3%; Việt Nam là 2,8%; Xingapo là 2,9%. Với tốc độ tăng dân 
số nhanh và còn được duy trì như vậy, tỷ lệ gia tăng lực lượng lao động của Việt 
Nam trong cả giai đoạn 1960-1992 và tiếp theo cho đến nay là điều khó tránh 
khỏi. Năm 1986, Việt Nam mới có 30,3 triệu người trong độ tuổi lao động thì 
đến năm 1995 đã tăng đến 40,2 triệu người, bình quân mỗi năm tăng khoảng một 
triệu người, tức là khoảng 3,22%. Ngoài ra còn phải kể đến số người ngoài độ 
tuỏi lao động nhưng thực tế có làm việc cũng tăng lên, tạo thành một nguần cung 
cấp về lao động khá dồi dào: cuối năm 1995 có 3,7 triệu người, trong đó có 1,3-
1,4 triệu trẻ em (nguần: kim Ngọc Cương, ''phân tích và dự báo thị trường lao 
động ở nước ta'', Bộ kế hoạch và đầu tư, tạp chí kinh tế và dự báo, số 5/1997, 
tr.19). 
Đối với Việt Nam, ngoài hai yếu tố về số người trong và ngoài độ tuổi lao 
động kể trên, còn có thể tính đến một số yếu tố mang tính chất biến động cơ học 
làm tăng nguần lao động của Việt Nam hiện nay như: số bộ đội giải ngũ; số lao 
động đi làm ở các nước Đông Âu, Trung Đông trở về; số người tỵ nạn ở Thái 
Lan, Hồng Kông, Malaixia, Việt kiều ở Campuchia hồi hương… 
Như vậy, Việt Nam có nguồn nhân lực dồi dào và thường xuyên được bổ 
sung bằng đội ngũ lao động trẻ, hùng hâụ, tạo nên một trong những ưu thế cho 
Việt Nam trong việc tham gia và hoà nhập vào nền kinh tế khu vực va thế giới. 
b. Quy mô nguồn nhân lực qua đào tạo cuả Việt Nam và việc sử dụng nguồn 
nhân lực này. 
Việt Nam tuy có lực lượng lao động dồi dào nhưng lực lượng lao động đã 
qua đào tạo thực tế lại thiếu. đó là mâu thuẫn về quy mô của nguồn nhân lực 
nước ta, chúng ta vừa thừa vừa thiếu nguồn nhân lực. 
Hiện nay đội ngũ cán bộ, công chức trong các cơ quan quản lý nhà nước 
thuộc các bộ, các ngành ở các cơ quan trung ương có 129763 người, trong đó có 
74% công chức có trình độ từ đại học trở lên. 
Khi nói đến nguồn nhân lực của một quốc gia thường người ta hay quan 
tâm đến số lượng học sinh, sinh viên được đào tạo hàng năm ở các trường trung 
học chuyên nghiệp, trường công nhân kỹ thuật, các trường đại học, cao đẳng 
trong quốc gia đó. Bởi đó là con số nói lên số lao động được đào tạo hàng năm và 
chất lượng nguồn nhân lực của quốc gia. ở Việt Nam, số học sinh và sinh viên 
thuộc các trường trung học chuyên nghiệp, kỹ thuật, cao đẳng và đại học trong cả 
nước từ năm 1992 đến năm 1997 (chỉ tính học sinh, sinh viên hệ chính quy) như 
sau: Đơn vị tính: 1.000 người 
Năm 1992 1993 1994 1995 1996 1997 
Trung học chuyên nghiệp 107,8 119,0 155,6 170,5 172,4 164,1 
Số tốt nghiệp 43,5 44,9 49,0 56,3 59,3 68,3 
Công nhân kỹ thuật 57,6 68,7 74,7 58,7 69,9 102,5 
Số tốt nghiệp 35,2 38,0 64,9 66,4 75,1 70,6 
Cao đẳng, đại học 136,8 157,1 203,3 297,9 509,3 662,8 
Số tốt nghiệp 24,8 29,1 36,9 58,5 78,5 74,1 
Nguồn: niên giám thống kê 1998-Nxb Thống kê, 1999, tr342, 345 &349 
Theo bảng trên ta thấy, cơ cấu đào tạo ở các cấp bậc rất khác nhau, số sinh 
viên cao đẳng,đại học tăng nhanh trong những năm gần đây, trong khi đó số học 
sinh trung học chuyên nghiệp và công nhân kỹ thuật tăng rất chậm và biến đổi 
bất thường khi lên khi xuống nhất là số công nhân kỹ thuật. Nếu năm 1994 các 
trường công nhân kỹ thuật có 74.700 học sinh, thì năm 1995 còn 58.700 học sinh 
, song đến năm 1997 lại tăng lên 102.500 học sinh. Chính điều đó tạo nên sự 
thiếu hụt lớn số công nhân kỹ thuật và cán bộ có trình độ trung cấp, và ngược lại 
dẫn tới sự lãng phí chất xám, bởi sẽ có những sinh viên có trình độ cao đẳng hoặc 
đại học đảm nhận những công việc của công nhân kỹ thuật hoặc trung cấp. Hiện 
nay số sinh viên đại học, cao đẳng vẫn tiếp tục tăng nhanh, năm 2000 số sinh 
viên cao đẳng, đại học là gần 1 triệu bằng 1,8 lần năm 1995, vượt dự kiến kế 
hoạch 5 năm (1996-2000) là 13% (Lê Quang Trung: biện pháp cho vấn đề lao 
động thất nghiệp ở thành thị-Vụ chính sách lao động và việc làm) và năm học 
2001-2002 tổng chỉ tiêu cho các trường cao đẳng, đại học tăng 5% tức khoảng 
160.000 sinh viên, tăng 10.000 sinh viên so với năm trước. 
Số học sinh, sinh viên tốt nghiệp các trường trung học chuyên nghiệp, kỹ 
thuật, cao đẳng và đại học năm 1992 là 103.500 người, thì đến năm 1996 là 
212.900 người và năm 1997 là 213.000 người bổ sung cho nguồn nhân lực của đất nước. 
Tỷ lệ lao động được đào tạo trong tổng lực lượng lao động xã hội tăng lên 
hằng năm được thể hiện qua bảng sau: 
Năm Tỷ lệ lao động được đào tạo/tổng lực lượng lao động xã hội(%) 
1988 9,45 
1992 11 
1995 13,8 
1997 16 
 Nguồn: dự thảo Nghị quyết Trung ương 4 khoá 8-Bộ chính trị. 
Tính đến năm 1998, số cán bộ có trình độ cao đẳng, đại học, trên đại học 
là trên 930.000 người, trong đó khoảng trên 10.000 người là cán bộ có trình độ 
trên đại học. đội ngũ này chiếm 2,3% lực lượng lao động xã hội. Số sinh viên tốt 
nghiệp đại học hàng năm khoảng 25.000 người có học vị trên đại học bổ xung 
vào nguồn nhân lực chất lượng câo. Hàng năm ở Việt Nam tỷ lệ cán bộ có trình 
độ cao đẳng, đại học trên 1000 dân đang tăng lên: 
Năm Tỷ lệ cán bộ có trình độ cao đẳng, đại học/1000 dân 
1994 9 
1996 11 
1997 12 
Trong khi đó ở các nước khác là: 
Nước Tỷ lệ cán bộ có trình độ cao đẳng, đại học/1000 dân 
Hàn quốc 52 
Singapo 16 
Italia 21 
Nhật bản 70 
Nguồn:Võ Đại Lược-CNH, HĐH ở Việt Nam đến năm 2000. Nxb KHXH,Hà Nội. 
So sánh các số liệu trên ta thấy giữa số lượng nguồn nhân lực được đào 
tạo ở Việt Nam so với các nước khác vẫn đang còn khoảng cách khá xa, chứ 
chưa nói đến nguồn nhân lực có chất lượng cao. Mặt khác cơ cấu đào tạo nguồn 
nhân lực cũng chưa phù hợp, thể hiện ở cỗ một số ngành được đào tạo ồ ạt như 
ngành kinh tế, luật trong khi đó các ngành kỹ thuật, công nghệ tin học, khoa học 
cơ bản chưa được coi trọng đúng mức. 
Do đó, xét cả những điều kiện kinh tế-xã hội lẫn những điều kiện về 
nguồn nhân lực cho thấy chúng ta chưa đủ điều kiện để xây dựng nền kinh tế tri 
thức, mà