Luận văn Tài nguyên biển Việt Nam và vấn đề phát triển bền vững

Đã từ lâu, con người đã sử dụng các nguồn Tài nguyên của Trái Đất chủ yếu tập trung vào những vùng đất liền rộng lớn. Tuy nhiên, chúng ta đã quên mất rằng bề mặt bao phủ của trái đất chủ yếu là nước (71%) và chiếm phần lớn là biển và đại dương. Về nguồn Tài nguyên thì biển là nơi chứa đựng những giá trị rất đáng kể cho sự phát triển kinh tế. Hiện nay, chúng ta vẫn chưa thể hiểu một cách đầy đủ về các giá trị của nguồn Tài nguyên biển đóng góp cho nền kinh tế, nhất là dưới dạng Tài nguyên môi trường. Nằm trên bán đảo Đông Dương, Việt Nam là một Quốc gia biển. Vùng biển Việt Nam rộng hơn 1 triệu km2, gấp hơn 3 lần diện tích đất liền. Bờ biển Việt Nam dài hơn 3260 km, trung bình 100 km2 đất liền thì có 1 km đường bờ biển (cao gấp 6 lần tỉ lệ này của thế giới). Ven bờ biển có hơn 2.773 hòn đảo lớn nhỏ các loại, với tổng diện tích 1720 km2 Tất cả các yếu tố đó đã giúp cho Việt Nam có thế mạnh để phát triển kinh tế biển một cách hiệu quả. Chính vì những yếu tố trên nên đã từ xa xưa, biển luôn đóng một vai trò rất quan trọng trong đời sống của nhân dân Việt Nam và đã được phản ánh ngay trong các truyền thuyết về thời kỳ dựng nước, giữ nước của lịch sử dân tộc. Xét về cả hai mặt tự nhiên và kinh tế - xã hội thì biển là một bộ phận không thể thiếu trong quá trình xây dựng và phát triển của đất nước Việt Nam. Chính vì thế, việc nắm vững các nguồn Tài nguyên biển Việt Nam và có hướng đánh giá, khai thác đúng đắn dựa trên nguyên tắc “Phát triển bền vững” là một việc làm mang tính chiến lược đóng góp không nhỏ cho sự nghiệp phát triển kinh tế hiện tại cũng như về lâu dài của đất nước. Từ yêu cầu cấp thiết đó, là một sinh viên chuyên ngành Sư phạm Địa Lí, qua 4 năm trao dồi kiến thức, được thầy cô nhiệt tình truyền đạt kiến thức chuyên ngành và những hiểu biết cá nhân của tôi về biển. Với mong muốn được nghiên cứu, tìm hiểu một cách có khoa học và hệ thống về Tài nguyên biển Việt Nam, hiện trạng phát triển biển và đưa ra định hướng cho sự “Phát triển bền vững”. Tôi đã chọn đề tài nghiên cứu cho luận văn tốt nghiệp đại học của mình là: “Tài nguyên biển Việt Nam và vấn đề Phát triển bền vững”.

doc74 trang | Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 10209 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Tài nguyên biển Việt Nam và vấn đề phát triển bền vững, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC Ñ & Ò Trang PHẦN MỞ ĐẦU 1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI Đã từ lâu, con người đã sử dụng các nguồn Tài nguyên của Trái Đất chủ yếu tập trung vào những vùng đất liền rộng lớn. Tuy nhiên, chúng ta đã quên mất rằng bề mặt bao phủ của trái đất chủ yếu là nước (71%) và chiếm phần lớn là biển và đại dương. Về nguồn Tài nguyên thì biển là nơi chứa đựng những giá trị rất đáng kể cho sự phát triển kinh tế. Hiện nay, chúng ta vẫn chưa thể hiểu một cách đầy đủ về các giá trị của nguồn Tài nguyên biển đóng góp cho nền kinh tế, nhất là dưới dạng Tài nguyên môi trường. Nằm trên bán đảo Đông Dương, Việt Nam là một Quốc gia biển. Vùng biển Việt Nam rộng hơn 1 triệu km2, gấp hơn 3 lần diện tích đất liền. Bờ biển Việt Nam dài hơn 3260 km, trung bình 100 km2 đất liền thì có 1 km đường bờ biển (cao gấp 6 lần tỉ lệ này của thế giới). Ven bờ biển có hơn 2.773 hòn đảo lớn nhỏ các loại, với tổng diện tích 1720 km2 … Tất cả các yếu tố đó đã giúp cho Việt Nam có thế mạnh để phát triển kinh tế biển một cách hiệu quả. Chính vì những yếu tố trên nên đã từ xa xưa, biển luôn đóng một vai trò rất quan trọng trong đời sống của nhân dân Việt Nam và đã được phản ánh ngay trong các truyền thuyết về thời kỳ dựng nước, giữ nước của lịch sử dân tộc. Xét về cả hai mặt tự nhiên và kinh tế - xã hội thì biển là một bộ phận không thể thiếu trong quá trình xây dựng và phát triển của đất nước Việt Nam. Chính vì thế, việc nắm vững các nguồn Tài nguyên biển Việt Nam và có hướng đánh giá, khai thác đúng đắn dựa trên nguyên tắc “Phát triển bền vững” là một việc làm mang tính chiến lược đóng góp không nhỏ cho sự nghiệp phát triển kinh tế hiện tại cũng như về lâu dài của đất nước. Từ yêu cầu cấp thiết đó, là một sinh viên chuyên ngành Sư phạm Địa Lí, qua 4 năm trao dồi kiến thức, được thầy cô nhiệt tình truyền đạt kiến thức chuyên ngành và những hiểu biết cá nhân của tôi về biển. Với mong muốn được nghiên cứu, tìm hiểu một cách có khoa học và hệ thống về Tài nguyên biển Việt Nam, hiện trạng phát triển biển và đưa ra định hướng cho sự “Phát triển bền vững”. Tôi đã chọn đề tài nghiên cứu cho luận văn tốt nghiệp đại học của mình là: “Tài nguyên biển Việt Nam và vấn đề Phát triển bền vững”. 2. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU Qua nghiên cứu đề tài: “Tài nguyên biển Việt Nam và vấn đề Phát triển bền vững” sẽ đạt được những mục tiêu sau: Đối với cá nhân tôi: Hình thành thói quen và tác phong làm việc có khoa học, độc lập, sáng tạo. Qua đó càng thêm say mê khám phá và nghiên cứu khoa học. Rèn luyện kỹ năng tìm kiếm và tổng hợp kiến thức qua đọc sách báo. Kỹ năng xử lý, sắp xếp tư liệu thành một đề tài hoàn chỉnh. Củng cố lại những kiến thức chuyên môn và hoàn thiện kiến thức vững vàng hơn. Ứng dụng các kiến thức đã học vào thực tiễn, như sử dụng các chương trình tin học ứng dụng: Word, Excel, Power point, Internet, Encarta … Đối với nội dung nghiên cứu của đề tài: - Tìm hiểu khái quát về Tài nguyên biển Việt Nam; Hiện trạng khai thác Tài nguyên biển như thế nào? - Đưa ra những định hướng chiến lược cho sự phát triển kinh tế biển bền vững. 3. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU Nằm trong giới hạn của đề tài, đối tượng mà đề tài nghiên cứu là “Tài nguyên biển Việt Nam”. Từ những hiểu biết về tiềm năng của nguồn Tài nguyên này. Hiện trạng phát triển kinh tế biển ở Việt Nam. Từ đó đưa ra những định hướng cho sự phát triển bền vững nguồn Tài nguyên biển của Việt Nam. 4. PHẠM VI NGHIÊN CỨU Do trình độ bản thân còn hạn chế, thời gian nghiên cứu có giới hạn, nguồn tài liệu tham khảo liên quan đến đề tài hạn hẹp. Đề tài chỉ giới hạn trong việc tìm hiểu khái quát về tìm năng của Tài nguyên biển đối với phát triển kinh tế - xã hội. Hiện trạng khai thác nguồn tài nguyên này. Từ đó đưa xem xét những vấn đề còn tồn tại dước góc nhìn quản lý môi trường và đưa ra những giải pháp thiết thực cho sự phát triển kinh tế biển nước nhà theo hướng “Phát triển bền vững”. 5. THỰC TRẠNG VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU Biển là một yếu tố rất quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Vì thế ở Việt Nam đến thời điểm hiện nay cũng đã có rất nhiều công trình nghiên cứu về lĩnh vực này như: “Chiến lược phát triển kinh tế biển - đảo Việt Nam” của PGS - TS Bùi Đức Thắng; “Hệ thống đảo ven bờ Việt Nam - Tiềm năng và triển vọng” của GS - TS Lê Đức Tố… Ngoài ra còn có rất nhiều tập san, tin tức, báo chí đề cập đến vấn đề này. Tuy nhiên, các tài liệu nghiên cứu trên chỉ đi sâu vào những vấn đề cụ thể khác nhau và tính phổ biến đến người đọc thì còn rất hạn hẹp. Cụ thể tại trường Đại học Cần Thơ, qua tìm kiếm tôi chưa thấy nhiều tài liệu về lĩnh vực này. Bên cạnh đó, tôi nhận thấy rằng chưa có tài liệu nào đánh giá chi tiết về Tài nguyên biển Việt Nam và định hướng cho sự “Phát triển bền vững”, đó cũng là trở ngại gây khó khăn cho tôi khi thực hiện đề tài này. “Phát triển bền vững” hiện nay đang là chủ đề được tất cả các Quốc gia trên thế giới chú trọng tới. Đối với Việt Nam cũng vậy, tôi nghĩ rằng trong tương lai gần sẽ có rất nhiều công trình nghiên cứu sâu sắc hơn về vấn đề này. Và chắc chắn cũng sẽ có rất nhiều công trình nghiên cứu về “Tài nguyên biển” và hướng tới “Phát triển bền vững”. 6. QUAN ĐIỂM NGHIÊN CỨU Địa lí học là một môn khoa học tổng hợp vừa mang tính thực tiễn sâu sắc lại vừa mang tính cụ thể cao. Đồng thời khoa học địa lí còn mang tính thời đại, nó luôn biến đổi phù hợp với những khám phá tiến bộ của khoa học kỹ thuật. Đối tượng địa lí luôn có quá trình phát sinh, tồn tại và phát triển. Nó tồn tại trong một tổng hợp thể địa lí cụ thể và có mối tương quan với các yếu tố xung quanh. Nó có thể tác động qua lại với nhau theo hướng tích cực hoặc tiêu cực. Do đó, để nghiên cứu các đối tượng địa lí một cách rõ ràng và chính xác, nhằm giải quyết tốt các vấn đề của đề tài này, ta cần dựa trên những quan điểm sau: 6.1. Quan điểm hệ thống Theo quan điểm “hệ thống”, địa lí kinh tế học nghiên cứu tổng hợp lãnh thổ sản xuất, một trong các mối quan hệ tác động với môi trường xung quanh. Vì vậy khi nghiên cứu vấn đề này, Tài nguyên biển Việt Nam được xem là một hệ thống kinh tế - xã hội thống nhất. Tài nguyên biển Việt Nam được xem xét đánh giá trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội và sự tác động hài hòa với các yếu tố môi trường khác. Mối quan hệ đó sẽ mang lại ý nghĩa tích cực hay tiêu cực. 6.2. Quan điểm tổng hợp lãnh thổ Địa lí kinh tế - xã hội là một khoa học tổng hợp nghiên cứu không gian lãnh thổ kinh tế - xã hội liên quan đến nhiều lĩnh vực khác nhau. Dựa trên quan điểm này, chúng ta sẽ thấy được bức tranh toàn cảnh của các đối tượng nghiên cứu và các yếu tố xung quanh, thấy rõ mối quan hệ qua lại và tác động lẫn nhau giữa chúng. Thông qua quan điểm tổng hợp lãnh thổ nét đặc trưng tiêu biểu của “Tài nguyên biển Việt Nam và vấn đề Phát triển bền vững” sẽ đựợc nêu bật. Chúng ta sẽ xem xét nó trong một chỉnh thể chung, giải quyết mối quan hệ giữa tiềm năng, sự phát triển với nâng cao chất lượng cuộc sống và bảo vệ môi trường biển. Đồng thời tìm ra những mặt tối ưu, những mặt hạn chế, để định ra những giải pháp cụ thể để “Phát triển bền vững” kinh tế biển nước nhà. 6.3. Quan điểm lịch sử - viễn cảnh Dù bất cứ một đối tượng địa lí nào cũng có nguồn gốc phát sinh, quá trình tồn tại và phát triển. Sự phát triển kinh tế nói chung không phải là yếu tố ổn định mà là yếu tố vận động có mối quan hệ phù hợp. Các biến động đều xảy ra trong những điều kiện địa lí nhất định và với những xu hướng nhất định. Xu hướng phát triển của chúng là đi từ quá khứ đến hiện tại và hướng đến tương lai. Với quan điểm lịch sử - viễn cảnh ta sẽ nhìn thấy đối tượng trong quá khứ, liên hệ đến hiện tại và sau đó phát họa bức tranh toàn cảnh cho sự phát triển trong tương lai. Với “Tài nguyên biển Việt Nam” quá khứ đến hiện tại đã được khai thác như thế nào để phục vụ cho sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Từ đó, chúng ta sẽ có những định hướng như thế nào cho khai thác và bảo vệ “Tài nguyên biển”, nhằm hướng tới sự “Phát triển bền vững” trong tương lai. 7. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Để hoàn thành đề tài nghiên cứu này, tôi đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau: - Phương pháp thu thập và xử lí tài liệu: Khi thực hiện đề tài này tôi đã thu thập nhiều tài liệu tham khảo từ nhiều nguồn khác nhau như: Sách, báo, internet… Đồng thời xử lí các nguồn tài liệu để lựa chọn những thông tin phù hợp nhất. - Phương pháp thống kê: Qua các nguồn số liệu, các bảng số liệu, xây dựng thành bảng thống kê để minh hoạ cho bài viết thêm chi tiết. - Phương pháp phân tích chứng minh: Từ những vấn đề đặt ra trong đề tài. Tôi đã phân tích rõ ràng và đưa ra những dẫn chứng cụ thể để chứng minh cho bài viết. - Phương pháp bản đồ - biểu đồ: Đây một phương pháp đặt trưng của địa lí học. Việc sử dụng các bản đồ - biểu đồ sẽ cụ thể hoá và hình tượng hoá để có thể so sánh chính xác các vấn đề của đề tài này. PHẦN NỘI DUNG CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN 1.1. TÀI NGUYÊN 1.1.1. Khái niệm Tài nguyên là các dạng vật chất được tạo thành trong suốt quá trình hình thành và phát triển của tự nhiên, cuộc sống sinh vật và con người. Các dạng vật chất này cung cấp - nhiên vật liệu, hỗ trợ và phục vụ cho các nhu cầu phát triển kinh tế, xã hội của con người. 1.1.2. Phân loại Tài nguyên Hiện nay, nhiều tác giả đưa ra những tiêu chuẩn phân loại Tài nguyên khác nhau, hay nói cách khác, nếu ta có một tập hợp các tiêu chuẩn phân loại, ta sẽ có một bảng phân loại Tài nguyên tương ứng. Theo sự nghiên cứu và tổng hợp của các nhà nghiên cứu của Viện khoa học và kỹ thuật Viêt Nam, Tài nguyên được phân loại như sau: 1.1.2.1. Phân loại theo nguồn gốc Chia làm 2 loại: - Tài nguyên thiên nhiên: Là các dạng vật chất được tạo thành trong suốt quá trình hình thành và phát triển của tự nhiên và sinh vật. Các dạng vật chất này cung cấp nguyên - nhiên vật liệu, hỗ trợ và phục vụ cho các nhu cầu phát triển của con người. - Tài nguyên nhân tạo: Là các loại Tài nguyên do lao động của con người tạo ra: Nhà cửa, ruộng vườn, xe cộ, đô thị, nông thôn và các của cải, vật chất khác. 1.1.2.2. Phân loại theo Môi trường thành phần: Được gọi là “Tài nguyên môi trường”, gồm các loại: - Tài nguyên môi trường đất. Trong đó, lại chia ra: + Tài nguyên đất nông nghiệp + Tài nguyên đất rừng + Tài nguyên đất đô thị + Tài nguyên đất hiếm + Tài nguyên đất cho công nghiệp: Bao gồm đất làm sành sứ, gốm sứ, đất làm gạch, ngói, đất sét trộn làm xi mặng … - Tài nguyên môi trường nước. Trong đó: + Tài nguyên nước mặt + Tài nguyên nước trong đất: Bao gồm Tài nguyên nước thổ nhưỡng; Tài nguyên nước ngầm. - Tài nguyên môi trường không khí: + Tài nguyên không gian + Tài nguyên ngoài trái đất như mặt trăng, các hành tinh … - Tài nguyên sinh vật: + Tài nguyên sinh vật: Bao gồm Tài nguyên thực vật; Tài nguyên động vật; Tài nguyên vi sinh vật; Tài nguyên hệ sinh thái cảnh quan. - Tài nguyên khoáng sản: + Tài nguyên khoáng sản kim loại như: Các mỏ sắt, chì, đồng … + Tài nguyên khoáng sản phi kim loại như: Dầu mỏ, khí đốt, than đá, mỏ đá vôi, đá Granit … - Tài nguyên năng lượng: + Tài nguyên năng lượng địa nhiệt + Tài nguyên năng lượng gió + Tài nguyên năng lượng mặt trời + Tài nguyên năng lượng sóng biển + Tài nguyên năng lượng địa áp 1.1.2.3. Phân loại theo khả năng phục hồi của Tài nguyên - Tài nguyên có khả năng phục hồi (Tài nguyên có thể tái tạo): Là các Tài nguyên mà thiên nhiên có thể tạo ra liên tục và được con người sử dụng lâu dài như: Rừng, các loại thuỷ hải sản ở sông hồ, biển, độ phì của đất, nước ngọt… Các Tài nguyên có thể tái tạo đóng vai trò rất quan trọng đối với sự sống của sinh vật vì chúng là nguồn cung cấp thức ăn liên tục cho sinh vật và cho các nhu cầu cần thiết khác. Đây là các Tài nguyên không giới hạn. TNMT có khả năng phục hồi TÀI NGUYÊN MÔI TRƯỜNG Sinh vật Rừng Nước Đất TNMT không có khả năng phục hồi Đất chết K. sản kim loại K.sản phi kim loại Nhiên liệu hoá thạch gas Hình 1.1: Sơ đồ phân loại Tài nguyên Môi trường theo khả năng phục hồi Nguồn: Tài nguyên môi trường và Phát triển bền vững - NXB KH &KT (2006) - Tài nguyên không có khả năng phục hồi: Gồm các khoáng vật (C, Si, Pb,…) hay nguyên - nhiên vật liệu (than, dầu mỏ, gas tự nhiên…) được tạo thành trong suốt quá trình hình thành và phát triển của vỏ Trái Đất. Các Tài nguyên này có một khối lượng nhất định và hao hụt dần sau khi được khai thác để phục vụ cho sự phát triển kinh tế, khoa học, kỹ thuật của xã hội loài người. Những Tài nguyên này có giới hạn về khối lượng. Trong suốt quá trình sống, con người đã quá lạm dụng đến vị trí độc tôn của mình để can thiệp vào giới tự nhiên, bắt tự nhiên phải quy phục cho những hành động khai phá của mình. Do đó, trong một số trường hợp, Tài nguyên có khả năng phục hồi sẽ biến thành Tài nguyên không có khả năng phục hồi. Ví dụ: Đất là Tài nguyên có khả năng phục hồi nhưng một khi nó đã bị “Đá ong quá”, “Laterite hoá”, “Phèn hoá”… thì nó sẽ trở thành “Đất chết” và người ta xem đó là Tài nguyên không có khả năng phục hồi. Vì vậy, có thể nói khái niệm “Tài nguyên có thể phục hồi” và “Tài nguyên không thể phục hồi” ở đây chỉ mang ý nghĩa tương đối mà thôi. 1.1.2.4. Phân loại theo sự tồn tại - Tài nguyên hữu hình: Là dạng Tài nguyên hiện diện trong thực tế mà con người có thể đo lường, ước tính về trữ lượng cũng như tiềm năng khai thác, sử dụng với nhiều mục đích khác nhau trong cuộc sống. Ví dụ: Tài nguyên khoáng sản, Tài nguyên nước…; Tài nguyên hữu hình bao gồm: Tất cả các Tài nguyên môi trường như ta kể trên và bao gồm cả Tài nguyên con người (Tài nguyên nhân lực). + Bản thân Tài nguyên hữu hình cũng có sự phân loại tương đối. Bởi vì, sự tồn tại của dạng Tài nguyên hữu hình này có thể là đầu vào cho dạng Tài nguyên khác. Ví dụ: Tài nguyên năng lượng, Tài nguyên nước… Là Tài nguyên đầu vào cho Tài nguyên động vật và Tài nguyên nhân lực (Tài nguyên sức lao động). Xa hơn nữa, con người lại là Tài nguyên sử dụng mọi dạng Tài nguyên khác. + Sự biến đổi của Tài nguyên hữu hình có thể trông thấy và dự đoán được. Ví dụ: Quan sát về thực trạng phát triển rừng thế giới từ 300 năm nay ta thấy, diện tích che phủ bề mặt lục địa đã suy giảm một cách đáng kể (từ 47% xuống còn 27%). + Tài nguyên hữu hình là nguồn gốc của mọi Tài nguyên vô hình. Mặc dù, các nguồn Tài nguyên vô hình có sức mạnh khủng khiếp đối với Tài nguyên hữu hình, nhưng nó không thể không tồn tại trên Tài nguyên hữu hình được. Ví dụ: Có sự tồn tại của con người mới có sự tồn tại của trí tuệ, văn hoá, sức lao động… Tuy nhiên, sự tồn tại của con người cũng phụ thuộc sự tồn tại của các nguồn Tài nguyên khác. Do đó, sự tồn tại của Tài nguyên hữu hình có ý nghĩa quyết định lên sự tồn tại của Tài nguyên vô hình. - Tài nguyên vô hình: Dạng Tài nguyên mà con người sử dụng cũng mang lại hiệu quả thực tế cao nhưng nó tồn tại ở dạng “Không trông thấy”.Có nghĩa là, trữ lượng của dạng Tài nguyên này là bao nhiêu, ở mức độ nào thì con người chưa thể xác định được mà chỉ thấy được hiệu quả to lớn do dạng Tài nguyên này đem lại mà thôi. Ví dụ: Tài nguyên trí tuệ, Tài nguyên văn hoá, Tài nguyên sức lao động … + Tài nguyên trí tuệ (Tài nguyên chất xám): Con người là một động vật bậc cao, mọi hành động, mọi cư xử … đều chịu sự chi phối của não bộ, hay nói đúng hơn, hành vi của con người có được chính là nhờ vào khả năng nhận thức. Tài nguyên trí tuệ là một dạng Tài nguyên như vậy. Từ khả năng nhận thức mà con người có xu hướng hoạt động và làm thay đổi các dạng Tài nguyên trong tự nhiên. Nhận thức là một Tài nguyên của mọi Tài nguyên. Thật vậy, khi xã hội loài người còn chưa phát triển thì thiên nhiên vẫn còn giữ nguyên bản sắc của nó. Tuy nhiên, kể từ khi con người biết nhận thức về vị trí độc tôn của mình thì tất cả các loại Tài nguyên thiên nhiên đều bị khai thác. Con người đã biến đổi tất cả các Tài nguyên khác theo ý muốn riêng của bản thân mình. Nguồn tài nguyên trí tuệ quyết định đến chiều hướng biến đổi của các nguồn Tài nguyên khác. Với ý niệm này, con người có hai cách nhận thức để xử sự với các nguồn Tài nguyên không thuộc Tài nguyên trí tuệ: Dùng nguồn Tài nguyên trí tuệ để kìm hãm, phá hoại, và gây suy thoái các nguồn Tài nguyên khác. Dùng Tài nguyên trí tuệ để bảo vệ các nguồn Tài nguyên khác. Với chủ ý này, con người đã tạo ra các loại vật chất tổng hợp, trí tuệ nhân tạo… Đây là nhận thức hiệu quả mà con người có thể thực hiện, nhằm mục đích tạo ra lợi nhuận tối đa với chi phí tối thiểu. Tuy nhiên, khả năng nhận thức của con người cũng hạn chế. Do đó, hành vi của con người không phải lúc nào cũng đạt đến sự tối ưu. Vì vậy, năng lực quyết định của trí tuệ lên Tài nguyên thiên nhiên xảy ra không phải lúc nào cũng như mong muốn. Con người càng văn minh càng tiến cận đến sự tối ưu hoá. TN hữu hình TÀI NGUYÊN …. Đất Nước Khoáng chất TN vô hình … TN sức lao động TN văn hoá TNTrì tuệ Hình 1.2: Sơ đồ phân loại Tài nguyên theo sự hiện hữu Nguồn: Tài nguyên môi trường và Phát triển bền vững - NXB KH &KT (2006) + Tài nguyên văn hoá: Con người chịu tác động của nền văn hoá nơi họ sinh sống. Trong bất kỳ hoàn cảnh nào, con người đều có những quan điểm, nền tảng giá trị, niềm tin và những hành vi mong đợi… Từ đó, nguồn Tài nguyên văn hoá được xem như là tất cả những gì làm cho con người thích ứng với môi trường về mặt tinh thần. Nguồn Tài nguyên văn hoá bị chi phối bởi các yếu tố: Hành vi của từng cá nhân trong xã hội: Khi từng cá nhân có những cách xử sự khác nhau lên môi trường sống cũng như lên các nguồn Tài nguyên thiên nhiên khác thì các cá nhân khác cũng có xu hướng đồng nhất hoá cách xử sự của mình. Các chuẩn mực: Hành vi của từng cá nhân đối với Môi trường sống của họ có bị kiểm soát bởi chuẩn mực nào không? Ví dụ: Quốc gia này cho rằng phá rừng là có hại, do đó họ ngăn cấm phá rừng; Tuy nhiên, Quốc gia khác lại cho rằng phá rừng, lấy đất canh tác, du canh du cư… là một tập tục và cần được duy trì. Các giá trị khác: Chẳng hạn như sự ủng hộ hay chống đối về cách xử sự của con người với giới tự nhiên… Triết lý về niềm tin, tín ngưỡng, cách thức xử sự… + Nguồn Tài nguyên sức lao động: Các nhà kinh tế học cổ điển cho rằng “Lao động là nguồn gốc tạo ra mọi của cải vật chất”. Quả thật, con người khi mới sinh ra, chính bản thân họ chưa thể hoàn chỉnh được. Do vậy, họ cần phải có những nhu cầu để tự hoàn thiện bản thân mình. Muốn vậy, họ phải tác động vào giới tự nhiên, bắt tự nhiên phải cung cấp cho họ những gì họ muốn. Chính lao động đã làm cho con người sống gần gũi với tự nhiên hơn (sự gắn liền này có thể mang lại lợi ích và cũng có thể gây tác hại đến tự nhiên). Tuy nhiên, sự liên kết này không tự bản thân nó có được mà phải nhờ vào sức lao động. Rõ rang, sức lao động cũng chính là một dạng Tài nguyên vô cùng có giá trị. 1.1.3. Đánh giá Tài nguyên Người ta có thể đánh giá Tài nguyên theo nhiều cách khác nhau, với những mục đích khác nhau. - Giá trị của Tài nguyên được đánh giá cao hay thấp, tốt hay không thật tốt phụ thuộc vào trình độ khoa học kỹ thuật của thời đại và trình độ nhận thức của từng đối tượng khác nhau. Vì vậy, cùng một loại Tài nguyên nhưng ở thời nguyên thuỷ được xem là không cần, không quý, và thậm chí là không có giá trị. Nhưng nếu đến thời đại chúng ta, khi khoa học kỹ thuật phát triển thì nó trở nên vô cùng có giá trị, thậm chí rất quý và hiếm. Ví dụ như mỏ Uranium, vào thời nguyên thuỷ người ta chưa biết nó là gì nên nó không có giá trị gì cả. Nhưng ngày nay, nó là một khoáng sản nguyên liệu rất cần thiết cho các nhà máy điện nguyên tử, thì nó trở nên rất quý giá; Trong lĩnh vực “Tài nguyên Môi trường”, một số chất thải ở một xã hội có trình độ khoa học kỹ thuật thấp thì có thể bị loại bỏ hoàn toàn, nhưng trong một xã hội có trình độ khoa học kỹ thuật cao, nó lại là nguyên liệu quý giá cho một chu trình sản xuất mới. Ví dụ: Giấy viết xong như trước đã bỏ nhưng khi có công nghệ tái chế giấy ra đời thì giấy lại trở thành nguồn nguyên liệu cho công nghệ tái chế giấy hay bìa carton. - Về mặt kinh tế, người ta cần dựa vào giá trị sử dụng và giá trị hàng hoá trao đổi để đánh giá một loại Tài nguyên nào đó. Đối với Tài nguyên khoáng sản, người ta đánh giá không những dựa vào giá

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docLUẬN VĂN UT.doc
  • docbia.doc
  • docdanhmuchinhbang.doc