1.Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu.
Thị trường chứng khoán là một kênh huy động vốn mới cho nền kinh tế. Sự ra đời và phát triển của thị trường chứng khoán trong nền kinh tế thị trường là một tất yếu. Việc phát triển thị trường chứng khoán còn liên quan đến tiến trình cổ phần hóa đang diễn ra sôi động hiện nay. Tuy nhiên từ sau khi ra đời, kết quả hoạt động của thị trường chứng khoán không như mong đợi, một phần là do sự tham gia hỗ trợ rất hạn chế của các ngân hàng thương mại. Hơn nữa hoạt động huy động vốn và cho vay truyền thống của các ngân hàng thương mại đã không còn đáp ứng kịp thời nhu cầu vốn cho nền kinh tế. Vì vậy việc nghiên cứu mối quan hệ giữa hai chủ thể trên đồng thời tìm ra giải pháp để thúc đẩy sự tham gia của các ngân hàng thương mại trên thị trường chứng khoán, hỗ trợ cho sự phát triển của thị trường chứng khoán là cần thiết.
Việc lựa chọn đề tài nghiên cứu “tăng cường hoạt động đầu tư của ngân hàng công thương Việt Nam trên thị trường chứng khoán”, một mặt tìm ra giải pháp đổi mới củng cố hoạt động của ngân hàng công thương Việt Nam, thành ngân hàng đa năng hiện đại với những hoạt động đa dạng, đồng thời giúp cho thị trường chứng khoán trở nên sôi động hơn, thực sự phát huy vai trò kênh dẫn vốn mới cho nền kinh tế.
2. Mục đích nghiên cứu.
- Nghiên cứu mối quan hệ giữa ngân hàng thương mại và thị trường chứng khoán , vai trò của ngân hàng thương mại đối với hoạt động của thị trường chứng khoán , từ đó chỉ ra lợi ích của ngân hàng thương mại cũng như của thị trường chứng khoán khi có sự tham gia của ngân hàng thương mại trên thị trường chứng khoán
- Hoạt động của ngân hàng thương mại trên thị trường chứng khoán , phân tích đánh giá sự tham gia của các ngân hàng thương mại trên thị trường chứng khoán , những hỗ trợ và hạn chế, phân tích nguyên nhân
- Thực trạng hoạt động đầu tư của ngân hàng công thương và sự tham gia của ngân hàng công thương trên thị trường chứng khoán , đánh giá kết quả, phân tích hạn chế và nguyên nhân
- Đề xuất giải pháp, kiến nghị nhằm tăng cường hoạt động đầu tư của ngân hàng công thương Việt Nam trên thị trường chứng khoán
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
- Về lý thuyết: Hoạt động của ngân hàng thương mại, cụ thể là hoạt động đầu tư chứng khoán và vai trò của ngân hàng thương mại trên thị trường chứng khoán.
- Về thực tế: Một số kết quả hoạt động đầu tư trên thị trường chứng khoán giai đoạn 2004-2007 của Ngân hàng công thương Việt Nam
4. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp tổng hợp-phân tích
- Phương pháp quy nạp
- Phương pháp logic biện chứng
- Phương pháp thống kê mô tả
5. Kết cấu của Luận văn.
Ngoài phần mở đầu và kết luận, mục lục, danh mục các chữ viết tắt, danh mục bảng biểu, phụ lục, luận văn được chia thành ba chương:
Chương 1: Hoạt động ngân hàng thương mại trên thị trường chứng khoán
Chương 2: Thực trạng hoạt động đầu tư của NHCTVN trên thị trường chứng khoán
Chương 3: Giải pháp tăng cường hoạt động đầu tư của NHCTVN trên thị trường chứng khoán
93 trang |
Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 2577 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Tăng cường hoạt động đầu tư của ngân hàng công thương Việt Nam trên thị trường chứng khoán, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
PHẦN MỞ ĐẦU
1.Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu.
Thị trường chứng khoán là một kênh huy động vốn mới cho nền kinh tế. Sự ra đời và phát triển của thị trường chứng khoán trong nền kinh tế thị trường là một tất yếu. Việc phát triển thị trường chứng khoán còn liên quan đến tiến trình cổ phần hóa đang diễn ra sôi động hiện nay. Tuy nhiên từ sau khi ra đời, kết quả hoạt động của thị trường chứng khoán không như mong đợi, một phần là do sự tham gia hỗ trợ rất hạn chế của các ngân hàng thương mại. Hơn nữa hoạt động huy động vốn và cho vay truyền thống của các ngân hàng thương mại đã không còn đáp ứng kịp thời nhu cầu vốn cho nền kinh tế. Vì vậy việc nghiên cứu mối quan hệ giữa hai chủ thể trên đồng thời tìm ra giải pháp để thúc đẩy sự tham gia của các ngân hàng thương mại trên thị trường chứng khoán, hỗ trợ cho sự phát triển của thị trường chứng khoán là cần thiết.
Việc lựa chọn đề tài nghiên cứu “tăng cường hoạt động đầu tư của ngân hàng công thương Việt Nam trên thị trường chứng khoán”, một mặt tìm ra giải pháp đổi mới củng cố hoạt động của ngân hàng công thương Việt Nam, thành ngân hàng đa năng hiện đại với những hoạt động đa dạng, đồng thời giúp cho thị trường chứng khoán trở nên sôi động hơn, thực sự phát huy vai trò kênh dẫn vốn mới cho nền kinh tế.
2. Mục đích nghiên cứu.
Nghiên cứu mối quan hệ giữa ngân hàng thương mại và thị trường chứng khoán , vai trò của ngân hàng thương mại đối với hoạt động của thị trường chứng khoán , từ đó chỉ ra lợi ích của ngân hàng thương mại cũng như của thị trường chứng khoán khi có sự tham gia của ngân hàng thương mại trên thị trường chứng khoán
Hoạt động của ngân hàng thương mại trên thị trường chứng khoán , phân tích đánh giá sự tham gia của các ngân hàng thương mại trên thị trường chứng khoán , những hỗ trợ và hạn chế, phân tích nguyên nhân
Thực trạng hoạt động đầu tư của ngân hàng công thương và sự tham gia của ngân hàng công thương trên thị trường chứng khoán , đánh giá kết quả, phân tích hạn chế và nguyên nhân
Đề xuất giải pháp, kiến nghị nhằm tăng cường hoạt động đầu tư của ngân hàng công thương Việt Nam trên thị trường chứng khoán
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
Về lý thuyết: Hoạt động của ngân hàng thương mại, cụ thể là hoạt động đầu tư chứng khoán và vai trò của ngân hàng thương mại trên thị trường chứng khoán.
Về thực tế: Một số kết quả hoạt động đầu tư trên thị trường chứng khoán giai đoạn 2004-2007 của Ngân hàng công thương Việt Nam
4. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp tổng hợp-phân tích
Phương pháp quy nạp
Phương pháp logic biện chứng
Phương pháp thống kê mô tả
5. Kết cấu của Luận văn.
Ngoài phần mở đầu và kết luận, mục lục, danh mục các chữ viết tắt, danh mục bảng biểu, phụ lục, luận văn được chia thành ba chương:
Chương 1: Hoạt động ngân hàng thương mại trên thị trường chứng khoán
Chương 2: Thực trạng hoạt động đầu tư của NHCTVN trên thị trường chứng khoán
Chương 3: Giải pháp tăng cường hoạt động đầu tư của NHCTVN trên thị trường chứng khoán
CHƯƠNG 1
HOẠT ĐỘNG NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI TRÊN
THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN
1.1. Tổng quan về Ngân hàng thương mại
1.1.1. Sự ra đời và quan niệm về NHTM
Ngân hàng là một loại hình tổ chức có vai trò quan trọng đối với nền kinh tế. Vai trò của nó là biến các khoản tiết kiệm thành đầu tư thông qua dòng tài chính gián tiếp. Có rất nhiều cách định nghĩa về Ngân hàng, đó là theo chức năng hay các dịch vụ mà chúng thực hiện trong nền kinh tế.
Theo quan niệm cổ điển, Ngân hàng là tổ chức nhận tiền gửi và cho vay tiền. Tuy nhiên cách định nghĩa trên không phân biệt được Ngân hàng với một số tổ chức tài chính khác. Vì vậy có một cách tiếp cận mới đầy đủ hơn về Ngân hàng, đó là dựa trên các dịch vụ mà nó cung cấp: Ngân hàng là một loại hình tổ chức tài chính cung cấp một danh mục các dịch vụ tài chính đa dạng nhất - đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm và các dịch vụ thanh toán – và thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kỳ một tổ chức kinh doanh nào trong nền kinh tế.
Ngân hàng thương mại là ngân hàng được thực hiện toàn bộ hoạt động ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác có liên quan vì mục tiêu lợi nhuận, góp phần thực hiện các mục tiêu kinh tế của Nhà nước.
Như vậy, về bản chất, Ngân hàng thương mại là một doanh nghiệp đặc thù, tính chất đặc thù thể hiện ở chỗ đối tượng tác nghiệp là tiền tệ. Ngân hàng thương mại không trực tiếp sản xuất ra của cải vật chất như các doanh nghiệp thuộc lĩnh vực sản xuất – kinh doanh nhưng tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình sản xuất, lưu thông và phân phối sản phẩm xã hội bằng cách cung ứng vốn tín dụng, vốn đầu tư cho các doanh nghiệp, tổ chức kinh tế mở rộng kinh doanh, góp phần tăng nhanh tốc độ phát triển kinh tế.
1.1.2. Hoạt động của Ngân hàng Thương mại
1.1.2.1. Hoạt động cơ bản, truyền thống của ngân hàng thương mại cổ điển
Hoạt động huy động vốn: Toàn bộ các hoạt động tạo nên bên “Nguồn vốn” trong Bảng cân đối tài sản của NHTM
Các ngân hàng luôn tìm mọi cách để huy động nguồn vốn cho vay hay nguồn đầu vào của bất kỳ hoạt động nào. Một trong những nguồn vốn quan trọng là các khoản tiền gửi tiết kiệm của khách hàng, đó là một món tiền được gửi tại ngân hàng theo đơn vị thời gian có thể là tuần, tháng hay năm.Gửi tại ngân hàng, khách hàng sẽ nhận được một mức lãi suất nhất định tuỳ theo từng thời điểm và từng ngân hàng.
Ngoài ra, với chức năng là thủ quỹ cho các doanh nghiệp nên nguồn tiền gửi của các doanh nghiệp là nguồn có tỷ trọng lớn nhất. Tuy nhiên đây lại là loại tiền gửi không kỳ hạn vì doanh nghiệp có thể yêu cầu rút ra hoặc sử dụng bất kỳ lúc nào.
Bên cạnh đó, các NHTM cũng có thể chủ động phát hành kỳ phiếu, trái phiếu để huy động vốn mỗi khi có nhu cầu. Chính hoạt động này đã làm phong phú thêm lượng hàng hoá giao dịch trên TTCK.
Cuối cùng, các NHTM khi cần thiết còn có thể đi vay vốn của NHTW, vay các NHTM khác trên thị trường tiền tệ liên ngân hàng. Lãi suất trên thị trường tiền tệ liên ngân hàng có vai trò quan trọng trong việc xác định lãi suất cho các hoạt động tài chính khác, đặc biệt tác động vào thị giá chứng khoán.
Như vậy hoạt động huy động vốn của các NHTM rất đa dạng, phần nào đáp ứng nhu cầu vốn cho hoạt động kinh doanh.
Hoạt động sử dụng vốn: Toàn bộ các hoạt động tạo nên bên “Tài sản (hình thành từ nguồn)” trong Bản cân đối tài sản của NHTM.
Hoạt động sử dụng vốn đầu tiên và chiếm tỷ trọng lớn của các NHTM là cho vay. Cho vay có thể được phân loại theo thời gian, theo đối tượng vay vốn, theo ngành nghề kinh doanh… Hoạt động cho vay trước đây thường đem lại thu nhập chiếm tỷ trọng lớn nhất cho ngân hàng.
Hoạt động nhận tiền gửi và cho vay đối với các khách hàng đã hình thành chức năng tạo tiền của ngân hàng, tham gia vào quá trình mở rộng lượng tiền cung ứng, góp phần tác động vào sự hình thành lãi suất, ảnh hưởng đến hoạt động của thị trường tài chính nói chung và thị trường chứng khoán nói riêng.
Tiếp theo đó là hoạt động đầu tư, một hoạt động tuy có quy mô và chiếm tỷ trọng nhỏ song cũng có ý nghĩa rất quan trọng đối với việc tạo điều kiện cho các NHTM thâm nhập sâu vào nền kinh tế.
Hoạt động quan trọng khác bên cạnh cho vay và đầu tư là chiết khấu, cầm cố các giấy tờ có giá. Ngay từ thời kỳ đầu, các ngân hàng đã chiết khấu thương phiếu mà thực tế là cho vay đối với các doanh nhân địa phương, những người bán các khoản phải thu cho ngân hàng để lấy tiền mặt.
Ngoài ra bên tài sản của NHTM còn có khoản mục ngân quỹ, trong đó có dự trữ bắt buộc và dự trữ vượt quá. Đó là số tiền các NHTM trước khi tiến hành cho vay và đầu tư phải dự trữ một phần nguồn vốn của mình để đảm bảo sự an toàn trong hoạt động kinh doanh. Khoản mục dự trữ bắt buộc sẽ gửi tại NHTW, phần còn lại được giữ tại ngân hàng trong tài khoản thanh toán. Đây chính là tồn quỹ nghiệp vụ của ngân hàng, những khoản sinh lời rất thấp nhưng lại có tính lỏng cao nhằm đảm bảo cho khả năng thanh toán và sự an toàn trong các hoạt động kinh doanh khác của Ngân hàng.
Các hoạt động sử dụng vốn còn lại của NHTM bao gồm: mua sắm tài sản cố định, thực hiện các hoạt động tài trợ, quảng cáo….chiếm tỷ trọng nhỏ và không trực tiếp mang lại lợi nhuận cho ngân hàng nhưng góp phần phát triển và quảng bá các hoạt động ngân hàng.
Hoạt động trung gian tài chính hay hoạt động tài trợ ngoại bảng của ngân hàng thương mại
Đây là những hoạt động rất cơ bản và chính là những hoạt động đầu tiên của một ngân hàng thương mại sơ khai.
Thực hiện trao đổi ngoại tệ: Lịch sử cho thấy một trong những dịch vụ ngân hàng đầu tiên được thực hiện là trao đổi ngoại tệ, đó là việc một ngân hàng đứng ra mua bán một loại tiền này để lấy một loại tiền khác và hưởng phí dịch vụ. Sự trao đổi đó rất quan trọng đối với khách đi du lịch hay những khách buôn từ địa phương khác đến.
Bảo quản vật có giá: Từ thời Trung Cổ, các ngân hàng đã bắt đầu thực hiện việc lưu trữ vàng và các vật có giá khác cho khách hàng trong kho bảo quản. Các giấy chứng nhận do ngân hàng ký phát cho khách hàng (ghi nhận về các tài sản đang được lưu giữ) có thể được lưu hành như tiền
Cung cấp các tài khoản giao dịch. Một dịch vụ mới, quan trọng trong thời kỳ cách mạng công nghiệp ở Châu Âu, Châu Mỹ là tài khoản tiền gửi giao dịch, một tài khoản tiền gửi cho phép người gửi tiền viết séc thanh toán cho việc mua hàng hoá và dịch vụ. Việc ra đời loại tài khoản tiền gửi này đã cải thiện đáng kể hiệu quả của quá trình thanh toán, làm cho các giao dịch kinh doanh trở nên dễ dàng hơn, nhanh chóng và an toàn hơn. Sau này với sự phát triển của tín dụng thương mại, các hình thức thanh toán không dùng tiền mặt đã không ngừng được phát triển, phương thức tổ chức thanh toán cho khách hàng và giữa các ngân hàng với nhau cũng đa dạng và thuận lợi hơn, nhờ đó làm tăng tốc độ chu chuyển tiền tệ của nền kinh tế, góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn vốn.
Ngoài ra các ngân hàng còn cung cấp các dịch vụ như bảo lãnh, uỷ thác, tài trợ thuê mua….ngày càng đáp ứng được tất cả các yêu cầu của khách hàng trong nền kinh tế.
1.1.2.2 Hoạt động đa dạng của ngân hàng thương mại hiện đại
Cùng với sự phát triển và yêu cầu của nền kinh tế, các ngân hàng thương mại truyền thống đã không ngừng đa dạng hoá và nâng cao chất lượng dịch vụ nhằm đáp ứng một cách tốt nhất nhu cầu của khách hàng, đồng thời trở thành những ngân hàng đa năng hiện đại.
So với các hoạt động truyền thống, hoạt động của NHTM đa năng có những khác biệt sau:
Hoạt động nguồn vốn và sử dụng vốn, nguồn vốn được huy động bằng nhiều hình thức hơn, đồng thời việc sử dụng vốn an toàn và hiệu quả hơn.
Nguồn vốn của NHTM đa năng vẫn bao gồm các khoản mục cơ bản như: vốn chủ sở hữu, vốn huy động và vốn vay nhưng cơ cấu vốn và phương thức huy động vốn đã có nhiều thay đổi. Các công cụ để huy động vốn đa dạng, phong phú hơn và đã chú trọng rất nhiều đến lợi ích khách hàng. Đặc biệt, các NHTM đã mở rộng và tăng cường huy động vốn thông qua thị trường chứng khoán bằng cách phát hành cổ phiếu, trái phiếu với các kỳ hạn khác nhau.
Chức năng cơ bản của hệ thống ngân hàng ngày nay là tạo ra và cung cấp các dịch vụ tài chính mà thị trường có nhu cầu. Trước đây, một trong những dịch vụ quan trọng, chiếm tỷ trọng lớn nhất là cho vay. Ngày nay các ngân hàng đã thực hiện được những khoản cho vay tài trợ đối với hoạt động đầu tư của các hãng kinh doanh hay tài trợ cho chi tiêu của các thành viên trong xã hội. NHTM đã mở rộng đối tượng cho vay từ chỗ chỉ ưu tiên cho các doanh nghiệp vay vốn để phục vụ sản xuất sang cho vay tiêu dùng. Những khoản vay này tạo ra công ăn việc làm và thu nhập cho hàng ngàn người. Mặc dù không phải tất cả những người này đều vay vốn ngân hàng nhưng chắc chắn họ là những người được hưởng lợi gián tiếp từ hoạt động cho vay. Các ngân hàng thương mại cũng có thể cho vay lẫn nhau. Tuy nhiên ngân hàng không thể sử dụng toàn bộ số vốn huy động để cho vay. Một mặt, hầu hết các khoản cho vay có tính thanh khoản thấp, ngân hàng không thể bán chúng trên thị trường một cách dễ dàng để đáp ứng nhu cầu tiền mặt. Một vấn đề khác nữa là những khoản cho vay thuộc nhóm tài sản của ngân hàng có mức rủi ro cao nhất như rủi ro do vỡ nợ cao nhất.
Vì tất cả những lý do trên, các ngân hàng đã phân chia danh mục tài sản của mình vào một số loại hình tài sản sinh lời khác: đầu tư chứng khoán, kinh doanh ngoại tệ, kinh doanh bất động sản . Ngân hàng chủ yếu đầu tư vào các loại chứng khoán sau: tín phiếu và trái phiếu chính phủ, tín phiếu và trái phiếu công ty, các loại chứng khoán nợ khác và một số loại cổ phiếu được pháp luật cho phép.
Về hoạt động trung gian, trước hết là tư vấn tài chính. Các NHTM thường được khách hàng yêu cầu thực hiện hoạt động tư vấn tài chính, đặc biệt là về tiết kiệm và đầu tư. Ngân hàng ngày nay cung cấp nhiều dịch vụ tư vấn tài chính đa dạng, từ chuẩn bị về thuế và kế hoạch tài chính cho các cá nhân đến tư vấn về các cơ hội thị trường trong và ngoài nước cho các khách hàng kinh doanh của họ. Ngoài ra, các ngân hàng còn quản lý việc thu và chi cho một công ty kinh doanh và tiến hành đầu tư phần thặng dư tiền mặt tạm thời vào các chứng khoán sinh lợi và tín dụng ngắn hạn cho đến khi khách hàng cần tiền mặt để thanh toán. Ngoài việc quản lý tiền mặt cho các tổ chức, còn một xu hướng khác là việc cung cấp các dịch vụ tương tự cho người tiêu dùng. Sở dĩ khuynh hướng này đang lan rộng là do các công ty môi giới chứng khoán đang cung cấp cho khách hàng tài khoản môi giới với hàng loạt dịch vụ tài chính liên quan. Các hoạt động khác như cho khách hàng kinh doanh thuê mua thiết bị, bán các dịch vụ bảo hiểm tín dụng cho khách hàng thông qua các liên doanh hoặc thoả thuận đại lý kinh doanh độc quyền, cung cấp dịch vụ môi giới đầu tư chứng khoán ở đó cung cấp cho khách hàng cơ hội mua cổ phiếu, trái phiếu và các chứng khoán khác, cung cấp dịch vụ ngân hàng đầu tư (bảo lãnh phát hành chứng khoán) và ngân hàng bán buôn cho các tập đoàn lớn…. đã đưa ngân hàng thực sự trở thành một “bách hoá tài chính”, cung cấp đầy đủ các dịch vụ tài chính cho phép khách hàng thoả mãn mọi nhu cầu tại một địa điểm. Nhìn chung, danh mục dịch vụ mà ngân hàng đa năng cung cấp đem lại sự thuận lợi rất lớn cho khách hàng và làm tăng thu nhập cho ngân hàng, cải thiện cơ cấu thu nhập của ngân hàng, tránh tập trung thu nhập chủ yếu từ hoạt động cho vay truyền thống, giảm rủi ro cho ngân hàng.
Về mặt cơ cấu tổ chức của một NHTM đa năng ngày nay cũng có khá nhiều thay đổi. Các NHTM được tổ chức dưới dạng các công ty đa quốc gia hay các tập đoàn tài chính, có trụ sở chính tại một nước nhưng có công ty thành viên tại nhiều nước.
1.1.3. Hoạt động của NHTM trên TTCK
1.1.3.1 Phát hành chứng khoán
Để phục vụ cho nhu cầu tăng vốn dài hạn, ngoài hình thức huy động các loại tiền gửi, vay NHTM khác trên thị trường tiền tệ liên ngân hàng… ngân hàng thương mại có thể huy động vốn thông qua việc phát hành cổ phiếu (đối với các ngân hàng thương mại cổ phần là tăng vốn điều lệ) và trái phiếu để vay tiền từ nền kinh tế. Việc các NHTM phát hành cổ phiếu, trái phiếu có ý nghĩa quan trọng: Một mặt nó góp phần tăng cung hàng hoá cho thị trường chứng khoán, là động lực giúp cho thị trường phát triển. Mặt khác nó là một kênh dẫn vốn quan trọng cho các NHTM để phục vụ mục tiêu tăng trưởng của nền kinh tế.
1.1.3.2 Đầu tư và kinh doanh chứng khoán
Với tiềm lực tài chính mạnh và khả năng sử dụng vốn ngắn hạn đầu tư dài hạn, các NHTM ngày nay không chỉ thực hiện vai trò là một trung gian tài chính - sử dụng nguồn vốn để cho vay hay biến các khoản tiết kiệm trong dân cư thành các khoản đầu tư của ngân hàng nhằm mục đích sinh lợi- mà còn tham gia trên TTCK với vai trò là nhà đầu tư trực tiếp. Hầu hết các NHTM đầu tư trên thị trường trái phiếu, đặc biệt là đối với trái phiếu Chính phủ, vốn đòi hỏi tầm nhìn đầu tư trung và dài hạn. Hoạt động đầu tư nhằm mục đích tăng thu nhập cho chính bản thân ngân hàng. Trên thực tế, một số lượng lớn trái phiếu chính phủ và công trái là NHTM mua. Thêm nữa, các ngân hàng còn thực hiện kinh doanh chứng khoán theo sự ủy thác của khách hàng. Song song với các hoạt động đầu tư là đầu cơ chứng khoán trên thị trường: tiến hành mua chứng khoán để bán chứng khoán tại các thời điểm khác nhau khi có sự biến động của thị giá chứng khoán.
Các hoạt động kinh doanh chứng khoán trực tiếp nói trên ngày càng được các ngân hàng chú trọng hơn vì chúng mang lại nhiều khoản thu nhập lớn cho ngân hàng. Khi đưa ra quyết định đầu tư vào các loại chứng khoán tại những thời điểm thích hợp, ngân hàng là người có lợi thế hơn bất kỳ một tổ chức, cá nhân nào khác vì có đầy đủ các cơ sở thông tin về doanh nghiệp phát hành chứng khoán, khả năng chuyên môn về phân tích thông tin, thẩm định năng lực tài chính tốt.
1.1.3.3 Bảo lãnh phát hành chứng khoán
Tại một số thị trường tài chính lớn trên thế giới, các trung gian tài chính, trong đó có các NHTM đóng vai trò quan trọng trên thị trường trái phiếu với tư cách là đại lý sơ cấp hoặc bảo lãnh phát hành. Ngoài ra, các doanh nghiệp cũng như các tổ chức Chính phủ khi muốn phát hành chứng khoán ra thị trường rất cần sự tư vấn của ngân hàng. Với độ tín nhiệm cao và tiềm lực tài chính mạnh, các NHTM có ưu thế lớn khi tham gia bảo lãnh phát hành. Dưới sự bảo lãnh bằng uy tín của các Ngân hàng thương mại lớn, chứng khoán sẽ được phát hành và đến với công chúng một cách dễ dàng hơn, qua đó tạo điều kiện thuận lợi cho các loại chứng khoán sớm được giao dịch tại thị trường cấp hai.
1.1.3.4 Môi giới, tư vấn đầu tư chứng khoán
Với chức năng là thủ quỹ của các doanh nghiệp, thực hiện kiểm soát và giám sát bằng đồng tiền đối với các hoạt động kinh tế quốc dân, các ngân hàng thương mại luôn có đầy đủ các thông thin và khả năng phân tích mọi mặt hoạt động sản xuất kinh doanh, tình hình tài chính, các nguồn tài trợ và cả xu hướng phát triển của các doanh nghiệp trong nền kinh tế. Vì vậy mà sự tư vấn của ngân hàng luôn có cơ sở thực tiễn, và thông tin thường chính xác, đáng tin cậy cho khách hàng. Đến với các ngân hàng thương mại, các cá nhân hay doanh nghiệp có nhu cầu đầu tư vào chứng khoán sẽ luôn có được những cơ hội tốt và những lựa chọn đầu tư đúng đắn, hiệu quả nhất.
1.1.3.5 Một số hoạt động khác
* Cho vay cầm cố chứng khoán
Xuất phát từ hình thức cho vay có tài sản đảm bảo, NHTM cho khách hàng của mình vay để mua chứng khoán và sử dụng ngay các chứng khoán mua được làm tài sản cầm cố cho khoản vay.
Để thực hiện các khoản vay cầm cố, khách hàng phải sử dụng tài khoản ký quỹ. Theo đó, khách hàng sẽ ký quỹ một số tiền nhất định để mua chứng khoán, phần còn lại khách hàng vay của NHTM. Đến kỳ hạn thoả thuận, khách hàng phải hoàn trả vốn vay cùng lãi cho NHTM. Trường hợp khách hàng không trả được nợ, NHTM có quyền bán chứng khoán cầm cố để thu hồi khoản vay.
Trong hoạt động cho vay cầm cố, rủi ro xảy ra đối với NHTM là chứng khoán cầm cố có thể bị giảm giá tới mức giá trị của chúng thấp hơn giá trị khoản vay cầm cố. Vì thế khi cho vay, NHTM phải có những nguyên tắc riêng để đảm bảo thu hồi vốn và tránh tập trung cho vay quá mức vào một khách hàng hay một loại chứng khoán nhất định. Hoạt động này thường đi kèm với hoạt động môi giới và hỗ trợ hoạt động môi giới của NHTM.
* Quản lý thu nhập từ chứng khoán cho khách hàng
Xuất phát từ hoạt động lưu ký chứng khoán, NHTM tổ chức theo dõi tình hình thu lãi chứng khoán khi đến hạn rồi gửi thông báo cho khách hàng. Tuy nhiên trên thực tế, các NHTM thường không trực tiếp quản lý thu nhập chứng khoán mà việc trả lãi chứng khoán do các tổ chức phát hành tự động chuyển thành chứng khoán tại trung tâm lưu ký chứng khoán thuộc sở giao dịch chứng khoán.
Ngoài việc quản lý thu nhập từ chứng khoán cho khách hàng, các NHTM còn quản lý số tiền đầu tư chứng khoán cho các nhà đầu tư chứng khoán.
* Quản lý quỹ đầu tư chứng khoán
Quỹ đầu tư chứng khoán là quỹ hình thành từ vốn góp của những người đầu tư, được uỷ thác cho các công ty quản lý quỹ đầu tư để quản lý và đầu tư vào chứng khoán nhằm mục đích phục vụ lợi ích cho những người đầu tư vào quỹ. Để hình thành một quỹ đầu tư chứng khoán, phải có một công ty quản lý quỹ đầu tư đứng ra thành lập quỹ huy động vốn