Hoạt động huy động vốn là nghiệp vụ truyền thống của các Ngân hàng thương mại cũng là nền tảng cho sự thịnh vượng và phát triển của Ngân hàng. Năng lực của đội ngũ nhân viên cũng như của các nhà quản lý Ngân hàng trong việc phát triển hoạt động huy động vốn là một thước đo quan trọng về sự chấp nhận của công chúng đối với Ngân hàng. Huy động vốn là cơ sở chính của các khoản cho vay và do đó là nguồn gốc sâu sa của lợi nhuận và sự phát triển trong ngân hàng.
Đứng trước sự cạnh tranh gay gắt của các Tổ chức tín dụng khác trên thị trường, Ngân hàng TMCP Sài Gòn Thương Tín ( Sacombank) nhận thấy cần phải tăng cường hoạt động huy động vốn để có thể đáp ứng nhu cầu vốn đối với sự phát triển của ngân hàng nói riêng và của xã hội nói chung. Do đó, hoạt động huy động vốn đã được chú trọng ngay từ khi thành lập đến nay. Sau 16 năm phát triển, hoạt động huy động vốn tại Ngân hàng Sài Gòn Thương Tín đã đạt được những kết quả nhất định.
Tuy nhiên, hoạt động huy động vốn tại Sacombank nói riêng và tại các ngân hàng cổ phần nói chung còn gặp nhiều hạn chế do sự phân biệt của người dân giữa ngân hàng quốc doanh với ngân hàng cổ phần và do chính bản thân ngân hàng. Do đó, vấn đề đặt ra đối với Sacombank là phải khắc phục những hạn chế đó để tăng cường hoạt động huy động vốn nhằm mục tiêu đáp ứng nhu cầu vốn cho sự phát triển của ngân hàng.
82 trang |
Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 4031 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Tăng cường hoạt động huy động vốn tại ngân hàng thương mại cổ phần Sài Gòn Thương Tín SacomBank, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
* * *
Trần Thị Diệu Hằng
TĂNG CƯỜNG HOẠT ĐỘNG HUY ĐỘNG VỐN TẠI
NGÂN HÀNG TMCP SÀI GÒN THƯƠNG TÍN
SACOMBANK
CHUYÊN NGÀNH: TÀI CHÍNH NGÂN HÀNG
LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. LÊ ĐỨC LỮ
HÀ NỘI, Năm 2008
TĂNG CƯỜNG HOẠT ĐỘNG HUY ĐỘNG VỐN TẠI NGÂN HÀNG TMCP SÀI GÒN THƯƠNG TÍN SACOMBANK
PHẦN MỞ ĐẦU
I – Sự cần thiết của đề tài
Hoạt động huy động vốn là nghiệp vụ truyền thống của các Ngân hàng thương mại cũng là nền tảng cho sự thịnh vượng và phát triển của Ngân hàng. Năng lực của đội ngũ nhân viên cũng như của các nhà quản lý Ngân hàng trong việc phát triển hoạt động huy động vốn là một thước đo quan trọng về sự chấp nhận của công chúng đối với Ngân hàng. Huy động vốn là cơ sở chính của các khoản cho vay và do đó là nguồn gốc sâu sa của lợi nhuận và sự phát triển trong ngân hàng.
Đứng trước sự cạnh tranh gay gắt của các Tổ chức tín dụng khác trên thị trường, Ngân hàng TMCP Sài Gòn Thương Tín ( Sacombank) nhận thấy cần phải tăng cường hoạt động huy động vốn để có thể đáp ứng nhu cầu vốn đối với sự phát triển của ngân hàng nói riêng và của xã hội nói chung. Do đó, hoạt động huy động vốn đã được chú trọng ngay từ khi thành lập đến nay. Sau 16 năm phát triển, hoạt động huy động vốn tại Ngân hàng Sài Gòn Thương Tín đã đạt được những kết quả nhất định.
Tuy nhiên, hoạt động huy động vốn tại Sacombank nói riêng và tại các ngân hàng cổ phần nói chung còn gặp nhiều hạn chế do sự phân biệt của người dân giữa ngân hàng quốc doanh với ngân hàng cổ phần và do chính bản thân ngân hàng. Do đó, vấn đề đặt ra đối với Sacombank là phải khắc phục những hạn chế đó để tăng cường hoạt động huy động vốn nhằm mục tiêu đáp ứng nhu cầu vốn cho sự phát triển của ngân hàng.
Để góp phần giải quyết vấn đề này, trên cơ sở kết hợp giữa nghiên cứu lý luận và thực tiễn, trong thời gian công tác tại Ngân hàng Sài Gòn Thương Tín tôi đã chọn đề tài “Tăng cường hoạt động huy động vốn tại Ngân hàng TMCP Sài Gòn Thương Tín”
II – Mục đích nghiên cứu của luận văn
Thông qua việc nghiên cứu nội dung các hình thức và thực trạng huy động vốn tại Ngân hàng Sài Gòn Thương Tín thời gian qua nhằm tìm ra những nguyên nhân làm hạn chế hoạt động huy động vốn từ đó đề xuất những giải pháp tăng cường hoạt động huy động vốn tại Sacombank trong thời gian tới.
III – Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu các phương thức huy động vốn của Ngân hàng thương mại trong nền kinh tế thị trường. Nghiên cứu thực trạng và khả năng huy động vốn của Ngân hàng Sài Gòn Thương Tín trong khoảng thời gian 3 năm từ năm 2005 đến năm 2007
IV – Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử, đồng thời kết hợp các phương pháp tổng hợp, tư duy lôgic kinh tế nhằm làm sáng tỏ những vấn đề đặt ra trong quá trình nghiên cứu.
V – Bố cục luận văn
Ngoài lời nói đầu và phần kết luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề cơ bản về huy động vốn của ngân hàng thương mại
Chương 2: Thực trạng huy động vốn tại Sacombank
Chương 3: Giải pháp nhằm tăng cường hoạt động huy động vốn tại Ngân hàng TMCP Sài Gòn Thương Tín
VI- Các công trình nghiên cứu trước đây
Đã có nhiều đề tài nghiên cứu để phát triển, tăng cường và mở rộng vốn tại các ngân hàng. Tuy nhiên, chưa có đề tài nào nghiên cứu các hình thức huy động vốn cũng như các giải pháp để tăng cường huy động vốn tại Ngân hàng Sài Gòn thương tín. Chính vì vậy mà luận văn này sẽ tập trung nghiên cứu các hình thức cũng như các phương thức huy động vốn tại Sacombank và từ đó đề ra các giải pháp nhằm tăng cường hoạt động vốn tại Ngân hàng này.
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ HUY ĐỘNG VỐN CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1 Các hoạt động cơ bản của Ngân hàng thương mại (NHTM):
NHTM có hoạt động gần gũi nhất với dân chúng và nền kinh tế. Trong các nước phát triển, hầu như không có công dân nào không có quan hệ giao dịch với một ngân hàng. Nền kinh tế càng phát triển, hoạt động và dịch vụ của NHTM càng đi vào tận cùng những ngõ ngách của nền kinh tế và đời sống của con người. Mọi công dân đều chịu tác động của ngân hàng, dù họ là khách hàng tiền gửi, một người vay hay đơn giản là người đang làm việc cho một doanh nghiệp có vay vốn và sử dụng dịch vụ của ngân hàng.
Nghiệp vụ ngân hàng nói chung bao gồm tất cả những việc mà ngân hàng thường làm trong khuôn khổ nghề nghiệp của họ. Tùy điều kiện kinh tế và mức độ phát triển kỹ thuật của mỗi nước, các hoạt động kinh doanh của NHTM có thể khác nhau về phạm vi và công nghệ. Nhưng nói chung, hoạt động của NHTM bao gồm:
Hoạt động huy động vốn
Hoạt động sử dụng vốn
Hoạt động trung gian khác
a) Hoạt động huy động vốn:
Đây là hoạt động khởi đầu tạo điều kiện cho sự hoạt động của ngân hàng. Huy động các nguồn vốn khác nhau trong xã hội để hoạt động là lẽ sống còn quan trọng nhất của NHTM
Huy động vốn từ vốn tự có
Vốn tự có là vốn riêng của ngân hàng do chủ sở hữu đóng góp và các quỹ của ngân hàng được hình thành trong quá trinh kinh doanh được thể hiện ở dạng lợi nhuận để lại.
Vốn tự có có thể được phân chia thành vốn cơ bản và vốn bổ sung.
Vốn tự có cơ bản bao gồm: cổ phẩn thường, vốn cổ phần ưu đãi, các quỹ dự trữ, quỹ dự phòng, lợi nhuận không chia và điều chỉnh tăng giá tài sản cố định, chứng khoán, thu nhập bất thường.
Vốn tự có bổ sung bao gồm cổ phần ưu đãi có thời hạn, trái phiếu trung hạn được chuyển đổi nhưng chỉ được phép dưới 50%
Nguồn này có tính ổn định cao, NHTM không phải hoàn lại và là điều kiện pháp lý, tài chính để thành lập ngân hàng và hoạt động kinh doanh. Nó là bộ phận nguồn vốn phản ánh quy mô, tầm cỡ của ngân hàng.
Các NHTM thường huy động nguồn này thông qua nghiệp vụ phát hành cổ phiếu, trái phiếu được chuyển đổi thành cổ phiếu, nhận vốn cấp phát từ ngân sách nhà nước.
Huy động vốn từ TCKT, cá nhân
Nguồn vốn chủ sở hữu thường có tỷ lệ nhỏ so với số tiền mà NHTM sử dụng trong hoạt động kinh doanh. Vì vậy, phần lớn là NHTM phải huy động từ TCKT, cá nhân. Đây là khoản mục duy nhất trên bảng cân đối kế toán giúp phân biệt ngân hàng với các loại hình doanh nghiệp khác.Và là cơ sở chính của các khoản vay, do đó nó là nguồn gốc sâu xa của lợi nhuận và sự phát triển trong ngân hàng.
Dựa vào tính khả dụng vốn thì NHTM có thể huy động dưới các hình thức sau:
Tiền gửi không kỳ hạn: là loại tiền gửi hoàn toàn theo quy tắc khả dụng, nghĩa là người gửi có quyền rút tiền vào bất kỳ lúc nào họ muốn. Mục đích của khách hàng là muốn sử dụng các tiện ích của NHTM cung ứng
Tiền gửi có kỳ hạn: là loại tiền gửi có sự thỏa thuận về thời gian rút tiền giữa khách hàng và ngân hàng. Trong thời gian này có quyền chủ động sử dụng tiền do khách hàng ký gửi. Nếu khách hàng muốn rút tiền trước thời hạn thì phải được sự đồng ý của ngân hàng.
Tiền gửi tiết kiệm: là loại tiền gửi với mục đích hưởng lãi, và được huy động dưới nhiều hình thức
Nguồn vay mượn:
Sau khi đã sử dụng hết vốn, nhưng vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu cho vay vốn của khách hàng, hoặc đáp ứng nhu cầu thanh toán và chi trả của khách hàng, các NHTM có thể sử dụng nghiệp vụ đi vay ở ngân hàng TW, ở các NHTM khác, vay ở thị trường tiền tệ, vay các tổ chức nước ngoài... Vốn đi vay thông thường chiếm tỷ trọng không lớn trong kết cấu nguồn vốn. Tuy nhiên nó rất cần thiết và có vị trí quan trọng để đảm bảo cho ngân hàng hoạt động kinh doanh một cách bình thường.
Huy động từ các nguồn khác
NHTM có thể huy động vốn thông qua nghiệp vụ ngân hàng đại lý, ngân hàng phục vụ... uy tín của ngân hàng là cơ sở quan trọng để mở rộng nguồn vốn này.
b) Hoạt động sử dụng vốn:
Hoạt động sử dụng vốn của NHTM tập trung ở ba nghiệp vụ chính: dự trữ, cho vay và đầu tư.
Dự trữ:
Dự trữ là nghiệp vụ nhằm duy trì khả năng thanh toán của ngân hàng để đáp ứng nhu cầu chi trả cho khách hàng vì người gửi có thể rút tiền bất kỳ lúc nào. Đây là khoản mục không được sử dụng vào mục đích sinh lời, gần như không tạo ra lợi nhuận nhưng lại đóng vai trò hết sức quan trọng vì nó là nguồn thanh khoản chủ yếu của ngân hàng. Mức dự trữ này cao hay thấp phụ thuộc vào quy mô hoạt động của NHTM, mối quan hệ thanh toán và chuyển khoản, thời vụ của các khoản chi trả tiền mặt.
Dự trữ có thể tồn tại ở các dạng: tiền mặt tại quỹ của ngân hàng, tiền gửi tại các tổ chức tín dụng khác và chứng khoán ngắn hạn, những tài sản có tính lỏng cao.
Cho vay:
Cho vay là hoạt động kinh doanh chủ chốt của NHTM để tạo ra lợi nhuận, hay cho vay là bộ phận tài sản có đem lại lợi nhuận chủ yếu cho ngân hàng, thường chiếm 80-90% trong tổng tài sản có.
Trong nền kinh tế, luôn có những người tạm thời thừa vốn và có những người có nhu cầu sử dụng vốn vượt quá số vốn họ có. Họ đến với nhau thông qua môi giới trung gian là ngân hàng. Qua ngân hàng, người thừa vốn thấy đồng tiền của mình cũng có khả năng sinh lợi và sẽ được nhận về một khoản tiền lớn hơn, còn người thiếu vốn sẽ được thỏa mãn nhu cầu về vốn. Chênh lệch giữa mức lãi suất tiền gửi (khoản lợi của người gửi tiền) và lãi suất cho vay (chi phí cho việc sử dụng tiền của người vay) hình thành nên thu nhập của ngân hàng.
Kinh tế càng phát triển, lượng cho vay của các NHTM càng tăng nhanh và loại hình cho vay cũng càng trở nên vô cùng đa dạng. Đồng thời cũng tạo rất nhiều rủi ro cho ngân hàng thương mại.
Đầu tư:
Ngân hàng có thể tìm kiếm con đường sinh lợi cho mình bằng những hoạt động đầu tư, có thể là đầu tư trực tiếp, hoặc đầu tư gián tiếp hoặc cả hai. Với đầu tư trực tiếp, ngân hàng góp vốn liên doanh, liên kết, đầu tư vào trang thiết bị... chủ động tham gia vào hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Còn đầu tư gián tiếp, tùy vào mục đích của mình mà ngân hàng sẽ đầu tư vào những loại chứng khoán khác nhau. Tuy nhiên, nó cũng chứa nhiều rủi ro, vì vậy NHTM cần phân tích kỹ lưỡng trước khi lựa chọn loại chứng khoán để đầu tư.
Hoạt động trung gian:
Nền kinh tế càng phát triển, các dịch vụ ngân hàng theo đó cũng phát triển theo để đáp ứng yêu cầu ngày càng đa dạng của công chúng. Thực hiện các hoạt động trung gian mang tính dịch vụ sẽ đem lại cho các NHTM những khoản thu nhập khá quan trọng, và sẽ giúp NHTM phát triển toàn diện. Nghiệp vụ trung gian gồm rất nhiều loại dịch vụ ngân hàng khác nhau như: dịch vụ chuyển tiền, dịch vụ thu hộ chi hộ, dịch vụ chi lương cho các doanh nghiệp, bảo quản hộ tài sản, dịch vụ môi giới tư vấn, dịch vụ bảo lãnh phát hành chứng khoán...
Tóm lại: Nghiệp vụ kinh doanh của NHTM là rất đa dạng và phong phú song tựu chung lại, nghiệp vụ chính của ngân hàng vẫn là hoạt động liên quan đến huy động vốn, sử dụng vốn. Để có thể hoạt động được, NHTM buộc phải có một số vốn nhất định để duy trì hai loại họat động này. Vì vậy, ta có thể nói huy động vốn là một phần hoạt động chủ yếu của NHTM.
1.2 Vốn trong hoạt động của Ngân hàng thương mại
1.2.1 Khái niệm cơ bản về vốn của Ngân hàng thương mại
Vốn của NHTM là những giá trị tiền tệ do NHTM tạo lập hoặc huy động, dùng để cho vay, đầu tư hoặc thực hiện các dịch vụ kinh doanh khác.
Thực chất của nguồn vốn ngân hàng thương mại là một bộ phận thu nhập quốc dân tạm thời nhàn rỗi trong quá trình sản xuất, phân phối và tiêu dùng mà người chủ sở hữu chúng gửi vào ngân hàng với mục đích khác nhau.
1.2.2 Phân loại vốn của Ngân hàng thương mại
Ta có thể chia vốn của NHTM thành 3 loại như sau:
1.2.2.1 Vốn chủ hay còn gọi là vốn tự có
Vốn tự có chiếm một tỷ trọng nhỏ trong tổng nguồn vốn của Ngân hàng, nhưng do tính chất thường xuyên ổn định của nó Ngân hàng có thể chủ động sử dụng vào các mục đích khác nhau như: trang bị cơ sở vật chất, tạo tài sản cố định và đặc biệt tham gia đầu tư góp vốn liên doanh. Mặt khác, với chức năng bảo vệ, vốn tự có được coi như tài sản đảm bảo gây lòng tin với khách hàng, duy trì khả năng thanh toán trong trường hợp Ngân hàng gặp nhiều thua lỗ. Vốn tự có còn là một trong những căn cứ quyết định đến quy mô, khối lượng vốn huy động của Ngân hàng.
Vốn tự có của NHTM bao gồm các thành phần cơ bản:
a) Vốn điều lệ:
Vốn điều lệ là mức vốn được quy định trong điều lệ của Ngân hàng, tối thiểu phải bằng vốn pháp định. Đây là điều kiện quyết định để Ngân hàng được phép thành lập và hoạt động. Tuỳ theo tính chất sở hữu của từng Ngân hàng mà nguồn vốn này được hình thành một cách khác nhau. Trong quá trình hoạt động, vốn điều lệ của Ngân hàng được tăng dần lên do việc trích lập các quỹ từ lợi nhuận ròng của Ngân hàng chuyển sang.
b) Nguồn vốn dự trữ từ các quỹ:
Quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ: Quỹ này được trích theo luật định để đảm bảo dần dần bổ sung vào vốn điều lệ, đáp ứng được yêu cầu mở rộng hoạt động kinh doanh phù hợp với sự phát triển của nền kinh tế. Nó được trích ra hàng năm từ lợi nhuận ròng của Ngân hàng theo một tỷ lệ nhất định cho đến khi đạt đến một mức nào đó thì có thể xin NHTW cho chuyển vào bổ sung vốn điều lệ.
Quỹ dự trữ bù đắp rủi ro: cũng được trích từ lợi nhuận ròng hàng năm của Ngân hàng theo một tỷ lệ nhất định. Mục đích của quỹ này là để bù đắp vào những rủi ro có thể xảy ra trong quá trình hoạt động của Ngân hàng, đảm bảo tránh việc phá sản cho Ngân hàng.
c) Nguồn vốn tự có khác:
Nguồn này bao gồm các khoản như: lợi nhuận chưa chia của Ngân hàng, các khoản Nhà nước tài trợ, các tổ chức xã hội, phi chính phủ tài trợ, việc tăng thêm do định giá lại tài sản..
1.2.2.2 Vốn nợ
a) Vốn huy động:
Vốn huy động là những giá trị tiền tệ mà Ngân hàng huy động được từ các tổ chức kinh tế và các cá nhân trong xã hội thông qua quá trình thực hiện các nghiệp vụ Ngân hàng.
b) Vốn vay:
Vốn đi vay là mối quan hệ vay mượn giữa Ngân hàng thương mại với Ngân hàng Nhà nước, hoặc giữa các Ngân hàng thương mại với nhau hay các tổ chức tín dụng khác. Sau khi đã sử dụng hết vốn, nhưng vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu cho vay vốn của khách hàng, hoặc đáp ứng nhu cầu thanh toán và chi trả của khách hàng, các NHTM có thể sử dụng nghiệp vụ đi vay ở Ngân hàng TW, ở các NHTM khác, vay ở thị trường tiền tệ, vay các tổ chức nước ngoài… Vốn đi vay thông thường chiếm tỷ trọng không lớn trong kết cấu nguồn vốn. Tuy nhiên nó rất cần thiết và có vị trí quan trọng để đảm bảo cho ngân hàng hoạt động kinh doanh một cách bình thường.
c) Vốn khác:
Vốn khác bao gồm vốn trong thanh toán, vốn uỷ thác. Ngoài ra, các NHTM có thể huy động vốn thông qua nghiệp vụ ngân hàng đại lý, ngân hàng phục vụ…
1.2.3 Vai trò của vốn và công tác huy động vốn đối với NHTM
Một trong những vấn đề đáng lưu tâm nhất của hệ thống ngân hàng trong vài năm gần đây là việc tăng và duy trì vốn chủ sở hữu ở mức hợp lý. Thuật ngữ “vốn chủ sở hữu” có một ý nghĩa đặc biệt với ngân hàng, vốn thực hiện một số chức năng không thể thay thế trong hoạt động ngân hàng, như cung cấp những nguồn lực ban đầu để giúp ngân hàng mới thành lập hoạt động, cung cấp nền tảng cho sự tăng trưởng và mở rộng, giúp ngân hàng chống lại rủi ro, duy trì niềm tin của công chúng và của các cổ đông vào khả năng quản lý và phát triển ngân hàng.
Vốn chủ sở hữu của một ngân hàng thương mại đóng vai trò sống còn trong việc duy trì các hoạt động thường nhật và đảm bảo cho ngân hàng khả năng phát triển lâu dài.
Thứ nhất: Vốn đóng vai trò là một tấm đệm giúp chống lại rủi ro phá sản vì vốn giúp trang trải những thua lỗ về tài chính và nghiệp vụ cho tới khi ban quản lý có thể tập trung giải quyết các vấn đề và đưa ngân hàng trở lại trạng thái sinh lời.
Thứ hai: Vốn là điều kiện bắt buộc để ngân hàng có được giấy phép tổ chức và hoạt động trước khi nó có thể huy động được những khoản tiền gửi đầu tiên. Một ngân hàng mới luôn cần vốn ban đầu để mua đất, xây dựng cơ sở hạ tầng, trang bị những điều kiện làm việc, thuê nhân viên thậm chí ngay cả trước ngày hoạt động chính thức.
Thứ ba: Vốn tạo niềm tin cho công chúng và là sự đảm bảo đối với chủ nợ ( gồm cả người gửi tiền) về sức mạnh tài chính của ngân hàng. Ngân hàng cần phải đủ mạnh để có thể đảm bảo với những người đi vay rằng ngân hàng có thể đáp ứng nhu cầu tín dụng của họ ngay cả trong điều kiện nền kinh tế đang gặp khó khăn.
Thứ tư: Vốn cung cấp năng lực tài chính cho sự tăng trưởng và phát triển của các hình thức dịch vụ mới, cho những chương trình và trang thiết bị mới. Khi một ngân hàng phát triển, nó cần vốn bổ sung để thúc đẩy tăng trưởng và chấp nhận rủi ro gắn với sự ra đời những dịch vụ mới và những trang thiết bị mới. Hầu hết các ngân hàng đều mở rộng và phát triển cơ sở vật chất so với lúc đầu và sự bổ sung vốn sẽ cho phép ngân hàng mở rộng trụ sở, xây dựng thêm những văn phòng chi nhánh để theo kịp với sự phát triển của thị trường và tăng cường chất lượng phục vụ khách hàng.
Cuối cùng, vốn được xem như một phương tiện điều tiết sự tăng trưởng, giúp đảm bảo rằng sự tăng trưởng của một ngân hàng có thể được duy trì ổn định, lâu dài. Cả các cơ quan quản lý ngân hàng và thị trường tài chính đều đòi hỏi rằng vốn ngân hàng cần phải được phát triển tương ứng với sự tăng trưởng của danh mục cho vay và của những tài sản rủi ro khác. Do đó, “tấm đệm” dùng để chống đỡ những thua lỗ cần phải được củng cố, bổ sung tương xứng với quy mô rủi ro của ngân hàng. Một ngân hàng mở rộng quá nhanh hoạt động huy động vốn và cho vay sẽ nhận được dấu hiệu của thị trường và của các cơ quan quản lý yêu cầu kiềm chế tốc độ tăng trưởng hoặc ngân hàng cần phải bổ sung thêm vốn.
Nếu vốn chủ sở hữu là tiền đề ban đầu cho sự hoạt động ban đầu của ngân hàng thì vốn huy động là nhân tố không thể thiếu để một ngân hàng tồn tại và phát triển. Vốn huy động là cơ sở chính của các khoản cho vay và do đó, nó là nguồn gốc sâu xa của lợi nhuận và sự phát triển trong ngân hàng. Khi huy động vốn, ngân hàng phải duy trì dự trữ bắt buộc và sau khi trừ đi các khoản dự trữ để đảm bảo khả năng thanh toán, ngân hàng có thể cho vay phần huy động còn lại. Khả năng huy động vốn với mức lãi suất hợp lý cũng như khả năng đáp ứng các yêu cầu xin vay là những chỉ số đánh giá tính hiệu quả trong quản lý ngân hàng. Các nhà quản lý ngân hàng cần phải làm gì để đảm bảo rằng ngân hàng luôn luôn có đủ vốn để đáp ứng những nhu cầu tín dụng cũng như các dịch vụ tài chính khác mà xã hội yêu cầu.
Nhận thức rõ vai trò của vốn đối với NHTM từ đó công tác huy động vốn được quan tâm tương xứng và cũng có ý nghĩa sống còn đối với NHTM.
1.3 Các hình thức huy động vốn của Ngân hàng thương mại
1.3.1 Huy động vốn chủ sở hữu
Nguồn vốn chủ sở hữu là nguồn vốn trung và dài hạn, đóng vai trò nền tảng, là cơ sở để thu hút những nguồn vốn khác. Tuy nó chiếm một tỷ trọng không lớn trong cơ cấu nguồn vốn của NHTM nhưng nó có ý nghĩa quyết định tới sự thành bại và phát triển của ngân hàng.
Vốn chủ sở hữu có thể được xem xét dưới các góc độ sau:
a) Vốn pháp định: Điều kiện hàng đầu để khởi nghiệp trước khi được phép khai trương ngân hàng là phải có đủ vốn ban đầu theo luật định. Ở Việt Nam, để thành lập một NHTM trước hết phải có đủ vốn pháp định theo mức quy định của Ngân hàng Nhà nước.
Vốn pháp định của mỗi ngân hàng được hình thành do tính chất sở hữu của ngân hàng quyết định. Theo quy định của Việt Nam có thể khái quát như sau:
Nếu là NHTM thuộc sở hữu Nhà nước, vốn pháp định do ngân sách Nhà nước cấp 100% vốn ban đầu.
Nếu là NHTM cổ phần, vốn pháp định do sự đóng góp của các cổ đông dưới hình thức phát hành cổ phiếu.
Cổ phiếu ngân hàng là chứng chỉ đầu tư vốn, nó xác nhận phần hùn của người sở hữu cổ phiếu trong ngân hàng. Người sở hữu cổ phiếu được gọi là cổ đông, là chủ sở hữu vốn và có trách nhiệm về mặt pháp lý trong phạm vi của vốn góp. Cổ đông không được rút vốn khỏi ngân hàng bằng cách trả lại cổ phiếu cho ngân hàng, cổ đông được chia lãi theo tỷ lệ vốn góp vào ngân hàng, nhưng phải chịu mọi rủi ro mà ngân hàng gặp phải. Cổ phiếu không kỳ hạn, tồn tại cùng với sự tồn tại của ngân hàng phát hành.
Đầu tiên, cổ phiếu có ghi tên người sở hữu, gọi là cổ phiếu ký danh. Hình thức này có nhược điểm là khi muốn chuyển nhượng cho người khác phải được Hội đồng quản trị cho phép, điều này gây trở gại cho việc lưu thông cổ phiếu trên thị trường chứng khoán. Và vậy, đến thế kỷ 18, cổ phiếu vô danh ra đời và sang thế kỷ 19 thì cổ phiếu vô danh gần như hoàn