Luận văn Tăng cường quản lý Nhà nước bằng pháp luật về xuất bản ở Việt Nam hiện nay

Xuất bản có vai trò quan trọng đặc biệt trong đời sống xã hội nói chung, văn hóa nói riêng. Các quan hệ xã hội về xuất bản rất đa dạng, phong phú và phức tạp. Nó đan xen giữa văn hóa - tư tưởng với kinh tế, giữa lao động sáng tạo của tư duy với lao động sản xuất vật chất, nó xuyên suốt quá trình sản xuất - lưu thông và tiêu dùng xuất bản phẩm. Hoạt động xuất bản là kênh thông tin quan trọng để tuyên truyền đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước, góp phần ổn định chính trị, phát triển văn hóa và kinh tế, nâng cao dân trí, đời sống tinh thần của nhân dân. Do đó, tăng cường quản lý nhà nước (QLNN) về xuất bản là vấn đề quan trọng luôn được Đảng và Nhà nước ta quan tâm. Sau khi Cách mạng tháng 8 thành công, tháng 11 năm 1946 Quốc hội họp khóa thứ 2 đã thông qua Hiến pháp, bảo đảm các quyền tự do dân chủ cho nhân dân, trong đó có quyền tự do xuất bản: "Công dân Việt Nam có quyền tự do ngôn luận, tự do xuất bản.". Kể từ đó, Đảng và Nhà nước ta luôn có những bổ sung, sửa đổi các chủ trương, đường lối QLNN đối với xuất bản nhằm phát triển kinh tế - xã hội. Hoạt động QLNN bằng pháp luật về xuất bản đã có những đổi mới đáng kể, mang lại những kết quả tích cực, đặc biệt là từ khi Luật xuất bản 1993 có hiệu lực thi hành và hiện nay là Luật xuất bản 2004. Tuy nhiên, QLNN đối với xuất bản ở nước ta hiện nay vẫn còn nhiều hạn chế: Mô hình tổ chức và cơ chế chính sách cho hoạt động xuất bản còn nhiều bất cập, hoạt động xuất bản có những khó khăn, thách thức gay gắt, một số nhà xuất bản chỉ chú ý đến lợi ích kinh tế đơn thuần, coi nhẹ chức năng, nhiệm vụ chính trị, văn hóa; xuất hiện một số xuất bản phẩm có nội dung không lành mạnh, không phù hợp với truyền thống văn hóa Việt Nam, bị dư luận phê phán; một bộ phận khác hoạt động kém hiệu quả, kém năng động, còn nặng về trông chờ, bao cấp. Nạn in lậu, in trái phép chưa được ngăn chặn, xử lý kịp thời, thị trường xuất bản phẩm chưa được quản lý chặt chẽ, hệ thống phát hành xuất bản phẩm Nhà nước không được quan tâm, củng cố đúng mức, đang có nguy cơ bị thu hẹp, nhất là ở miền núi, vùng sâu, vùng xa

pdf77 trang | Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 2491 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Tăng cường quản lý Nhà nước bằng pháp luật về xuất bản ở Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN: Tăng cường quản lý Nhà nước bằng pháp luật về xuất bản ở Việt Nam hiện nay Lời mở đầu 1. Lý do chọn đề tài Xuất bản có vai trò quan trọng đặc biệt trong đời sống xã hội nói chung, văn hóa nói riêng. Các quan hệ xã hội về xuất bản rất đa dạng, phong phú và phức tạp. Nó đan xen giữa văn hóa - tư tưởng với kinh tế, giữa lao động sáng tạo của tư duy với lao động sản xuất vật chất, nó xuyên suốt quá trình sản xuất - lưu thông và tiêu dùng xuất bản phẩm. Hoạt động xuất bản là kênh thông tin quan trọng để tuyên truyền đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước, góp phần ổn định chính trị, phát triển văn hóa và kinh tế, nâng cao dân trí, đời sống tinh thần của nhân dân... Do đó, tăng cường quản lý nhà nước (QLNN) về xuất bản là vấn đề quan trọng luôn được Đảng và Nhà nước ta quan tâm. Sau khi Cách mạng tháng 8 thành công, tháng 11 năm 1946 Quốc hội họp khóa thứ 2 đã thông qua Hiến pháp, bảo đảm các quyền tự do dân chủ cho nhân dân, trong đó có quyền tự do xuất bản: "Công dân Việt Nam có quyền tự do ngôn luận, tự do xuất bản...". Kể từ đó, Đảng và Nhà nước ta luôn có những bổ sung, sửa đổi các chủ trương, đường lối QLNN đối với xuất bản nhằm phát triển kinh tế - xã hội. Hoạt động QLNN bằng pháp luật về xuất bản đã có những đổi mới đáng kể, mang lại những kết quả tích cực, đặc biệt là từ khi Luật xuất bản 1993 có hiệu lực thi hành và hiện nay là Luật xuất bản 2004. Tuy nhiên, QLNN đối với xuất bản ở nước ta hiện nay vẫn còn nhiều hạn chế: Mô hình tổ chức và cơ chế chính sách cho hoạt động xuất bản còn nhiều bất cập, hoạt động xuất bản có những khó khăn, thách thức gay gắt, một số nhà xuất bản chỉ chú ý đến lợi ích kinh tế đơn thuần, coi nhẹ chức năng, nhiệm vụ chính trị, văn hóa; xuất hiện một số xuất bản phẩm có nội dung không lành mạnh, không phù hợp với truyền thống văn hóa Việt Nam, bị dư luận phê phán; một bộ phận khác hoạt động kém hiệu quả, kém năng động, còn nặng về trông chờ, bao cấp. Nạn in lậu, in trái phép chưa được ngăn chặn, xử lý kịp thời, thị trường xuất bản phẩm chưa được quản lý chặt chẽ, hệ thống phát hành xuất bản phẩm Nhà nước không được quan tâm, củng cố đúng mức, đang có nguy cơ bị thu hẹp, nhất là ở miền núi, vùng sâu, vùng xa. Nghị quyết Hội nghị lần thứ IX - Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX đã chỉ rõ: "Công tác quản lý báo chí, truyền hình, Internet, xuất bản vẫn còn nhiều lơi lỏng, kém hiệu lực". Từ những hạn chế trên đòi hỏi chúng ta phải tăng cường QLNN đối với xuất bản. Tăng cường QLNN đối với xuất bản được tiến hành trên nhiều phương diện. Pháp luật xuất bản là công cụ quan trọng nhất trong QLNN về xuất bản. Tuy nhiên, thực tế thời gian qua cho thấy: Bên cạnh những mặt ưu điểm, tích cực, pháp luật xuất bản còn chung chung, mang tính nguyên tắc, lạc hậu, không phù hợp với thực tiễn hoạt động xuất bản hiện nay. Văn bản pháp luật ban hành nhiều, nhưng một số quy định còn chồng chứo, khác biệt nhau;... Chính vì vậy, tăng cường QLNN bằng pháp luật về xuất bản là một đòi hỏi khách quan, vừa có ý nghĩa cấp thiết vừa mang ý nghĩa lâu dài. Từ những lý do trên, tác giả chọn đề tài: "Tăng cường quản lý Nhà nước bằng pháp luật về xuất bản ở Việt Nam hiện nay" để nghiên cứu luận văn thạc sĩ. 2. Tình hình nghiên cứu Trong thời gian qua, số công trình nghiên cứu được công bố về quản lý xuất bản không nhiều. Hai đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ do Phân viện Báo chí và tuyên truyền thuộc Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh chủ trì tiếp cận từ góc độ quản lý chung. Đó là đề tài: "Đổi mới phương thức xuất bản sách trong điều kiện kinh tế thị trường" và đề tài: "Nâng cao hiệu lực quản lý Nhà nước đối với hoạt động xuất bản sách ở nước ta hiện nay". Luận án phó tiến sĩ của nghiên cứu sinh Đường Vinh Sường về: "Đổi mới quản lý Nhà nước đối với hoạt động của các nhà xuất bản trong bước chuyển sang cơ chế thị trường". Tiến sĩ Vũ Mạnh Chu với đề tài: "Pháp luật về xuất bản ở Việt Nam, quá trình thực hiện và đổi mới trong điều kiện cơ chế thị trường định hướng XHCN". Các công trình trên chỉ mới nghiên cứu những khía cạnh có liên quan tới QLNN bằng pháp luật đối với xuất bản, mà chưa có công trình nào nghiên cứu một cách đầy đủ cả về mặt lý luận và thực tiễn về QLNN bằng pháp luật đối với xuất bản. Có thể nói, luận văn này là công trình đầu tiên được nghiên cứu tương đối hệ thống và toàn diện vấn đề tăng cường QLNN bằng pháp luật về xuất bản ở Việt Nam hiện nay. Điều này chứng tỏ vấn đề đặt ra là cấp thiết, nhưng rất khó khăn và phức tạp. 3. Mục đích, nhiệm vụ, phạm vi nghiên cứu của luận văn - Mục đích nghiên cứu: Nghiên cứu những vấn đề lý luận của việc QLNN bằng pháp luật về xuất bản, đánh giá thực trạng của hoạt động này trong những năm vừa qua ở Việt Nam. Trên cơ sở đó, đưa ra những phương hướng và giải pháp nhằm tăng cường QLNN bằng pháp luật về xuất bản ở Việt Nam hiện nay. - Nhiệm vụ nghiên cứu: Để đạt được những mục đích trên, luận văn đặt ra những nhiệm vụ sau: + Xây dựng khái niệm và chỉ ra những đặc điểm của QLNN bằng pháp luật đối với xuất bản. Phân tích vai trò, nội dung của QLNN bằng pháp luật về xuất bản ở Việt Nam hiện nay. + Đánh giá những kết quả đạt được, cũng như những hạn chế cơ bản của QLNN bằng pháp luật về xuất bản ở Việt Nam trong những năm vừa qua và chỉ ra những nguyên nhân của hạn chế đó. + Đưa ra những quan điểm có tính định hướng và một số giải pháp cụ thể như: Hoàn thiện hệ thống pháp luật về xuất bản; kiện toàn và đổi mới phương thức QLNN bằng pháp luật đối với xuất bản; nâng cao trình độ năng lực của cán bộ;... Nhằm tăng cường QLNN bằng Pháp về xuất bản ở Việt Nam hiện nay. - Phạm vi nghiên cứu: Hoạt động xuất bản gồm 3 lĩnh vực: Xuất bản, in; phát hành. Mỗi lĩnh vực có một vị trí, đặc trưng riêng, song không thể tách rời nhau. Bởi thế luận văn phải nghiên cứu việc QLNN bằng pháp luật trên cả ba lĩnh vực, nhưng lấy việc nghiên cứu QLNN bằng pháp luật về xuất bản, trong đó xuất bản sách là trọng tâm. Luận văn giới hạn nghiên cứu QLNN bằng pháp luật về xuất bản kể từ năm 1993 trở lại đây. 4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu - Cơ sở lý luận: Luận văn được thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quand diểm của Đảng ta về QLNN bằng pháp luật đối với văn hóa nói chung và hoạt động xuất bản nói riêng. - Phương pháp nghiên cứu: Luận văn được thực hiện bằng phương pháp nghiên cứu của triết học duy vật biện chứng, duy vật lịch sử; những phương pháp kết hợp lý luận và thực tiễn; phân tích và tổng hợp lịch sử cụ thể; cùng một số phương pháp khác của khoa học quản lý. 5. Đóng góp mới về khoa học của luận văn Luận văn nghiên cứu toàn diện những vấn đề lý luận cơ bản của quản lý Nhà nước bằng pháp luật đối với hoạt động xuất bản. Từ đó, luận văn xác định những nội dung cụ thể trong lĩnh vực xuất bản cần có sự QLNN bằng pháp luật. Trên cơ sở đó, luận văn phân tích, đánh giá thực trạng QLNN bằng pháp luật về xuất bản ở Việt Nam hiện nay và đưa ra những đề xuất nhằm tăng cường hơn nữa việc QLNN bằng pháp luật đối với hoạt động xuất bản. 6. ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần cung cấp thêm những cơ sở khoa học cho hoạt động nghiên cứu lý luận về QLNN bằng pháp luật về xuất bản. Có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho hoạt động nghiên cứu, học tập trong hệ thống các trường chính trị. Đặc biệt, những kết quả đó có ý nghĩa góp phần tăng cường QLNN về xuất bản ở nước ta hiện nay. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và tài liệu tham khảo, luận văn gồm có 3 chương, 8 tiết. Chương 1 Cơ sở lý luận của quản lý nhà nước bằng pháp luật về xuất bản ở Việt Nam hiện nay 1.1. Khái niệm, đặc điểm, vai trò của quản lý nhà nước bằng pháp luật về xuất bản ở Việt Nam hiện nay 1.1.1. Khái niệm quản lý nhà nước bằng pháp luật về xuất bản 1.1.1.1. Khái niệm và đặc điểm cơ bản của quản lý nhà nước Trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, con người muốn tồn tại và phát triển đều phải nhờ vào sự hỗ trợ của một tổ chức, từ một nhóm nhỏ đến phạm vi rộng lớn hơn ở tầm quốc gia, quốc tế và chịu một sự quản lý nào đó. Hiện nay, có rất nhiều định nghĩa khác nhau về quản lý, có người cho rằng quản lý là hoạt động nhằm bảo đảm sự hoàn thành công việc thông qua sự nỗ lực của người khác. Có người cho quản lý là một hoạt động thiết yếu bảo đảm phối hợp những nỗ lực cá nhân nhằm đạt được mục đích của nhóm. Người khác lại cho rằng quản lý là sự điều hành, điều khiển, chỉ huy;... Tuy nhiên, quan niệm do các nhà điều khiển học đưa ra là quan niệm được nhiều giới công nhận: Quản lý là sự tác động có định hướng bất kỳ lên một hệ thống nào đó nhằm trật tự hóa nó và hướng nó phát triển phù hợp với những quy luật nhất định. Quản lý xã hội là một loại hình của quản lý nói chung. Theo quan niệm này thì: Quản lý xã hội là sự tác động có định hướng (chỉ huy, điều hành, hướng dẫn...) lên các quá trình xã hội và hành vi hoạt động của con người làm cho chúng vận động và phát triển phù hợp với quy luật, đạt được mục đích và theo ý chí của người quản lý. Trong công tác quản lý nói chung và quản lý xã hội nói riêng, dù có nội dung phức tạp đến đâu cũng luôn phải bao gồm các yếu tố cơ bản sau: Thứ nhất, yếu tố con người. Theo Các Mác: "Bản chất của con người là tổng hòa các mối quan hệ xã hội". Mọi sự phát triển của xã hội đều thông qua hoạt động của con người. Do đó, đánh giá đúng về con người, hiểu được tâm lý, nguyện vọng của con người thì hoạt động quản lý mới thực hiện được quan điểm "vì con người, do con người". Thứ hai, yếu tố chính trị. Là việc một người, nhiều người, hay một cơ quan, một tổ chức đặt ra các mục tiêu, đường lối và tạo ra một môi trường chính trị nhằm đạt được những mục tiêu đặt ra. Thứ ba, yếu tố quyền uy. Đó là tổng thể của quyền lực và uy tín. Quyền lực là công cụ để quản lý, nó bao gồm hệ thống pháp luật, điều lệ, kỷ luật, kỷ cương;... hoạt động theo một nguyên tắc nhất định, có sự phân công rõ ràng trên cơ sở khoa học quản lý; uy tín là phẩm chất đạo đức, bản lĩnh chính trị, kiến thức, năng lực của người quản lý. Thứ tư, yếu tố thông tin. Trong công tác quản lý, thông tin là căn cứ để ra quyết định và tổ chức thực hiện quyết định có hiệu quả. Từ những vấn đề trên, chúng ta có thể hiểu QLNN: "là sự tác động, tổ chức và điều chỉnh bằng quyền lực Nhà nước đối với các quá trình xã hội và hành vi hoạt động của con người; duy trì và phát triển các mối quan hệ xã hội và trật tự pháp luật để thực hiện chức năng và nhiệm vụ của Nhà nước trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa". QLNN có thể hiểu theo nghĩa rộng và nghĩa hẹp. Theo nghĩa rộng: QLNN là hoạt động của toàn thể bộ máy nhà nước nhằm thực hiện chức năng đối nội và đối ngoại. Như vậy, hoạt động của tất cả các cơ quan nhà nước (Quốc hội, Chính phủ, các Bộ, cơ quan ngang Bộ, Hội đồng nhân dân, ủy ban nhân dân, Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân các cấp) đều là hoạt động QLNN. Theo nghĩa hẹp: QLNN là sự tác động có tổ chức và điều chỉnh bằng quyền lực nhà nước đối với các quá trình xã hội và hành vi hoạt động của con người do các cơ quan hành chính Nhà nước (còn gọi là cơ quan quản lý Nhà nước) thực hiên để duy trì và phát triển các mối quan hệ xã hội và trật tự pháp luật nhằm thực hiện các chức năng, nhiệm vụ nhà nước. Như vậy, QLNN là hình thức biểu hiện và thực hiện quyền làm chủ của nhân dân lao động, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, đó là tính chính trị của QLNN và là quyền lợi chính trị của nhân dân. Từ khái niệm QLNN như trên chúng ta hiểu rằng không phải quản lý nào cũng là QLNN, và Nhà nước quản lý toàn bộ các lĩnh vực của đời sống xã hội không có nghĩa là các cơ quan QLNN điều chỉnh mọi khía cạnh của đời sống xã hội, mà chỉ điều chỉnh các khía cạnh do luật định. Với quan niệm trên, QLNN là một dạng quản lý đặc biệt, thể hiện ở các đặc trưng sau: Một là: QLNN mang tính chất quyền lực Nhà nước. QLNN được thực hiện dựa trên cơ sở quyền lực nhà nước. Quyền lực nhà nước mang tính mệnh lệnh đơn phương đòi hỏi phải được chấp hành nghiêm chỉnh, mọi người bình đẳng, không cho phép bất cứ ai dựa vào quyền thế để làm trái với các quyết định quản lý. Đảng ta đã chỉ rõ: "Quản lý đất nước bằng pháp luật, chứ không chỉ bằng đạo lý. Pháp luật là thể chế hóa đường lối, chủ trương của Đảng, thể hiện ý chí của nhân dân, phải được thống nhất quản lý trong cả nước. Tuân theo pháp luật là chấp hành chủ trương chính sách của Đảng". Việc quản lý bằng pháp luật đòi hỏi các cơ quan, các cán bộ, công chức trong tổ chức và hoạt động điều hành phải căn cứ vào luật, phải làm theo đúng quy trình pháp luật, phải đảm bảo nguyên tắc pháp chế và phải kết hợp đúng đắn giữa pháp lý và đạo lý. Muốn tăng cường pháp chế, quản lý đất nước bằng pháp luật, phải có 4 điều kiện: - Phải xây dựng, bổ sung, hoàn chỉnh hệ thống pháp luật. - Phải tuyên truyền, giáo dục pháp luật, tổ chức thực hiện pháp luật. - Phải tiến hành cuộc đấu tranh cương quyết, không khoan nhượng chống các hành vi vi phạm pháp luật ở bất cứ cấp nào, cương vị nào. - Phải kết hợp chặt chẽ, đồng bộ ba loại biện pháp là: hành chính, kinh tế, giáo dục. Pháp luật là công cụ quản lý của Nhà nước. Vì vậy, để QLNN đối với xã hội có hiệu quả thì pháp luật phải đúng đắn. Nghĩa là pháp luật phải xuất phát từ đường lối chính trị trong từng thời kỳ, phải phù hợp với các quy luật khách quan, phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh thực tế của đất nước. Hai là: QLNN mang tính tổ chức và điều chỉnh là chủ yếu. Tổ chức là một khoa học về sự thiết lập các mối quan hệ xã hội giữa con người, giữa các tập thể để thực hiện một quá trình quản lý xã hội. Tổ chức được hình thành do nhu cầu quản lý, nó phải hoạt động và hoạt động có hiệu quả. Trong QLNN chức năng tổ chức là quan trọng, vì không có tổ chức thì không quản lý được. Nhà nước phải tổ chức hợp lý để mỗi người đều có một vị trí tích cực và đóng góp đối với xã hội. Lênin đã từng viết: "Để quản lý tốt cần phải biết tổ chức về mặt thực tiễn" [18, tr.101]. QLNN nhằm tác động, điều chỉnh bằng pháp luật và các quyết định, quản lý dưới hình thức các quy chế, tiêu chuẩn, biện pháp;... nhằm tạo sự phù hợp giữa các chủ thể và khách thể quản lý, tạo sự cân bằng, cân đối giữa các mặt hoạt động của các quá trình xã hội và hành vi hoạt động của con người. Ba là: QLNN mang tính khoa học, kế hoạch. Hoạt động QLNN là hoạt động mang tính chủ quan của con người, nhưng dựa trên những yêu cầu khách quan. Vì vậy, QLNN phải mang tính khoa học, chủ động, sáng tạo trong việc điều hành, phối hợp, huy động mọi lực lượng, phát huy sức mạnh tổng hợp để tổ chức lại nền sản xuất xã hội và cuộc sống của con người trên địa bàn mình theo sự phân công, phân cấp, đúng thẩm quyền, đúng nguyên tắc tập trung dân chủ. Trong QLNN được quyền năng động, sáng tạo để tổ chức thực hiện pháp luật, nhưng không trái với đường lối, chính sách của Đảng và pháp luật của nhà nước. QLNN cũng cần phải có mục tiêu chiến lược, có chương trình, kế hoạch để thực hiện mục tiêu. Vì vậy, đòi hỏi các cơ quan QLNN phải có kế hoạch dài hạn, trung hạn và hàng năm. Có chỉ tiêu định hướng chủ yếu, có biện pháp cân đối để thực hiện chỉ tiêu, để hoàn thành có hiệu quả các chương trình mục tiêu chiến lược của nhà nước. Bốn là: Hoạt động QLNN mang tính liên tục và ổn định. Sự tác động của QLNN phải thực hiện liên tục, thường xuyên, các quyết định QLNN phải tương đối ổn định, tránh sự thay đổi quá nhanh chóng và phải được giữ gìn. Đây là một đặc điểm quan trọng thể hiện tính trách nhiệm của nhà nước đối với xã hội, với nhân dân. Nhà nước là người thay mặt cho nhân dân, là công cụ mạnh mẽ của nhân dân lao động thực hiện quyền lực chính trị. Do đó, mọi quyết định quản lý phải phù hợp với lợi ích, nguyện vọng chính đáng của nhân dân. Chỉ như vậy và khi đạt được như vậy thì các quyết định quản lý nhà nước mới có hiệu lực và hiệu quả, mới trở thành hiện thực cuộc sống. 1.1.1.2. Khái niệm quản lý nhà nước bằng pháp luật về xuất bản Trong quá trình thực hiện quản lý, Nhà nước sử dụng nhiều công cụ quản lý khác nhau. Mỗi một công cụ có vai trò, vị trí độc lập tương đối và được sử dụng phù hợp với hoàn cảnh, thời điểm nhất định của hoạt động quản lý. Hiến pháp 1992 của nước ta đã ghi nhận: "Nhà nước thống nhất quản lý nền kinh tế quốc dân bằng pháp luật, kế hoạch, chính sách..." [35, tr.22]. Như vậy Hiến pháp cũng đã công nhận có nhiều công cụ QLNN. Tuy nhiên, với những đặc thù riêng của mình, pháp luật có khả năng triển khai trên quy mô rộng các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước một cách có hệ thống, nhanh và hiệu quả nhất. Quyền lực của Nhà nước trong quản lý xã hội đã được ghi nhận và pháp luật. Dựa trên cơ sở pháp luật, Nhà nước phát huy quyền lực, kiểm tra, kiểm soát hoạt động của các tổ chức, cơ quan, nhân viên nhà nước và mọi công dân. Pháp luật còn quy định nguyên tắc tổ chức, hoạt động, quyền hạn và nghĩa vụ của các cơ quan, nhân viên nhà nước, trên cơ sở đó Nhà nước tự hoàn thiện mình. Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đã khẳng định: "Trăm điều phải có thần linh pháp quyền" [34, tr.438]. Như vậy, chúng ta có thể khẳng định rằng: pháp luật là công cụ quan trọng nhất của QLNN. Quá trình ra đời, tồn tại và phát triển của Nhà nước gắn liền với sự ra đời, tồn tại và phát triển của pháp luật. Điều 12 - Hiến pháp 1992 của nước ta khẳng định: "Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật" [35, tr.17]. Để dùng pháp luật tác động vào các quan hệ xã hội, Nhà nước phải xây dựng, ban hành ra pháp luật. Có thể nói, xây dựng pháp luật là: "mắt khâu đầu tiên của cơ chế QLNN bằng pháp luật" [22, tr.301]. Sau đó, Nhà nước phải tổ chức thực hiện pháp luật, tức là các cơ quan Nhà nước dựa trên cơ sở pháp luật để điều chỉnh các quá trình xã hội, hành vi của các tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, của công dân... nhằm thực hiện các mục tiêu kinh tế, chính trị, xã hội mà Nhà nước đề ra. Và cuối cùng, Nhà nước phải tiến hành các hoạt động bảo vệ pháp luật, xử lý các hành vi vi phạm pháp luật, bảo đảm cho pháp luật được thực hiện nghiêm minh trong đời sống, nhằm giữ gìn an ninh, trật tự xã hội. QLNN bằng pháp luật được thực hiện trên nhiều lĩnh vực của đời sống. Trong mỗi một lĩnh vực quản lý, Nhà nước tác động vào những nhóm quan hệ xã hội cơ bản bằng hệ thống pháp luật tương ứng. Bởi vậy, QLNN bằng pháp luật về xuất bản cũng chỉ là một nội dung của QLNN bằng pháp luật về xuất bản được hiểu theo hai nghĩa rộng và hẹp. Theo nghĩa rộng: QLNN bằng pháp luật về xuất bản và toàn bộ hoạt động của bộ máy nhà nước dựa trên cơ sở pháp luật xuất bản để điều chỉnh mọi hoạt động trong lĩnh vực xuất bản, bảo đảm cho hoạt động xuất bản phát triển đúng định hướng và có hiệu quả. Cụ thể là hoạt động của cả ba hệ thống cơ quan nhà nước: cơ quan quyền lực nhà nước; cơ quan hành chính nhà nước; cơ quan tư pháp. Đối với cơ quan quyền lực: Quốc hội ban hành các văn bản pháp luật xuất bản, như: Luật xuất bản; các nghị quyết về xuất bản. Đồng thời, dựa trên các quy định của pháp luật, Quốc hội thực hiện các hoạt động QLNN đối với xuất bản, như: thực hiện quyền quyết định, giám sát tối cao đối với hoạt động xuất bản; quyết định các kế hoạch và chính sách phát triển sự nghiệp xuất bản trong phạm vi cả nước... Đối với cơ quan hành chính: Chính phủ thống nhất QLNN về hoạt động xuất bản trong phạm vi cả nước. Để QLNN bằng pháp luật về xuất bản, Chính phủ đã ban hành các văn bản dưới luật như: Nghị quyết, Nghị định, Quyết định, Chỉ thị về xuất bản. Bộ Văn hóa - Thông tin chịu trách nhiệm giúp Chính phủ thực hiện thống nhất QLNN về hoạt động xuất bản; các bộ, cơ quan ngang bộ phối với Bộ Văn hóa - Thông tin thực hiện QLNN về hoạt động xuất bản theo thẩm quyền; ủy ban cấp tỉnh thực hiện QLNN về hoạt động xuất bản
Luận văn liên quan