Cũng như thân thể người ta là một tập hợp đầy đủ những bộ phận, mỗi bộ
phận là kết quả của một cuộc tiến hóa qua các thời kì tiền sử, ta phải nghĩ
rằng tinh thần của ta cũng có một tổ chức tương tự thế. Tinh thần cũng như
thể chất của ta, không thể là một cái gì không có quá khứ, lịch sử của nó”
[80; tr.96]. Lời khẳng định trên của Jung đã nhấn mạnh đến tính lịch sử, tính
di truyền của vô thức. Tinh thần con người chúng ta hôm nay có nền móng từ
những yếu tố “phi ý thức thời tiền sử”, những “vết tích bàn cổ” trong quá khứ
xa thẳm loài người. Đặt cái nhìn đó vào thơ Bùi Giáng, ta thấy những yếu tố
nguyên thủy, “vết tích bàn cổ” hãy còn ăn sâu trong tiềm thức con người hiện
đại. Và hiện thân của Đất, Nước trong thơ Bùi Giáng chính là tiếng nói ngàn
xưa đã được bảo chứng
32 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 2396 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Thơ Bùi Giáng dưới lăng kính phê bình cổ mẫu, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Luận văn cao học
“Thơ Bùi Giáng dưới lăng
kính phê bình cổ mẫu"
MỤC LỤC
Trang
MỤC LỤC
DẪN NHẬP
1. Lí do chọn đề tài 1
2. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu 2
3. Lịch sử vấn đề 4
4. Phương pháp nghiên cứu 18
5. Đóng góp của luận văn 19
6. Cấu trúc luận văn 20
CHƯƠNG 1: Phê bình cổ mẫu
1.1 Khái niệm và lịch sử 21
1.1.1 Khái niệm 21
1.1.2 Lịch sử 30
1.2 Phương pháp 46
1.2.1 Nguyên tắc và tiêu chí của phê bình cổ mẫu 46
1.2.2 Các thao tác cơ bản của phê bình cổ mẫu 53
1.2.3 Ý nghĩa thực tiễn
Ưu điểm và giới hạn của phương pháp 56
CHƯƠNG 2: Cổ mẫu tự nhiên trong thơ Bùi Giáng
2.1 Tiếng gọi ngàn xưa 58
v Cổ mẫu Đất 59
v Cổ mẫu Nước 78
2.2 Thiên đường ngưỡng vọng 96
v Cổ mẫu Vườn 97
CHƯƠNG 3: Cổ mẫu xã hội trong thơ Bùi Giáng
3.1 Tình yêu siêu năng 116
v Cổ mẫu Linh âm (Anima) 116
3.2 Đường về bản thể 139
v Cổ mẫu Tự ngã (Self) 139
KẾT LUẬN 152
PHỤ LỤC 1: Tác phẩm đã in của Bùi Giáng 157
PHỤ LỤC 2: Một số hình ảnh liên quan đến Bùi Giáng 160
PHỤ LỤC 3: Một số sáng tác của bạn hữu về Bùi Giáng 170
THƯ MỤC THAM KHẢO 181
2.1 Tiếng gọi ngàn xưa
“Cũng như thân thể người ta là một tập hợp đầy đủ những bộ phận, mỗi bộ
phận là kết quả của một cuộc tiến hóa qua các thời kì tiền sử, ta phải nghĩ
rằng tinh thần của ta cũng có một tổ chức tương tự thế. Tinh thần cũng như
thể chất của ta, không thể là một cái gì không có quá khứ, lịch sử của nó”
[80; tr.96]. Lời khẳng định trên của Jung đã nhấn mạnh đến tính lịch sử, tính
di truyền của vô thức. Tinh thần con người chúng ta hôm nay có nền móng từ
những yếu tố “phi ý thức thời tiền sử”, những “vết tích bàn cổ” trong quá khứ
xa thẳm loài người. Đặt cái nhìn đó vào thơ Bùi Giáng, ta thấy những yếu tố
nguyên thủy, “vết tích bàn cổ” hãy còn ăn sâu trong tiềm thức con người hiện
đại. Và hiện thân của Đất, Nước trong thơ Bùi Giáng chính là tiếng nói ngàn
xưa đã được bảo chứng.
Thật vậy, Đất từ rất lâu đời đã trở thành một biểu tượng lớn trong văn hóa
nhân loại tinh khôn (homo sapiens). Không biết tự bao giờ nơi chúng ta sinh
được gọi là Trái Đất. Quả đất tròn như bầu sữa mẹ, như chiếc nôi đưa nhân
loại lớn khôn từng ngày. Và Nước cũng vậy, là một biểu tượng thiêng kỳ mỹ
từng tạo nên những nền văn minh vĩ đại sông Nin, sông Ấn, sông Hằng…
Nước cũng đồng thời gắn bó song hành cùng Đất tạo thành cặp đôi khắng
khít Đất Nước. Nói chung, Đất và Nước hay Đất Nước mỗi khi nhắc đến
luôn gợi lên những khái niệm chung, lớn lao, cổ xưa hay truyền thống. Đặt
chân lên Đất, chạm tay vào Nước hay đứng giữa lòng Đất Nước là chúng ta
đang đón lấy ký ức hàng ngàn năm của dân tộc, dòng giống. Nên tìm hiểu về
Đất, Nước cũng đồng nghĩa chúng ta tìm hiểu, lắng nghe tiếng nói ngàn xưa
của tổ tiên, nguồn cội.
v Cổ mẫu Đất:
(…)
v Cổ mẫu Nước:
Nước là một đặc tính thơ Bùi Giáng. Thơ ông tràn ngập Nước, ở bất cứ
nơi nào ta cũng có thể tìm thấy: biển, sông, giòng, nguồn, suối, khe, mưa,
sương… Tên những tập thơ cũng đã âm vang lời của Nước: Mưa nguồn,
Ngàn thu rớt hột, Như sương, Rớt hột phiêu bồng hoặc gợi liên hệ đến Nước:
Bài ca quần đảo, Lá hoa cồn, Tuyết băng vô tận xứ, Rong rêu.
Nước, cũng như Đất, là bản nguyên vũ trụ (Prakriti), là một trong bốn
yếu tố vật chất khởi thủy (materia prima): Đất, Nước, Lửa, Khí tạo nên sự
sống loài người. Nhưng khác với Đất ở tính thô rắn, ổn định, bền vững,
Nước tỏ ra mềm mại, tùy biến và luân chuyển (chạy dọc, uốn lượn, bao
quanh Đất hay tràn xuống, luồn sâu, phân tỏa). Khác với Lửa khô nóng, trực
tính, Nước bẩm sinh đã ẩm ướt, dung hòa (làm dịu Lửa, cũng như có thể làm
dịu các hợp chất khác trở nên bớt nóng, bớt lạnh, bớt nồng, bớt đậm…). Và
Nước (H2O) cũng mang trong lòng nó dưỡng Khí oxi - hơi thở sự sống. Có
thể thấy, trước hết Nước là một khối vật chất khổng lồ chưa phân hóa với “số
lượng vô cùng lớn của những khả năng diễn biến” [6; tr.709] và sau là vô
vàn hình thức, trạng thái tồn tại đi cùng những thuộc tính phức tạp của nó.
Biển, Sông, Hồ, Đầm, Giếng, Mương, Rạch,… là những hình thức tồn tại tự
nhiên của Nước. (Bên cạnh là những hình thức tồn tại nhân tạo do con người
thiết kế chứa nước như ao, kênh, ruộng, bể…). Và các trạng thái phẳng lặng,
êm ái, lặng lẽ, lững lờ, chảy tương đối, chảy mạnh, chảy xiết, cuộn xoáy, bao
vây, nhấn chìm, nuốt chửng, dâng cao, hạ thấp, xuôi dòng, ngược dòng, bào
mòn, bồi đắp…, tất cả đều thể hiện tính cách và tính khí của nước. Một cách
khái quát, Nước có tính dương tính âm, tính nam tính nữ và cả lưỡng tính.
Bởi có khi Nước mạnh mẽ, hung bạo như Lũ Lụt, có khi hiền hòa như Sương
và cũng có lúc trung tính như Mưa. Nước cũng có nước mặn, nước ngọt và
nước lợ. Và có lúc Nước thuần khiết, trong trẻo, mát lành (nước giếng), có
lúc vẫn đục, đen xỉn (nước tự ô nhiễm), có lúc nóng bỏng (nước ở khu vực
thỗ nhưỡng đặc biệt tạo ra nước nóng) hay băng giá (nước đóng băng). Cũng
như có nơi Nước ở thể lỏng (chiếm đa số), có nơi sệt đặc (đầm lầy) hoặc đông
cứng (hai cực trái đất)… Nhưng dù Nước có muôn hình vạn trạng sao đi chăng
nữa, ý nghĩa tượng trưng về Nước trong đời sống nhân loại vẫn quy về ba chủ
đề lớn: nguồn sống, phương tiện thanh tẩy và trung tâm tái sinh (theo Từ điển
biểu tượng văn hóa thế giới, tr.709). Thật vậy, “quả trứng” Trái Đất chúng ta
hai phần ba đã là nước. Cơ thể chúng ta và các loài có sự sống khác cũng vậy,
nước chiếm ưu thế trong sinh thể. Nước chính là mầm sống của mọi mầm
sống. Từ trong sâu xa, chính Nước đã làm nên vũ trụ bởi chức năng duy trì sự
sống và vai trò tạo ra mùa màng, phúc lộc sinh sôi nảy nở cho muôn loài trên
mặt đất. Con người tìm về với Nước cũng đồng nghĩa tìm về nguồn cội:
Đầm mình trong nước để rồi đi ra mà không tự hòa tan hết vào trong đó, trừ
khi do một cái chết tượng trưng, đó là trở về cội nguồn, tự tiếp nguồn cho
mình trong kho dự trữ tiềm năng rộng mênh mông và lấy ở đó một sức mạnh
mới: là một bước thoái lui và tan rã nhất thời, tạo tiền đề cho một bước tiến
lên để tái thống hợp và tái sinh [6; tr.709].
Nước vì thế còn là phương tiện thanh tẩy, trung tâm tái sinh. Ví như việc tắm
hay rửa tội, thụ pháp của con người là những minh chứng sống động cho
điều đó. Tắm để bắt đầu một cuộc đời mới cho trẻ sơ sinh và tắm khi chết,
trước khi chôn cất để có thể tái sinh một cuộc đời mới mai sau. Trẻ em Kitô
giáo cũng được làm lễ rửa tội để xóa tội tổ tông (tội của Adam và Eva không
nghe lời Thiên Chúa) và bắt đầu làm một con chiên ngoan đạo của Chúa.
Người sắp thụ pháp (teleutai) cũng cần phải tắm để tẩy trần, chuẩn bị tâm
hồn cho một cõi sống mới. Nói cách khác, người được thụ pháp phải chết đi
(teleutai có nghĩa là làm chết) ở cõi này và tái sinh ở cõi khác, trong đó động
thái tắm là tự dìm chết mình, quay về trạng thái ban đầu như cái thai nằm
trong tử cung người mẹ… Có thể nói, câu chuyện của Nước hay liên quan
Nước còn vô vàn trong lịch sử nhân loại: nước phán xét (đại hồng thủy dìm
chết người có tội và những người lương thiện được con tàu Noel cứu sống;
một số bộ lạc, bộ tộc trừng phạt tội lỗi bằng cách thả người trôi sông hoặc cột
đá vào người quăng xuống nước), nước trừ tà, nước chữa bệnh, nước trường
thọ…; nước còn liên quan đến rượu (rượu giao bôi, tiễn biệt), liên quan đến
máu (rượu nho là máu Thánh dưỡng nuôi tâm hồn người Kitô giáo)… Nói
chung Nước với muôn khả năng đáng trọng và đáng sợ trong tâm thức con
người đã khiến người ta vừa quý vừa nghi ngại, cảnh giác cao với nước. Tính
chất nước đôi của Nước có lẽ là sự lý giải hợp lý cho sự đối nghịch này.
Trong văn hóa, văn học Việt Nam, Nước có mặt khắp nơi, phong phú và đa
dạng. Từ trận Lụt dữ dội trong huyền thoại Quả bầu mẹ và pho sử thi Mường
Đẻ đất đẻ nước, nhân loại được tái tạo qua biểu tượng quả bầu mẹ và cây si.
Tiếp đến, Nước tạo mầm sống thụ thai cho những nhân vật phi thường, dị
biệt (Thánh Gióng, Sọ Dừa… được sinh ra sau khi người Mẹ uống hoặc giẫm
nguồn nước lạ), Nước làm con người cải lão hoàn đồng (ông bà lão tiều phu
uống nước tiên vào trẻ lại – chuyện dân gian Việt Nam), Nước tăng sức
mạnh cho người anh hùng chiến đấu (Đam săn uống nước suối trước khi giao
chiến để tăng thể lực - sử thi Êđê)… Nước còn gắn với các yếu tố khác: núi
non, con sông, chiếc cầu… tạo nên khung cảnh thơ mộng, đậm tình: “Đường
vô xứ Nghệ quanh quanh. Non xanh nước biếc như tranh họa đồ” (ca dao),
“Lòng quê dờn dợn vời con nước. Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà”
(Huy Cận), “Bên cầu tơ liễu bóng chiều thướt tha” (Nguyễn Du)… Nước
cũng là nguồn cảm hứng bất tận cho những ngành nghệ thuật khác như âm
nhạc, hội họa. Chúng ta khó mà kể hết vô số nhạc phẩm có hình bóng nước
trong đó: Chảy đi sông ơi (Phó Đức Phương), Trở về dòng sông tuổi thơ
(Hoàng Hiệp), Sông quê (Đinh Trầm Ca)… Và những cơn mưa, dòng sông,
bến nước, con đò… cũng là mỹ cảnh phổ biến cho tranh nghệ thuật Việt
Nam… Song ở một bình diện nào đó, Nước trong văn học Việt Nam vẫn
đượm buồn. Đối với người Việt chúng ta, chưa cần ra đến biển thì sông cũng
đã để lại quá nhiều buồn bã và đau đớn (như Bờ đã nói). Có lẽ vì vậy mà
Nước trong thơ ca dù có đẹp vẫn buồn man mác:
Mưa có tạnh nhưng chân trời còn mãi
Những giọt sương là lệ ở trong mây
Giòng sông đi cho nước nói ngàn ngày
Rằng bể rộng không bến bờ em ạ
(Không thể gọi – Mưa nguồn)
Khảo sát Nước trong thơ Bùi Giáng, trên bình diện chung, Nước mang nét
mặt nguyên thủy: Cội nguồn sự sống nhưng thấm đẫm nỗi buồn. Ám ảnh trực
diện nhất là biểu tượng Mưa, bởi Mưa trong thơ Bùi Giáng không bình
thường như bất kì cơn mưa nào xưa nay. Đó là: Ngàn thu rớt hột, Rớt hột
phiêu bồng, Bây giờ mưa dứt hột, Rớt hột bây giờ, Trời xa rớt hột, Trang mờ
rớt hột, thân em như hột mưa sa, tự trời rớt hột quan san, tự trời rớt hột lim
dim, tự trời rớt hột mù sa… “Hột”mưa chứ không phải “hạt” mưa, “rớt” chứ
không phải “rơi” và “hột” mưa gắn liền các hình ảnh, từ ngữ gợi lên cái
buồn: ngàn thu, trời xa, trang mờ, phiêu bồng, mưa sa… Có thể thấy, Mưa
trong thơ Bùi Giáng là sự đan xen cả vui lẫn buồn, cả hài lẫn bi với môtíp chủ
đạo “hột”mưa, tần số xuất hiện: 145 lần. Về loại từ, “hột” là từ bình dân
(trang trọng: hạt) và là từ địa phương (miền Trung và Nam). Về âm, hột tượng
hình hơn, mang lại một hình ảnh tròn đầy. Về nghĩa, hột là cái lõi bên trong
của quả, có thể ươm thành mầm sống mới. Dân gian hay nói bóc trần, bóc cho
lòi hột ra… nên hột cũng có nghĩa trần trụi, bản chất thật. Người Nam bộ còn
dùng hột thay cho trứng (hột gà, hột vịt, hột vịt lộn). Ngôn ngữ thơ Bùi Giáng
vẫn thường trần trụi và rất thật như thế, kiểu như “Em vốn xưa kia là/ Ngồi hè
em đi tiểu/ Em vốn xưa kia là/ Trong lúc đó thấy anh” (Vốn xưa kia là – Màu
hoa trên ngàn). Những người vui tính cũng thường hay đùa: “vũ khí hột
nhân”, “con cá lợn”, còn Bùi Giáng là hột mưa. Cách nói “bóc trần” và có vẻ
“ngược đời” này vừa mang tính nghịch đùa vừa thể hiện cái lắt léo, trớ trêu
trong thơ Bùi Giáng. Sinh thời, nhà thơ từng tự nhận mình là đứa trẻ thích đùa,
trong tiểu sử tự ghi ông viết: 1971-75-93 “rong chơi như hài nhi (con nít)”
[76; tr.165]. Nên nhà thơ dường như cũng mang cái khí chất tinh nghịch, táo
bạo của cha ông ta ngày xưa khi qua giữa đàng trêu ghẹo con gái: “Cô kia cắt
cỏ bên sông/ Có muốn ăn nhãn thì lồng sang đây”- ca dao). Nhưng sự tinh
nghịch của người đời và cha ông ta làm nên nụ cười và duyên tình, còn Bùi
Giáng thì đùa ra nước mắt và cảnh báo về mất mát:
Bây giờ mưa dứt hột sa
Ngớt tầm tã gội tuôn hoa trôi nguồn
Rừng ong gấu lạnh ghê hồn
Một lần đối diện là khôn gắn hàn
(Bây giờ mưa dứt hột – Ngàn thu rớt hột)
Ngàn thu rớt hột bây giờ
Ngẩng nghe gái núi bước hờ hững sương
Hùm voi rồng ngục tù mương
Khe nào hang hở dồn hương xuống đời
(Rớt hột bây giờ – Màu hoa trên ngàn)
Âm hưởng đọng lại của những dòng thơ trên là: hoài vọng và nuối tiếc,
nghẹn ngào và đắng lòng. Bây giờ mưa mới dứt hột sa, bây giờ ngàn thu
mới rớt hột về… thì tất cả đã tuôn hoa trôi nguồn, gái núi đã bước đi hờ
hững và rừng thiêng trở nên lạnh giá, cho những khe hang hở dồn hương
xuống đời… Hướng về quá khứ, Cội nguồn vẫn là tiếng nói chủ đạo trong
thơ Bùi Giáng: “Tôi vốn xưa kia là/ Ngàn thu tôi rớt hột/ Tôi vốn xưa kia là/
Mưa nguồn cồn lá hoa”, “Tôi vốn xưa kia là/ Sợ mất hột sương hoa”, “Tôi
vốn xưa kia là/ Mò mẫm giữa đêm khuya/ Tôi vốn xưa kia là/ Mơ cái hột
xiêm mềm” (Vốn xưa kia là – Màu hoa trên ngàn). Giọng thơ cứ nửa đùa
nửa thật như trạng thái nửa mơ nửa tỉnh của nhà thơ. Giữa đêm khuya, nhà
thơ “mò mẫm” đường về quá khứ tìm “cái hột xiêm mềm”, lý do “sợ mất”
(sợ mất hột sương hoa). “Chàng” Đười Ươi đã thõng đôi tay dài của mình
vào quá khứ để cố níu về một chân trời hồng khiết: “Chân trời nảy hột hồng
tô/ Đầu khe suối chảy nước vô trong rừng” (Chết trong hang – Lá hoa cồn).
“Hột hồng tô” là hột gì, chỉ biết loại hột lạ lùng này chỉ có trong thơ Bùi
Giáng. “Hột mưa” đã đành nhưng còn hột hồng tô, hột xiêm mềm, hột
sương hoa? Ở đây có những ám ảnh về sex (rất gần với biểu tượng Khe
được trình bày ở sau), Bùi Giáng đã nói sáng tạo về một loại "hột…" có ở bộ
phận kín của người phụ nữ. Bởi những từ hồng tô, xiêm mềm, sương hoa đã
đưa lại cho ta một loạt liên hệ gần gũi khác gắn liền các thuộc tính nữ yểu
điệu, nhẹ nhàng, trinh trắng, cao quý: bóng hồng, gót hồng, áo xiêm mềm
mại, đóa hồng nhan đẹp như hoa và mong manh như sương... Giọng thơ Bùi
Giáng vẫn thường vẫn lấp lửng hai mặt và thuần nhiên như thế. Bằng sự lấp
lửng tự nhiên cá biệt đó, ta nhận ra hai ý nghĩa lớn của biểu tượng hột trong
thơ Bùi Giáng: tinh thần Mưa nguồn bừng toát và chủ nghĩa tự nhiên (mà
chúng tôi gọi là triết lý phồn thực về sau) mở đường bộc phát. Rõ ràng hơn,
đi liền những loại hột trên là những dòng thơ hai nghĩa của Bùi Giáng: "Mò
mẫm giữa đêm khuya", “Đầu khe suối chảy nước vô trong rừng”… Mưa
chính là suối nguồn nước truông quý giá (“Còn ghì giữ ân tình trong cỏ
nhặt/ Múa vi vu vì hẹn với truông ngàn”; “Anh quên mất bò đang gặm cỏ/
Anh chỉ nghe tiếng cọ rì rào (…) Hay là đây tiếng suối lao xao/ Giữa giòng
cỏ xuôi ghềnh chảy xuống”; “Bỏ hai chân xuống một vùng/ Nước truông là
lá thu rừng xuống khe” - Xuân thu trang phượng, Anh lùa bò vào đồi sim
trái chín, Bỏ hai chân, trích Mưa nguồn…), nhưng đồng thời gợi ra một
"dòng khác", "hột khác". (Nghĩa thứ hai gắn liền triết lý phồn thực, xin bàn
sau). Còn nghĩa thứ nhất gắn liền biểu tượng Mưa thuần khiết, mát trong.
Bởi Mưa vốn sinh ra từ Nước. Ai cũng biết Nước bốc hơi tạo mây và sinh
ra Mưa thông qua điều kiện không khí thuận lợi. Nên Mưa cũng là con của
mây và giông, và là tinh dịch của Trời gieo cho Đất để tạo sự sống. Tính
chất của Mưa là thuần khiết (vì nước ở lưng chừng trời, người ta thường
hứng nước mưa để uống) và bản chất của Mưa là ban phúc (nhân gian có
cụm từ “ơn mưa móc”). Mưa làm sạch bầu không khí, làm mát dịu sự oi
bức và làm cho mặt đất phong nhiêu. Mưa chính là sữa trời giúp sự sống
sinh sôi nảy nở, giúp cho vũ trụ trở nên bất tử. “Hỡi các thần Mitra và
Varuna. Mưa của trời làm trời căng phồng chất mật ngọt của mình…
Chúng tôi cầu xin các thần cho mưa, cho sự sống, cho sự bất tử… Hỡi các
vị chú tể, hãy gội tắm chúng tôi bằng sữa trời! Các thần làm trời mưa
xuống, đỏ chót, trong ngần” (Kinh Rig-Véda) [6, tr.609]. Và Mưa trong thơ
Bùi Giáng cũng chuyển tải chức năng sự sống đó. Nhà thơ đã nhìn cuộc
sống với quy luật sinh sôi nảy nở đẹp đẽ qua lăng kính của hột mưa rơi:
“Ôi một người con gái/ Là đúng một bầu trời/ Là sinh con đẻ cái/ Đẹp
bằng hột mưa rơi” (Ôi một người con gái, Lá hoa cồn). Mưa còn là thể
điệu ban sơ vui sống thanh nhàn: “Ban sơ thể điệu phiêu bồng/ Về sau rớt
hột chùm bông quê nhà/ Bây giờ một lúc uống trà/ Ăn qua loa chút gọi là
tái sinh” (Tặng cố nhân – Thơ Bùi Giáng).
Có thể thấy thơ Bùi Giáng có sức nén rất chặt. Nhà thơ đã đẩy cả chu kỳ, quy
luật sinh sôi nảy nở viên mãn của Trời Đất và Con Người vào trong bốn câu
thơ và bốn câu thơ lại dồn cả vào một hình ảnh nhỏ bé ở câu cuối: “Đẹp bằng
hột mưa rơi”. Kỳ thực, chỉ một hột mưa cũng đã nói đầy đủ cái tinh thần, chu
kỳ luân chuyển của vũ trụ và sự sống. Ở bài sau cũng vậy, thời gian và không
gian dài rộng khôn cùng của một kiếp người được khái quát chỉ qua bốn câu
thơ. Mỗi câu là một không gian, thời gian khác nhau từ quá khứ ban sơ của
cõi phiêu bồng (câu 1) đến quá khứ cận hiện nơi quê nhà (câu 2), xuyên qua
thời điểm hiện tại với không gian uống trà (câu 3) và cuối cùng là vị lai tái
sinh ở cõi khác (câu 4). Sức nặng của cả bài thơ dường như rơi vào câu 2 bởi
hai từ “rớt hột” và hình ảnh tâm điểm sinh động chùm bông quê nhà. Bài thơ
với tựa đề Tặng cố nhân nhưng hoàn toàn không thấy bóng người xưa chỉ
thấy chùm bông quê nhà lay động bởi mưa “rớt hột”. Phải chăng ở đây, từ
trong tiềm thức, quan năng thơ Bùi Giáng hãy còn ảnh hưởng ý thơ nổi tiếng
của Thôi Hộ hàng chục thế kỷ trước: “Nhân diện bất tri hà xứ khứ/ Đào hoa y
cựu tiếu đông phong” - Đề đô thành Nam Trang (Gương mặt người xưa giờ
không biết chốn nào. (Chỉ thấy) hoa đào năm ngoái còn cười gió đông)…
Không cần biết chính xác về điều đó, chỉ biết một điều chắc chắn rằng, tiếng
thơ của Bùi Giáng luôn là hoài cổ, vọng sơ thông qua Mưa. Hay nói cách
khác Bùi Giáng đã vực dậy được những biểu tượng từ văn hóa và văn học
quá khứ. Ông không chỉ múc biểu tượng từ giếng vô thức tập thể dân gian mà
còn lấy chúng từ hồ vô thức tập thể bác học và thả chúng một cách tự nhiên
vào thơ mình, làm thành những hột mưa “độc nhất vô nhị”. Nên “hột mưa”
ấy vừa mang tinh thần hiện đại, vừa điển hình cho tiếng nói Cội nguồn ban
sơ, cho tiếng nói vui buồn thăng trầm hàng ngàn năm của Nước. Và cùng với
Mưa, người em gái Sương, tuy nhỏ bé và mong manh hơn nhưng đã đồng
hành, chia sẻ hành trình của người Mẹ Nước trong thơ Bùi Giáng.
Sương thật vậy, cũng giống Mưa nhưng tinh tế nhiều hơn, là hiện thân
cho thiên ân hồi phục sự sống. “Nước tuôn ra từ tim, làm toàn bộ con người
bên trong tràn ngập sương thần thánh” – Calliste II Xanthopoulos [6;
tr.840]. Những giọt Sương đó được Người Kitô giáo xem là mồ hôi hòa máu
Đấng cứu thế làm nở những bông hồng. Cũng theo Từ điển biểu tượng văn
hóa thế giới, Sương còn là mồ hôi của trời đất, là nước bọt của các thiên thể
(Pline), là sương trời trả lại cuộc sống cho những hài cốt (người Do Thái), là
sương trăng làm sáng mắt và đạt tới sự bất tử (người Trung Hoa – những tiên
ông ở đảo Ho-tcheou đã nuôi dưỡng mình bằng không khí và sương, Hoàng
đế Vũ nhà Hán hứng sương vào cốc ngọc thạch để uống). Sự rơi sương dịu
ngọt là dấu hiệu kết hợp hài hòa của Trời và Đất (Lão Tử). Và sau hết, đặc
biệt trong ngôn ngữ nhà Phật, thế giới Sương gắn liền với sự Chân ngộ triết lý
đạo.
Tiếp nguồn ý nghĩa đó, Sương trong thơ Bùi Giáng là tinh thể Nước ấp ủ linh
hồn bản nguyên vũ trụ:
Hai tay vốc nước suối ngàn
Rắc lên cành dại giọt ngần như sương
(Xuân thôn nữ - Mưa nguồn)
Ý thơ sáng đẹp, đầy hình ảnh. Những giọt nước trong ngần như sương đọng
trên cành cây hoang dại tựu trưng cả sự sống núi rừng, suối ngàn (giống như
hạt muối bé bỏng nhưng chất chứa hồn đại dương mặn mà). Vẻ đẹp bản
nhiên của sự sống đã được nhà thơ nâng niu, quý trọng đón khẽ trên hai tay.
Trong giây phút đó, người và vật như hòa hợp đỉnh điểm, con người bản
nhiên đón lấy sự sống bản nhiên trong một khung cảnh bản nhiên. Bùi Giáng
vẫn luôn thích để nhiên giới tiếp xúc trực tiếp tại thể mình như thế (giống
kiểu cọ xát thiên nhiên của “Người con gái lội qua khe/ Bàn chân với nước
lạnh đè lên nhau/ Nỗi niềm tưởng lại xưa sau/ Bàn chân với nước cùng nhau
lại đè” (Đè nhau - Bàn chân với nước – Lá hoa cồn). Nên ông không bao giờ
dừng chân đứng yên mà luôn chủ động tiến về phía nhiên giới và Sương là
chính là tinh thể cội nguồn: “Ngày nào trùng ngộ bước ra/ Trùng sinh sương
sớm đầu hoa cuối cùng”, “Chú buồn bã chú đi xa/ Tìm hoa kiếm lá sương sa
đầu rừng” (Uống rượu yêu đời, Đèo bồng đến chết