Khu công nghiệp giữ vị trí quan trọng trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước. Xây dựng khu công nghiệp chính là thực hiện ý tưởng "đi tắt, đón đầu" trong
quá trình phát triển kinh tế xã hội. Điểm mạnh của khu công nghiệp là thu hút mạnh mẽ
đầu tư trong và ngoài nước.
Nhận thức được điều đó, hội nghị đại biểu toàn quốc của Đảng giữa nhiệm kỳ khoá
VII (1994) đã đặt ra vấn đề "quy hoạch các vùng, trước hết là các địa bàn trọng điểm, các
khu chế xuất, khu kinh tế đặc biệt, khu công nghiệp tập trung". Nghị quyết đại hội đại
biểu toàn quốc của Đảng lần thứ VIII nêu rõ "cải tạo các khu công nghiệp hiện có về kết
cấu hạ tầng và công nghệ sản xuất, xây dựng mới một số khu công nghiệp phân bố rộng
trên các vùng". Ngày 24/4/1997 chính phủ đã ban hành nghị định 36/CP tạo cơ sở pháp lý
cho việc xây dựng và vận hành khu công nghiệp tập trung trên phạm vi cả nước.
Nghệ An là một tỉnh lớn cả về diện tích và dân số, điều kiện tự nhiên tương đối
thuận lợi để phát triển công nghiệp, nhưng hiện nay vẫn là một tỉnh nghèo. Để đưa Nghệ
An thoát khỏi tình trạng tỉnh nghèo và kém phát triển vào năm 2010, cơ bản trở thành tỉnh
công nghiệp vào năm 2020 đòi hỏi phải đẩy nhanh tốc độ phát triển công nghiệp và dịch
vụ. Đại hội đại biểu lần thứ XVI Đảng bộ tỉnh Nghệ An (12/2005) đã khẳng định "từ nay
đến 2010 khuyến khích các nhà đầu tư lấp đầy các khu công nghiệp Bắc Vinh, Nam Cấm,
Cửa Lò theo quy hoạch đã được duyệt."
89 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 3829 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Thu hút đầu tư vào các khu công nghiệp tại Nghệ An hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN:
Thu hút đầu tư vào các khu công
nghiệp ở Nghệ An hiện nay
Mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Khu công nghiệp giữ vị trí quan trọng trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước. Xây dựng khu công nghiệp chính là thực hiện ý tưởng "đi tắt, đón đầu" trong
quá trình phát triển kinh tế xã hội. Điểm mạnh của khu công nghiệp là thu hút mạnh mẽ
đầu tư trong và ngoài nước.
Nhận thức được điều đó, hội nghị đại biểu toàn quốc của Đảng giữa nhiệm kỳ khoá
VII (1994) đã đặt ra vấn đề "quy hoạch các vùng, trước hết là các địa bàn trọng điểm, các
khu chế xuất, khu kinh tế đặc biệt, khu công nghiệp tập trung". Nghị quyết đại hội đại
biểu toàn quốc của Đảng lần thứ VIII nêu rõ "cải tạo các khu công nghiệp hiện có về kết
cấu hạ tầng và công nghệ sản xuất, xây dựng mới một số khu công nghiệp phân bố rộng
trên các vùng". Ngày 24/4/1997 chính phủ đã ban hành nghị định 36/CP tạo cơ sở pháp lý
cho việc xây dựng và vận hành khu công nghiệp tập trung trên phạm vi cả nước.
Nghệ An là một tỉnh lớn cả về diện tích và dân số, điều kiện tự nhiên tương đối
thuận lợi để phát triển công nghiệp, nhưng hiện nay vẫn là một tỉnh nghèo. Để đưa Nghệ
An thoát khỏi tình trạng tỉnh nghèo và kém phát triển vào năm 2010, cơ bản trở thành tỉnh
công nghiệp vào năm 2020 đòi hỏi phải đẩy nhanh tốc độ phát triển công nghiệp và dịch
vụ. Đại hội đại biểu lần thứ XVI Đảng bộ tỉnh Nghệ An (12/2005) đã khẳng định "từ nay
đến 2010 khuyến khích các nhà đầu tư lấp đầy các khu công nghiệp Bắc Vinh, Nam Cấm,
Cửa Lò theo quy hoạch đã được duyệt..."
Cùng với sự phát triển các khu công nghiệp cả nước, các khu công nghiệp ở Nghệ
An ra đời đã trở thành một trong những địa điểm thu hút vốn đầu tư trong và ngoài nước,
tạo động lực lớn cho quá trình tiếp thu khoa học công nghệ, phân công lại lao động phù hợp
với xu thế hội nhập kinh tế quốc tế.
Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân, việc thu hút đầu tư vào các khu công nghiệp ở
Nghệ An vẫn còn gặp nhiều khó khăn. Các dự án đầu tư vào khu công nghiệp triển khai
chậm, tỷ lệ lấp đầy các khu công nghiệp rất thấp. Hầu hết các dự án đầu tư có quy mô
nhỏ, nguồn vốn đầu tư chủ yếu là nguồn vốn trong nước, vốn FDI rất hạn chế. Nhu cầu
đầu tư cho phát triển kết cấu hạ tầng, phát triển dịch vụ, các ngành phụ trợ ở các khu công
nghiệp rất lớn nhưng vốn huy động được quá ít...
Làm thế nào để thu hút được nhiều vốn đầu tư vào các khu công nghiệp ở Nghệ An
trong thời gian tới vẫn là một nhiệm vụ cần thiết, cấp bách. Xuất phát từ yêu cầu đó tác
giả chọn vấn đề " Thu hút đầu tư vào các khu công nghiệp ở Nghệ An hiện nay " làm
đề tài luận văn thạc sỹ.
2. Tình hình nghiên cứu
Thu hút đầu tư nói chung và thu hút đầu tư vào các khu công nghiệp nói riêng là một
vấn đề mang tính chiến lược đã được Đảng và nhà nước ta quan tâm thể hiện qua đường
lối, chủ trương chính sách phát triển kinh tế- xã hội. Đã có nhiều công trình nghiên cứu đề
cập vấn đề này, trong đó đáng chú ý một số công trình như:
Trần Xuân Kiên,"Chiến lược huy động và sử dụng vốn trong nước cho phát triển
nền công nghiệp Việt Nam", Nxb lao động 1998.
PGS .TS Vũ Văn Phúc- TS Trần Thị Minh Châu, "Các khu công nghiệp tập trung và
vai trò của nó trong chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế ở Việt Nam", Tạp chí Kinh tế Châu
á- Thái Bình Dương số 12,13 và 14 năm 2004.
Bộ kế hoạch và đầu tư, Tạp chí cộng sản, Ban kinh tế trung ương, UBND tỉnh Đồng
Nai, Phát triển khu công nghiệp, khu chế xuất ở Việt Nam trong tiến trình hội nhập kinh
tế quốc tế, Kỷ yếu hội thảo khoa học, Đồng Nai tháng 11/ 2004.
Trần Xuân Tùng, "Đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt Nam, thực trạng và giải
pháp", Nxb Chính trị Quốc gia 2005.
Nguyễn Bá, "Các khu công nghiệp ở Nghệ An sẵn sàng đón nhận các nhà đầu tư",
Tạp chí Kinh tế và dự báo số 8 năm 2005.
Tuy nhiên, cho đến nay chưa có công trình nào nghiên cứu về thu hút đầu tư vào các
khu công nghiệp ở Nghệ An một cách có hệ thống và dưới góc độ khoa học kinh tế chính
trị. Vì vậy, việc nghiên cứu thực trạng và đưa ra những giải pháp đồng bộ nhằm đẩy mạnh
thu hút đầu tư vào các khu công nghiệp ở Nghệ An hiện nay là vấn đề rất cần thiết.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
3.1. Mục đích của đề tài
Luận văn góp phần làm rõ cơ sở lý luận, thực tiễn của việc thu hút đầu tư vào các
khu công nghiệp, phân tích thực trạng, đề xuất phương hướng và giải pháp đẩy mạnh thu
hút đầu tư vào các khu công nghiệp ở Nghệ An.
3.2. Nhiệm vụ của đề tài
Để đạt được mục đích trên, luận văn có nhiệm vụ:
- Hệ thống những vấn đề lý luận cơ bản về đầu tư, khu công nghiệp, thu hút đầu tư
vào khu công nghiệp.
- Phân tích, đánh giá thực trạng thu hút đầu tư vào các khu công nghiệp ở Nghệ An
trong những năm qua.
- Xây dựng phương hướng và đề xuất những giải pháp chủ yếu nhằm đẩy mạnh thu
hút đầu tư vào các khu công nghiệp ở Nghệ An trong những năm tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Môi trường đầu tư và các hình thức thu hút đầu tư vào khu
công nghiệp.
- Phạm vi nghiên cứu: Luận văn tập trung nghiên cứu vấn đề thu hút vốn bằng tiền
trong và ngoài nước đầu tư trực tiếp vào các khu công nghiệp ở Nghệ An từ năm 1998
đến nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
- Cơ sở lý luận: Dựa trên lý luận của chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
và những quan điểm chỉ đạo, chủ trương, chính sách của Đảng ta về phát triển các khu
công nghiệp.
- Phương pháp nghiên cứu: Sử dụng phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch
sử của chủ nghĩa Mác- Lênin, kết hợp các phương pháp hệ thống, thống kê, phân tích- tổng
hợp, kết hợp lôgic- lịch sử, khảo sát thực tế, tổng kết thực tiễn. Đồng thời đề tài có kế thừa
và sử dụng có chọn lọc những đề xuất và các số liệu trong một số công trình nghiên cứu
của các tác giả khác.
6. Những đóng góp của luận văn
Trình bày có hệ thống các vấn đề lý luận cơ bản về khu công nghiệp và thu hút đầu tư
vào khu công nghiệp.
Đề xuất những giải pháp cơ bản có tính khả thi nhằm đẩy mạnh thu hút đầu tư vào
các khu công nghiệp ở Nghệ An thời gian tới.
Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể được dùng làm tài liệu tham khảo cho việc
hoạch định những chính sách phát triển các khu công nghiệp ở Nghệ An và cho sinh
viên các ngành kinh tế, quản trị kinh doanh.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn gồm
3 chương, 8 tiết.
Chương 1
Khu công nghiệp và thu hút đầu tư
vào khu công nghiệp
1.1. Khu công nghiệp
1.1.1. Khái niệm khu công nghiệp
Ngày nay, KCN xuất hiện ở hầu hết các quốc gia trên thế giới. Mặc dù thuật ngữ
KCN được sử dụng khá phổ biến nhưng bản thân nó lại bao hàm nhiều loại hình, nhiều mô
hình tổ chức và tính chất hoạt động khác nhau. Một số nước KCN được hiểu là các công
viên công nghiệp (Industrial Parks). Có những KCN được gọi là cụm công nghiệp
(Industrial Clusters). Những KCN hoạt động chuyên về sản xuất hàng xuất khẩu với quy
chế miễn thuế nhập khẩu được gọi là khu chế xuất (KCX) (Export Processing Zones). Khu
công nghiệp cũng có thể là khu công nghệ cao (Hight tech centres) hoặc khu công nghệ cao
là một bộ phận của KCN.
Nghị định 36- CP ngày 24/4/1997 của chính phủ nêu rõ:
KCX là KCN tập trung các doanh nghiệp chế xuất chuyên sản xuất hàng
xuất khẩu, thực hiện các dịch vụ cho sản xuất hàng xuất khẩu, có ranh giới địa
lý xác định, không có dân cư sinh sống, do chính phủ hoặc thủ tướng chính
phủ quyết định thành lập .
Khu công nghệ cao là khu tập trung các doanh nghiệp công nghiệp kỹ thuật
cao và các đơn vị hoạt động phục vụ cho phát triển công nghệ cao gồm nghiên
cứu- triển khai khoa học- công nghệ, đào tạo và các dịch vụ liên quan, có ranh
giới địa lý xác định; do chính phủ hoặc thủ tướng chính phủ quyết định thành
lập. Trong khu công nghệ cao có thể có doanh nghiệp chế xuất [24].
Ngoài ra, KCN còn có những hình thái biến tướng như khu công nghệ sinh học (Bio
Technology Park), khu công nghệ sinh thái (Eco Industrial Park)...
Như vậy, KCN là một thuật ngữ để chỉ một vùng lãnh thổ quốc gia được xác định
ranh giới địa lý rõ ràng. Trong đó các doanh nghiệp công nghiệp tập trung đầu tư, hoạt
động, phát triển do có kết cấu hạ tầng tốt, có môi trường kinh doanh tốt (ưu đãi của nhà
nước về đất đai, tài chính) và có thị trường tốt (thị trường đầu vào, đầu ra và dịch vụ). Đây
là kết quả của quá trình tích tụ, tập trung, chuyên môn hoá sản xuất công nghiệp theo lãnh
thổ, là hình thức tổ chức sản xuất công nghiệp phù hợp với yêu cầu của quá trình CNH,
HĐH nền kinh tế.
* Quy chế KCN (Ban hành kèm theo nghị định số 192-CP ngày 28/12/1994 của chính
phủ) đã đưa ra quan niệm: "KCN quy định trong quy chế này là KCN tập trung do chính
phủ quyết định thành lập, có ranh giới địa lý xác định, chuyên sản xuất công nghiệp và
thực hiện các dịch vụ hỗ trợ sản xuất công nghiệp, không có dân cư sống" [25, tr.1].
* Theo luật đầu tư được quốc hội thông qua ngày 29/11/2005 có hiệu lực thi hành từ
01/7/2006 thì: "Khu công nghiệp là khu sản xuất hàng công nghiệp và thực hiện các dịch
vụ cho sản xuất công nghiệp, có ranh giới địa lý xác định, được thành lập theo quy định
của chính phủ" [34, tr.16].
Nhìn chung, các tiêu chí để hình thành một khu công nghiệp bao gồm:
Thứ nhất, KCN là nơi tập trung các doanh nghiệp nghiệp có đủ cơ sở pháp lý, chuyên
sản xuất hàng công nghiệp và thực hiện các dịch vụ cho sản xuất công nghiệp.
Thứ hai, KCN là khu vực có ranh giới địa lý xác định, không có dân cư sinh sống,
xây dựng theo quy hoạch tổng thể đã được chính phủ phê duyệt.
Thứ ba, KCN phải do chính phủ hoặc do thủ tướng chính phủ quyết định thành lập.
Khi muốn hình thành KCN đã có trong quy hoạch tổng thể thì UBND tỉnh, thành phố trực
thuộc trung ương chỉ đạo việc lập báo cáo nghiên cứu khả thi thành lập KCN và trình thủ
tướng chính phủ xem xét quyết định thành lập.
Thứ tư, trong KCN có thể có doanh nghiệp chế xuất. Đó là các doanh nghiệp chuyên
sản xuất hàng xuất khẩu, thực hiện các dịch vụ chuyên cho sản xuất hàng xuất khẩu và hoạt
động xuất khẩu.
Trên cơ sở 4 tiêu chí trên, chúng tôi thống nhất với khái niệm về KCN đã được nêu ra
trong nghị định 36-CP ngày 24/4/1997 của chính phủ về quy chế KCN, KCX và khu công
nghệ cao:
Khu công nghiệp là khu tập trung các doanh nghiệp khu công nghiệp
chuyên sản xuất hàng công nghiệp và thực hiện các dịch vụ cho sản xuất công
nghiệp, có ranh giới địa lý xác định, không có dân cư sinh sống; do chính phủ
hoặc thủ tướng chính phủ quyết định thành lập. Trong KCN có thể có doanh
nghiệp chế xuất [24].
Với khái niệm như vậy, KCN của Việt Nam được hiểu là khu công nghiệp tập trung,
không có dân cư sinh sống nhằm giải quyết tốt hơn vấn đề hạ tầng và ô nhiễm môi trường,
có phân biệt với các vùng công nghiệp (bao gồm nhiều KCN), với các đặc khu kinh tế (có
bộ máy quản lý hành chính độc lập). Theo quan niệm của Việt Nam, các KCX (chuyên sản
xuất hàng hoá xuất khẩu và dịch vụ cho sản xuất hàng hoá xuất khẩu), khu công nghệ cao
(tập trung các doanh nghiệp có công nghệ cao hoặc doanh nghiệp dịch vụ cho các doanh
nghiệp có công nghệ cao) chỉ là hình thái đặc thù của KCN tập trung.
1.1.2. Vai trò của khu công nghiệp trong quá trình phát triển kinh tế ở Việt Nam
Trải qua một thời gian xây dựng và phát triển, các KCN nước ta từng bước khẳng
định vị trí, tầm quan trọng, trở thành một động lực to lớn trong tiến trình CNH, HĐH và
hội nhập kinh tế quốc tế. Vai trò của KCN thể hiện ở những nội dung cơ bản sau đây:
Thứ nhất, KCN tạo điều kiện thuận lợi để thu hút đầu tư. Giống như các nước đang
phát triển khác, Việt Nam rất cần vốn, kỹ thuật, thị trường và kinh nghiệm quản lý doanh
nghiệp công nghiệp. Song, môi trường kinh doanh tổng thể của đất nước chưa đáp ứng yêu
cầu của đầu tư nước ngoài như điều kiện kết cấu hạ tầng, lao động có tay nghề cao, chất
lượng quản lý hành chính. Nếu chờ đầu tư để cải thiện môi trường chung thì vừa lâu vừa
không khả thi vì nguồn lực trong nước cũng như khả năng hấp thụ vốn của nền kinh tế
đang ở mức thấp. Chính vì thế, việc xây dựng các KCN là con đường thu hút đầu tư nhanh
nhất. Bởi vì, trong những ranh giới xác định của KCN, nhà nước có thể tập trung nguồn lực
của mình nhằm tạo ra kết cấu hạ tầng hiện đại, tạo điều kiện giảm bớt chi phí, rủi ro ban
đầu cho nhà đầu tư, từ đó khuyến khích họ bỏ vốn đầu tư vào KCN. Nhà nước có thể thi
hành những hệ thống ưu đãi có chọn lựa khác nhau để thu hút các nhà đầu tư trong khi
chưa cải cách ngay được hệ chính sách chung.
Xây dựng các KCN tập trung không những thu hút đầu tư mới mà còn có điều kiện để
di dời các cơ sở công nghiệp xây dựng ở các vị trí không thích hợp. Nhiều doanh nghiệp
công nghiệp được xây dựng trước đây do không được quy hoạch dài hạn, nên khi có nhu
cầu đẩy mạnh phát triển công nghiệp thì các doanh nghiệp này không có địa bàn mở rộng
quy mô. Có những doanh nghiệp còn bố trí xen lẫn với khu dân cư, khu hành chính, trường
học... gây ra tình trạng ô nhiễm môi trường đô thị. Việc đưa những doanh nghiệp công
nghiệp này vào các KCN vừa tạo điều kiện mở rộng đầu tư vừa đảm bảo sự phát triển bền
vững của nền kinh tế. Xây dựng các KCN cũng chính là chủ trương huy động nguồn vốn
trong nước và nước ngoài vào phát triển kết cấu hạ tầng hiện đại ngang tầm với các nước
trong khu vực. Việc cho phép thực thi đa dạng các mô hình kinh doanh hạ tầng KCN
(doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài, doanh nghiệp liên doanh, doanh nghiệp nhà nước),
Việt Nam muốn tận dụng mối quan hệ quốc tế của chủ đầu tư nước ngoài trong việc kêu
gọi đầu tư, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp nhà nước sử dụng có hiệu quả nguồn vốn từ
ngân sách để thúc đẩy quá trình CNH, HĐH đất nước.
Kết cấu hạ tầng trong KCN sẵn có và những chính sách ưu đãi cùng với cơ chế quản
lý đặc biệt, thủ tục đầu tư ngày càng đơn giản, thuận tiện hơn so với bên ngoài KCN sẽ
giúp nhà đầu tư nhanh chóng triển khai dự án, tránh bỏ lỡ cơ hội kinh doanh. Hơn nữa,
trong nền kinh tế thị trường, các doanh nghiệp tìm mọi cách tối thiểu hoá chi phí để đạt
được giá thành rẻ nhất. KCN là địa bàn mà doanh nghiệp có thể thực hiện được điều đó.
KCN được xây dựng tập trung theo chiều dọc, là nơi có nhiều đất trống, gần cảng, giao
thông thuận lợi cho xe trọng tải lớn ra vào, mạng lưới điện để cho nhà đầu tư có thể xây
dựng và vận hành các nhà máy. KCN còn được trang bị kết cấu hạ tầng đầy đủ nên khi đầu
tư vào thì các nhà đầu tư sản xuất sẽ giảm được rất nhiều chi phí như chi phí mua đất xây
dựng nhà máy với giá cao, chi phí xây dựng hệ thống đường dây tải điện, đường giao thông
vận tải vào nhà máy, thiết lập hệ thống thông tin liên lạc... Việc bố trí các nhà máy theo
chiều dọc (sản phẩm của nhà máy này là nguyên liệu của nhà máy khác) và tập trung vào
một khu vực nên các doanh nghiệp dễ dàng giải quyết đầu vào và đầu ra với chi phí thấp
nhất. Do đó, các doanh nghiệp KCN có điều kiện thuận lợi để đạt mục tiêu lợi nhuận hơn
bên ngoài KCN nên KCN hấp dẫn nhà đầu tư hơn.
Thứ hai, KCN góp phần hạn chế ô nhiễm môi trường trong quá trình phát triển công
nghiệp. Những cơ sở công nghiệp ở thành phố và khu vực dân cư không có khả năng xử lý
ô nhiễm môi trường sẽ được di dời vào KCN, đồng thời hạn chế xây dựng các cơ sở công
nghiệp mới xen lẫn với khu dân cư. KCN tập trung giảm sự tiếp xúc trực tiếp của các khu
đô thị với tác động bất lợi của sản xuất công nghiệp (như tiếng ồn, khói bụi, bức xạ...). Mặt
khác, với sự tập trung của các doanh nghiệp sản xuất công nghiệp vào một địa điểm xác
định, Ban quản lý các KCN có thể kiểm soát tốt hơn mức độ ô nhiễm của các doanh nghiệp
để có giải pháp thích hợp. Đồng thời, về phía mình các doanh nghiệp công nghiệp cũng có
điều kiện phòng chống ô nhiễm môi trường với chi phí ít nhất do sử dụng lại phế thải của
nhau, do có sự liên kết xử lý ô nhiễm và sự hỗ trợ tập trung của nhà nước. Hơn nữa, KCN
được sử dụng các biện pháp triệt để trong việc xử lý môi trường ngay từ khâu quy hoạch.
Trong KCN, các doanh nghiệp buộc phải có hệ thống xử lý chất thải cục bộ đạt tiêu chuẩn
trước khi thải ra hệ thống chung. Từng KCN phải có nhà máy xử lý nước thải tập trung và
được đầu tư xây dựng song song với việc đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng KCN. Như vậy,
việc bảo vệ môi trường trong toàn khu vực KCN được thực hiện tốt hơn các cơ sở công nghiệp
nằm rải rác ở nhiều khu vực khác nhau.
Thứ ba, KCN góp phần giải quyết việc làm cho người lao động. Các KCN là nơi thu
hút được nhiều lao động hoạt động trong các doanh nghiệp và trong các lĩnh vực xây dựng,
cung cấp dịch vụ cho KCN. Nếu căn cứ theo số lao động bình quân thấp nhất và trung bình
ở các KCN và tuỳ theo tính chất ngành nghề, số lượng dự án đầu tư thu hút vào trong KCN
thì bình quân mỗi KCN với diện tích khoảng 100- 150 ha khi đã lấp đầy toàn bộ diện tích
sẽ cần số lượng lao động từ 15.000- 18.000 người làm việc trong các nhà máy, xí nghiệp.
Theo thống kê của Bộ Kế hoạch và đầu tư, tính đến tháng 6/2004, các KCN trên cả nước
đã thu hút được trên 60 vạn lao động trực tiếp và hơn 1 triệu lao động gián tiếp. Các KCN
phía Nam còn phải tuyển dụng thêm lao động từ tỉnh ngoài mới đáp ứng được nhu cầu.
Đây là số lượng lao động chưa phải là nhiều so với nhu cầu phát triển các KCN cũng như
nhu cầu việc làm của lao động ở các địa phương. Nhưng điểm quan trọng là nhờ đó giải
quyết được việc làm, chất lượng nguồn lao động từng bước được nâng lên thông qua tiếp
cận công nghệ sản xuất và phương thức quản lý tiên tiến hiện đại.
Thứ tư, KCN tạo điều kiện cho việc tiếp nhận, chuyển giao và áp dụng có hiệu quả
những thành tựu khoa học công nghệ tiên tiến. Hình thành các KCN sẽ tạo ra những tiền đề
cho phép tiếp nhận những thành tựu khoa học công nghệ hiện đại nhất của thế giới để vận
dụng vào sản xuất những sản phẩm có chất lượng. Tiếp nhận những thành tựu khoa học
công nghệ trong các KCN có một sự thuận lợi hơn hẳn với các doanh nghiệp sản xuất kinh
doanh phân tán, rải rác ở các khu vực dân cư, khu vực xanh, khu vực văn hoá. Bởi vì trong
KCN, các nhà đầu tư được hưởng một số quy chế ưu đãi nhất định và đặc biệt là những nhà
đầu tư nước ngoài. Muốn nâng cao khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế, các nhà
đầu tư nước ngoài sẽ áp dụng những thành tựu khoa học công nghệ hiện đại vào sản xuất,
tạo điều kiện cho việc tiếp nhận, chuyển giao và đưa những công nghệ tiên tiến vào nước
tiếp nhận đầu tư. Qua con đường này, nước ta có thể tiếp nhận được các thành tựu khoa
học công nghệ của nhân loại một cách nhanh nhất, vận dụng chúng thành công nhất vào
hoạt động sản xuất kinh doanh và đời sống xã hội.
Thứ năm, KCN góp phần thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng hiện đại.
KCN được sử dụng như một công cụ để điều chỉnh cơ cấu kinh tế vùng, khai thác vùng có
giá trị kinh tế cao đồng thời tạo điều kiện cho các vùng khó khăn hơn xây dựng được cơ sở
công nghiệp của mình. Nghị quyết đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng lần thứ VIII đã nêu
rõ cần cải tạo các KCN hiện có về kết cấu hạ tầng và công nghệ sản xuất, xây dựng mới
một số KCN phân bố trên các vùng. Để tạo cơ sở pháp lý cho việc xây dựng và vận hành
KCN tập trung trên cả nước, hội đồng bộ trưởng (nay là chính phủ) đã ban hành nghị định
số 322/HĐBT ngày 18/10/1991 về quy chế KCN, KCX. Tiếp đến là nghị định số 192/CP
ngày 25/12/1994 của chính phủ về quy chế KCN. Sau đó là nghị định 36/CP ngày
24/4/1997 của chính phủ về KCN, KCX, khu công nghệ cao thay thế các nghị định trước
đó đã ban hành.
KCN phát triển kéo theo sự phát triển mạnh của các ngành công nghiệp, những vùng
đất sản xuất nông nghiệp có hiệu quả thấp sẽ được chuyển sang xây dựng KCN để sản xuất
công nghiệp có hiệu quả cao hơn nhiều. Sự phát triển của các KCN góp phần to lớn vào sự
hình thành các khu đô thị mới với hàng loạt các ngành dịch vụ phát triển như thông tin liên
lạc, ngân hàng, bảo hiểm, vận tải và thương mại. Từ đó, cơ cấu GDP