Luận văn Thủ tục xét lại bản án, quyết định dân sự đã có hiệu lực pháp luật theo pháp luật tố tụng dân sự hiện hành

Năm 2004, Bộ luật tố tụng dân sự đầu tiên ra đời đã đánh dấu một bước chuyển lớn trong lịch sử pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam, khẳng định sự nỗ lực của Việt Nam trong việc đổi mới, hội nhập. Với hệ thống những nguyên tắc cơ bản trong hoạt động tố tụng; trình tự, thủ tục khởi kiện, xét xử; sự tham gia tố tụng dân sự của các chủ thể được BLTTDS quy định đều nhằm mục đích giải quyết các vụ việc dân sự được chính xác, công bằng và đúng pháp luật. Nhưng hoạt động xét xử là hoạt động của thẩm phán, là hoạt động của những con người cụ thể nên không tránh khỏi sai sót khiến những phán quyết của Toà án không đúng với sự thật khách quan hoặc trái pháp luật. Những sai sót này có thể xuất phát từ yếu tố chủ quan hoặc yếu tố khách quan nên dẫn đến việc có những bản án, quyết định dân sự đã trải qua hai cấp xét xử sơ thẩm, phúc thẩm, thậm chí qua nhiều vòng xét xử lặp đi, lặp lại mà vẫn không đúng pháp luật. Do đó, để khắc phục và sửa chữa những sai lầm, thiếu sót đó cần có một thủ tục xét lại bản án, quyết định dân sự đã có hiệu lực pháp luật. Hiện nay, tình hình khiếu nại bản án, quyết định dân sự đã có hiệu lực pháp luật của người dân đang tăng. Công tác giải quyết đơn khiếu nại của Toà án các cấp cũng gặp nhiều vấn đề phức tạp, quá tải; nhiều vụ án kéo dài nên chưa đáp ứng yêu cầu, nguyện vọng của nhân dân và gây dư luận bức xúc. Hơn nữa, sau hơn 5 năm thi hành BLTTDS đã cho thấy một số quy định về thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm chưa đáp ứng được nhu cầu thực tế như: vấn đề khiếu nại, phát hiện bản án, quyết định đã có hiệu lực mà có sai sót; thẩm quyền giám đốc thẩm, tái thẩm; quyền hạn của Hội đồng giám đốc thẩm, tái thẩm Chính những quy định chưa rõ ràng và đầy đủ trong BLTTDS đã gây ra những vướng mắc và giảm hiệu quả công tác xét lại bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của ngành Toà án. Mặt khác, xuất phát từ yêu cầu của Cải cách Tư pháp, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 về “Chiến lược Cải cách Tư pháp đến năm 2020” nhằm “cải cách mạnh mẽ các thủ tục tố tụng tư pháp theo hướng dân chủ, bình đẳng, công khai, minh bạch, chặt chẽ” và “hoàn thiện các thủ tục tố tụng tư pháp, bảo đảm tính đồng bộ, dân chủ, công khai, minh bạch, tôn trọng và bảo vệ quyền con người” đòi hỏi các nhà lập pháp phải nghiên cứu sửa đổi, hoàn thiện các quy định về thủ tục còn chưa rõ ràng dẫn tới những cách hiểu và áp dụng không thống nhất trên thực tế. Vì những lý dó trên, học viên đã chọn đề tài “ Thủ tục xét lại bản án, quyết định dân sự đã có hiệu lực pháp luật theo pháp luật tố tụng dân sự hiện hành” làm nội dung nghiên cứu trong luận văn tốt nghiệp của mình.

doc77 trang | Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 2013 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Thủ tục xét lại bản án, quyết định dân sự đã có hiệu lực pháp luật theo pháp luật tố tụng dân sự hiện hành, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Mở đầu 1. Tính cấp thiết của đề tài Năm 2004, Bộ luật tố tụng dân sự đầu tiên ra đời đã đánh dấu một bước chuyển lớn trong lịch sử pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam, khẳng định sự nỗ lực của Việt Nam trong việc đổi mới, hội nhập. Với hệ thống những nguyên tắc cơ bản trong hoạt động tố tụng; trình tự, thủ tục khởi kiện, xét xử; sự tham gia tố tụng dân sự của các chủ thể…được BLTTDS quy định đều nhằm mục đích giải quyết các vụ việc dân sự được chính xác, công bằng và đúng pháp luật. Nhưng hoạt động xét xử là hoạt động của thẩm phán, là hoạt động của những con người cụ thể nên không tránh khỏi sai sót khiến những phán quyết của Toà án không đúng với sự thật khách quan hoặc trái pháp luật. Những sai sót này có thể xuất phát từ yếu tố chủ quan hoặc yếu tố khách quan nên dẫn đến việc có những bản án, quyết định dân sự đã trải qua hai cấp xét xử sơ thẩm, phúc thẩm, thậm chí qua nhiều vòng xét xử lặp đi, lặp lại mà vẫn không đúng pháp luật. Do đó, để khắc phục và sửa chữa những sai lầm, thiếu sót đó cần có một thủ tục xét lại bản án, quyết định dân sự đã có hiệu lực pháp luật. Hiện nay, tình hình khiếu nại bản án, quyết định dân sự đã có hiệu lực pháp luật của người dân đang tăng. Công tác giải quyết đơn khiếu nại của Toà án các cấp cũng gặp nhiều vấn đề phức tạp, quá tải; nhiều vụ án kéo dài nên chưa đáp ứng yêu cầu, nguyện vọng của nhân dân và gây dư luận bức xúc. Hơn nữa, sau hơn 5 năm thi hành BLTTDS đã cho thấy một số quy định về thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm chưa đáp ứng được nhu cầu thực tế như: vấn đề khiếu nại, phát hiện bản án, quyết định đã có hiệu lực mà có sai sót; thẩm quyền giám đốc thẩm, tái thẩm; quyền hạn của Hội đồng giám đốc thẩm, tái thẩm…Chính những quy định chưa rõ ràng và đầy đủ trong BLTTDS đã gây ra những vướng mắc và giảm hiệu quả công tác xét lại bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của ngành Toà án. Mặt khác, xuất phát từ yêu cầu của Cải cách Tư pháp, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 về “Chiến lược Cải cách Tư pháp đến năm 2020” nhằm “cải cách mạnh mẽ các thủ tục tố tụng tư pháp theo hướng dân chủ, bình đẳng, công khai, minh bạch, chặt chẽ” và “hoàn thiện các thủ tục tố tụng tư pháp, bảo đảm tính đồng bộ, dân chủ, công khai, minh bạch, tôn trọng và bảo vệ quyền con người” đòi hỏi các nhà lập pháp phải nghiên cứu sửa đổi, hoàn thiện các quy định về thủ tục còn chưa rõ ràng dẫn tới những cách hiểu và áp dụng không thống nhất trên thực tế. Vì những lý dó trên, học viên đã chọn đề tài “ Thủ tục xét lại bản án, quyết định dân sự đã có hiệu lực pháp luật theo pháp luật tố tụng dân sự hiện hành” làm nội dung nghiên cứu trong luận văn tốt nghiệp của mình. 2. Tình hình nghiên cứu Liên quan đến đề tài, trước đó đã có một số công trình nghiên cứu đến vấn đề này, hoặc có liên quan sau: - Thủ tục xét lại bản án, quyết định dân sự đã có hiệu lực pháp luật theo pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam của Ngô Anh Dũng, Luận văn thạc sỹ Luật học năm 1996. Đề tài này đã nghiên cứu thủ tục xét lại bản án, quyết định dân sự đã có hiệu lực pháp luật theo Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự và đưa ra những kiến nghị, giải pháp nhằm hoàn thiện thủ tục xét lại bản án, quyết định của Toà án đã có hiệu lực pháp luật. Tuy nhiên, luận văn được thực hiện từ năm 1996, khi BLTTDS năm 2004 chưa ra đời. - Tìm hiểu các quy định của pháp luật về thủ tục giám đốc thẩm vụ án dân sự, của Dương Thị Thanh Mai, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, 2000. Trong tác phẩm này, tác giả đã giải quyết một số vấn đề như: khái niệm, sự hình thành thủ tục giám đốc thẩm, thực trạng giải quyết án dân sự theo thủ tục giám đốc thẩm và đưa ra một số kiến nghị như: quy định theo hướng cấp xét xử cao nhất theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm là Uỷ ban thẩm phán TANDTC, còn Hội đồng thẩm phán TANDTC là cơ quan tổng kết và hướng dẫn việc xét xử. Tuy nhiên, tác phẩm được viết trên cơ sở của PL TTGQCVADS nên nhiều vấn đề tác giả đề cập đã được giải quyết khi BLTTDS ra đời. - Thủ tục giám đốc thẩm trong tố tụng dân sự Việt Nam do Tiến sĩ Trần Văn Trung làm chủ nhiệm đề tài, Đề tài khoa học cấp bộ của Viện khoa học kiểm sát- Viện kiểm sát nhân dân tối cao năm 2003. Đây là đề tài nghiên cứu chuyên sâu về giám đốc thẩm trong tố tụng dân sự trong bối cảnh chưa có BLTTDS. - Mố số suy nghĩ về cơ chế xét xử vụ án dân sự, của tiến sĩ Lê Thu Hà, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia năm 2003. Tác giả đã nghiên cứu tổng thể các cấp xét xử của Toà án các cấp bao gồm: sơ thẩm, phúc thẩm và thủ tục xét lại bản án, quyết định dân sự đã có hiệu lực pháp luật. Tuy nhiên, do phạm vi nghiên cứu của đề tài rộng nên tác giả chưa đưa ra các giải pháp toàn diện đối với thủ tục giám đốc thẩm và tái thẩm. - Thủ tục xét lại bản án, quyết định của Toà án đã có hiệu lực pháp luật trong tố tụng kinh tế, dân sự ở Viết Nam, của Đào Xuân Tiến, Luận án tiến sĩ Luật học năm 2009. Tác giả đã đưa ra khái niệm về thủ tục xét lại bản án, quyết định của Toà án đã có hiệu lực pháp luật trong tố tụng kinh tế, dân sự, phân tích pháp luật tố tụng kinh tế, dân sự và thực trạng áp dụng thủ tục xét lại bản án, quyết định về kinh tế, dân sự của Toà án đã có hiệu lực pháp luật. Đồng thời, luận án cũng đưa ra một số giải pháp nhằm hoàn thiện thủ tục xét lại bản án, quyết định về kinh tế, dân sự của Toà án như: tổ chức bộ phận giúp việc Hội đồng thẩm phán TANDTC; thống nhất thủ tục giám đốc thẩm và thủ tục tái thẩm…Tuy nhiên, các kiến nghị mà tác giả đưa ra chưa mang tính giải pháp tổng thể mà chủ yếu là một số kiến nghị mang tính chất hình thức, thủ tục. - Giám đốc thẩm dân sự- Một số vấn đề lý luận và thực tiễn, của Mai Ngọc Dương, Luận án tiến sĩ Luật học năm 2010. Luận án giải quyết một số vấn đề lý luận về giám đốc thẩm trong tố tụng dân sự như: bản chất, khái niệm, đặc điểm pháp lý, ý nghĩa của giám đốc thẩm và nêu lên thực trạng công tác giám đốc thẩm của ngành Toà án. Từ đó, tác giả đề xuất những kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật tố tụng dân sự về phần quy định giám đốc thẩm. Tuy nhiên, luận án chưa đưa ra được sự so sánh giữa thủ tục giám đốc thẩm và thủ tục tái thẩm. Ngoài ra còn có các công trình nghiên cứu, các bài viết đăng trên các tạp chí của các tác giả như: Nguyễn Quang Lộc, Nguyễn Quang Tiến, Trần Anh Tuấn, Đinh Văn Quế… được đăng trên các tạp chí Toà án nhân dân, Nhà nước và pháp luật, tạp chí Luật học. 3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu Mục đích nghiên cứu của luận văn là nghiên cứu hệ thống những quy định của pháp luật về thủ tục xét lại bản án, quyết định dân sự đã có hiệu lực pháp luật theo BLTTDS, nhận diện những mặt tích cực, những mặt tồn tại trong thực tiễn công tác xét lại bản án, quyết định dân sự đã có hiệu lực pháp luật của ngành TAND nhằm hoàn thiệp các quy định của pháp luật về thủ tục này. Để thực hiện được mục đích nghiên cứu trên, luận văn tập trung giải quyết những vấn đề cụ thể sau: - Giải quyết một số vấn đề lý luận về thủ tục xét lại bản án, quyết định dân sự đã có hiệu lực pháp luật như: khái niệm, đặc điểm pháp lý, ý nghĩa, quá trình hình thành và phát triển của pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam về thủ tục xét lại bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật. - Phân tích, đánh giá những quy định của pháp luật về thủ tục xét lại bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật, trong đó phân tích những điểm giống và khác nhau giữa giám đốc thẩm với tái thẩm, những mặt hạn chế, tồn tại trong thực tiễn áp dụng của ngành TAND. Để có thể hướng tới mục đích trên, luận văn nghiên cứu trong phạm vi các quy định trong BLTTDS 2004 về thủ tục xét lại bản án, quyết định dân sự đã có hiệu lực pháp luật; Thực tiễn công tác giám đốc thẩm, tái thẩm trên cả nước từ năm 2004 đến 2010 của ngành Toà án và đề xuất những kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật tố tụng dân sự về thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm. 4. Phương pháp nghiên cứu Luận văn sử dụng phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử của Triết học Mác- Lênin về Nhà nước pháp quyền; tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật; học việc cũng sử dụng các phương pháp nghiên cứu khoa học khác như: phương pháp phân tích tổng hợp, phương pháp đối chiếu so sánh, phương pháp thống kê và phương pháp lịch sử. 5. Những đóng góp của luận văn Luận văn đã tập trung nghiên cứu làm rõ bản chất của thủ tục xét lại bản án, quyết định dân sự đã có hiệu lực pháp luật, trong đó có các vấn đề như: khái niệm, đặc điểm pháp lý, ý nghĩa pháp lý. Trong luận văn, chúng tôi đã đưa ra khái niệm mới về thủ tục xét lại bản án, quyết định dân sự đã có hiệu lực pháp luật, cũng như khái niệm về giám đốc thẩm dân sự, tái thẩm dân sự. Luận văn cũng giúp người đọc hình dung được thực tiễn công tác giám đốc thẩm, tái thẩm của ngành Toà án trong những năm qua, những mặt còn tồn tại, nguyên nhân và đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng công tác giám đốc thẩm, tái thẩm. 6. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương. Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỦ TỤC XÉT LẠI BẢN ÁN, QUYẾT ĐỊNH DÂN SỰ ĐÃ CÓ HIỆU LỰC PHÁP LUẬT 1.1. Khái niệm 1.1.1. Khái niệm thủ tục xét lại bản án, quyết định dân sự đã có hiệu lực pháp luật Theo thuyết tam quyền phân lập của Montesquiơ thì trong Nhà nước có ba loại quyền lực: quyền lập pháp, quyền hành pháp và quyền tư pháp; ba quyền này được trao cho ba hệ thống cơ quan tương ứng là: cơ quan lập pháp, cơ quan hành pháp và cơ quan tư pháp. Hiện nay, trên thế giới có rất nhiều quốc gia tổ chức bộ máy nhà nước theo mô hình này. Trong đó quyền tư pháp được trao cho hệ thống toà án. Có thể nói, Toà án có vị trí và vai trò đặc biệt, là biểu hiện tập trung nhất của quyền tư pháp vì Toà án thực hiện chức năng xét xử, nơi mà kết quả của hoạt động điều tra, công tố, bào chữa được kiểm tra, xem xét một cách công khai thông qua thủ tục tố tụng luật định để đưa ra những phán quyết có tính chất quyền lực nhà nước, phản ánh đầy đủ, sâu sắc nhất chính sách pháp luật của một quốc gia. Toà án là cơ cơ quan xét xử của Nhà nước. Hoạt động xét xử của Toà án là “hoạt động nhân danh quyền lực Nhà nước nhằm xem xét, đánh giá và ra phán quyết về tính hợp pháp và tính đúng đắn của hành vi pháp luật hay quyết định pháp luật khi có sự tranh chấp và mâu thuẫn giữa các bên có lợi ích khác nhau”[31, tr.264]. Khi tiến hành xét xử, với tư cách là chủ thể áp dụng pháp luật, Toà án không được xét xử tuỳ tiện mà phải dựa trên cơ sở những quy định của pháp luật, cả về luật nội dung và luật tố tụng nên hoạt động xét xử của Toà án đòi hỏi sự vô tư, khách quan, công minh và đúng pháp luật. Khi xét xử, Toà án là chủ thể có quyền xem xét, đánh giá việc thực hiện pháp luật của các chủ thể khác, ra bản án, quyết định phán xét hành vi của các chủ thể đó. Các bản án và quyết định này được Toà án tuyên nhân danh Nhà nước, thể hiện trực tiếp thái độ của Nhà nước đối với vụ án, quyết định những vấn đề có liên quan trực tiếp đến quyền lợi, nghĩa vụ của công dân và những chủ thể khác. Các bản án, quyết định của Toà án có hiệu lực pháp luật là phán quyết cuối cùng. Vì vậy, hoạt động xét xử cũng như việc ra phán quyết của Toà án có vai trò vô cùng quan trọng và đòi hỏi tuân thủ pháp luật một cách chặt chẽ trong một trình tự tố tụng hợp lý. Hiện nay, để đảm bảo tính chính xác trong hoạt động xét xử, đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, ổn định trật tự xã hội thì đa số các nước trên thế giới đều thực hiện nguyên tắc hai cấp xét xử. Theo nguyên tắc này, pháp luật các nước quy định sau khi xét xử sơ thẩm, bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật và chưa được đưa ra thi hành. Các bên đương sự có quyền kháng cáo, Viện kiểm sát có quyền kháng nghị để xem xét lại theo thủ tục phúc thẩm. Toà án cấp trên sẽ xem xét cả về tính hợp pháp và tính có căn cứ của bản án, quyết định sơ thẩm đồng thời xét xử lại vụ án về nội dung. Như vậy, ngoài chức năng xét xử, phúc thẩm cũng là một hình thức kiểm tra việc xét xử của ngành Toà án. Bằng việc quy định nguyên tắc hai hoặc ba cấp xét xử đều nhằm mục đích đảm bảo cho việc xét xử được đúng pháp luật, khắc phục được những sai lầm trong việc xét xử. Mặc dù đã có cơ chế để đảm bảo tình hợp pháp của các bản án hoặc quyết định trước khi có hiệu lực pháp luật thông qua thủ tục phúc thẩm nhưng những bản án hoặc quyết định này vẫn có thể không hợp pháp. Thực tiễn xét xử của ngành Toà án đã chứng minh một thực tế rằng: không phải vụ án nào Toà án cũng xử đúng, công bằng; kể cả những vụ án đã qua hai cấp xét xử tức là xét xử cả sơ thẩm, phúc thẩm và đã có hiệu lực nhưng vẫn có những sai sót. Nguyên nhân có thể do lý do khách quan như cả cơ quan xét xử và đương sự đều không thể biết được những tình tiết phát sinh làm thay đổi nội dung vụ án, hoặc vì những lý do chủ quan, sự cố tình làm trái quy định pháp luật của cơ quan xét xử, những tiêu cực khi xét xử hoặc do trình độ thẩm phán còn hạn chế…Nếu một bản án, quyết định của Toà án đã có hiệu lực pháp luật nói chung hay bản án, quyết định dân sự đã có hiệu lực pháp luật nói riêng khi có những sai lầm mà vẫn được thi hành thì sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng tới quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự. Do đó, cần có một cơ chế để kiểm tra, giám đốc việc xét xử của Toà án để nhằm phát hiện những bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật song có sai lầm. Hiện nay, pháp luật tố tụng của các quốc gia trên thế giới quy định cũng rất khác nhau về vấn đề xét lại bản án, quyết định của Toà án đã có hiệu lực pháp luật. Có những quốc gia không đặt vấn đề xem xét lại các bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật như Philippines; có một số nước trước đây có quy định nhưng hiện tại đã bỏ như Tây úc; một số nước vẫn duy trì thủ tục này trong các luật tố tụng như: các nước theo hệ thống pháp luật Civil law, Trung Quốc, Việt Nam. Việc có quy định thủ tục xét lại bản án, quyết định có hiệu lực hay không cũng ảnh hưởng trực tiếp tới mô hình tổ chức hệ thống Toà án của các nước. Nhiều quốc gia đặt thêm một Toà án ở trên Toà thượng thẩm có nhiệm vụ xem xét những bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Toà án cấp dưới đã xử đúng hay sai. Tuy nhiên, vấn đề đặt ra là việc xét lại bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật như thế nào để đảm bảo được quyền, lợi ích hợp pháp của cơ quan Nhà nước, của các tổ chức và cá nhân bị xâm phạm. Không phải bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật nào cũng trở thành đối tượng của việc xét lại này mà chỉ khi có những căn cứ nhất định do pháp luật tố tụng của quốc gia đó quy định thì mới phát sinh thủ tục xét lại bản án, quyết định của Toà án đã có hiệu lực pháp luật. Hơn nữa, để ổn định các mối quan hệ xã hội, pháp luật Việt Nam cũng như pháp luật các nước quy định rất chặt chẽ về thủ tục xét lại bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật Từ những điều phân tích trên, chúng ta có thể hiểu: Thủ tục xét lại bản án, quyết định dân sự đã có hiệu lực pháp luật là thủ tục đặc biệt của tố tụng dân sự do Toà án có thẩm quyền thực hiện để xét lại bản án, quyết định của Toà án đã có hiệu lực pháp luật khi có những căn cứ kháng nghị do pháp luật quy định. Từ quan niệm trên, có thể thấy rằng: - Thứ nhất: Thủ tục xét lại bản án, quyết định của Toà án đã có hiệu lực pháp luật là một thủ tục tố tụng đặc biệt. Pháp luật nước ta quy định nguyên tắc hai cấp xét xử mà thủ tục xét lại bản án, quyết định của Toà án đã có hiệu lực pháp luật không phải là một cấp xét xử nên nó là một thủ tục tố tụng mang tính đặc biệt khác với thủ tục sơ thẩm, phúc thẩm. Tính chất của thủ tục xét lại bản án, quyết định của Toà án đã có hiệu lực pháp luật là “xét lại” khác với “xét xử” trong thủ tục sơ thẩm hay “xét xử lại” trong thủ tục phúc thẩm. Đối tượng của việc xét lại bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật là “bản án, quyết định” của Toà án mà không phải là vụ án. Đây cũng là điểm khác biệt so với đối tượng xét xử sơ thẩm và xét xử phúc thẩm. Theo quy định của pháp luật, đối tượng xét xử sơ thẩm là các vụ án dân sự. Trong đó, ở các giai đoạn xét xử sơ thẩm, dựa trên yêu cầu khởi kiện, yêu cầu phản tố của bị đơn, yêu cầu độc lập của những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, Toà án chỉ xét xử trong phạm vi yêu cầu đó trừ trường hợp pháp luật có quy định khác. Còn đối tượng xét xử phúc thẩm là các vụ án dân sự mà bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo, kháng nghị. Còn việc xét lại bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật không hướng tới đối tượng xét xử là vụ án dân sự mà chỉ xem xét các bản án, quyết định của Toà án. Đây là một đặc điểm quan trọng thể hiện thủ tục này không phải là cấp xét xử thứ ba mà là một thủ tục đặc biệt. Bên cạnh đó, đối tượng của thủ tục này là bản án, quyết định của Toà án đã có hiệu lực pháp luật. Theo quy định của pháp luật, các bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật phải được thi hành trên thực tế. Tuy nhiên, có nhiều trường hợp bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật nhưng bản án, quyết định đó có những vi phạm pháp luật nghiêm trọng dẫn tới không đảm bảo được quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, không bảo đảm công bằng xã hội. Vì vậy, thủ tục này đặt ra để giúp Toà án sửa chữa chính những sai lầm đó. Đây là một thủ tục đặc biệt trong tố tụng tư pháp. - Thứ hai, thủ tục đặc biệt để xét lại bản án, quyết định của Toà án đã có hiệu lực pháp luật không phải là một cấp xét xử. Cấp xét xử là hình thức tổ chức tố tụng thể hiện quan điểm của Nhà nước về việc xét xử các vụ án nhằm đảm bảo tính chính xác, khách quan trong phán quyết của Toà án, bảo vệ quyền tự do dân chủ của công dân. Các quốc gia khác nhau thì quy định khác nhau, có thể quy định nguyên tắc hai cấp xét xử hoặc ba cấp xét xử. Cấp xét xử không chỉ quy định đơn thuần về thủ tục tố tụng mà còn liên quan đến cách thức tổ chức tố tụng và tổ chức hệ thống Toà án để thực hiện việc xét xử lại vụ án. Ở nước ta, ngay từ Luật tổ chức TAND đầu tiên năm 1960 đã quy định Toà án thực hành chế độ hai cấp xét xử đó là cấp sơ thẩm và cấp phúc thẩm. Song song với việc quy định nguyên tắc hai cấp xét xử, luật cũng quy định thẩm quyền của Toà án các cấp trong việc xét xử sơ thẩm và phúc thẩm. Cấp xét xử sơ thẩm và phúc thẩm phải đảm bảo các thủ tục tố tụng do pháp luật quy định: đảm bảo đầy đủ các cơ sở pháp lý và tổ chức xét xử sơ thẩm vụ án một cách khách quan, toàn diện, chính xác, mọi vấn đề đều được cấp sơ thẩm giải quyết; đảm bảo tối đa quyền kháng cáo của đương sự…Phúc thẩm là một cấp xét xử vì chỉ có Toà án cấp trên trực tiếp mới có thẩm quyền xét xử phúc thẩm đối với những vụ án bị kháng cáo, kháng nghị trong thời hạn luật định. Phiên toà phúc thẩm được tổ chức giống như phiên toà sơ thẩm. Trong khi đó, thủ tục xét lại bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật chỉ được tiến hành khi có kháng nghị của những người có thẩm quyền. Như hiện nay thì TANDTC có thẩm quyền xét xử phúc thẩm, và cả thẩm quyền giám đốc thẩm, tái thẩm chính những bản án, quyết định đã xét xử phúc thẩm đó. Thủ tục xét lại bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật nhằm khắc phục, sửa chữa những sai sót trong những phán quyết của Tòa án nên nó được coi là cơ chế tự kiểm tra của bản thân nội bộ hệ thống tư pháp. Tại các quốc gia có quy định về thủ tục xét lại các bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật có những cách phân chia khác nhau trong thủ tục này: - Có quốc gia quy định chỉ có một thủ tục để xét lại đối với bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật kể cả vấn đề áp dụng pháp luật và cả vấn đề tình tiết mới như Mỹ, hay Đức [18]. - Một số nước phân biệt thành hai thủ tục khác nhau: thủ tục xét lại các bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật khi có vi phạm pháp luật trong việc xử lý vụ án và thủ tục xét lại bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật khi phát hiện tình tiết mới như Pháp [20], Nhật Bản [40], Hàn Quốc [18]. - Có nước chỉ quy định thủ tục xét lại bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật khi có vi phạm pháp luật trong xét xử mà không có thủ tục xét lại khi có tình tiết mới như Đan Mạch. Ngược lại, có nước chỉ xét lại bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật khi xuất hiện tình tiết mới như Na Uy [17]. Tại các quốc gia có quy định về thủ tục xét lại các bản án ho
Luận văn liên quan