Đặc điểm hoạt động kinh doanh xây lắp có ảnh hưởng đến hạch toán chi phí sản xuất
và tính giá thành sản phẩm xây lắp.
Sản phẩm xây lắp là các công trình, vật kiến trúc có quy mô lớn, kết cấu phức tạp,
mang tính đơn chiếc, thời gian sản xuất kéo dài Đặc điểm này làm cho vốn đầu tư xây
dựng cơ bản thường bị ứ đọng lâu tại công trình đang xây dựng, các tổ chức xây dựng dễ
gặp phải những rủi ro ngẫu nhiên theo thời gian, công trình xây dựng dễ bị hao mòn vô
hình. Do vậy, việc tổ chức và hạch toán nhất thiết phải có những dự án thiết kế thi công.
Sản phẩm xây lắp cố định tại nơi sản xuất còn các điều kiện sản xuất như lao động
vật tư, thiết bị luôn phải di chuyển theo địa điểm thi công. Mặt khác, hoạt động xây dựng
thường tiến hành ngoài trời, chịu ảnh hưởng của khí hậu, thời tiết nên dễ dẫn tới tình
trạng hao hụt, mất mát, lãng phí vật tư, tài sản làm tăng thiệt hại trong tổng chi phí sản
xuất.
Sản phẩm xây lắp hoàn thành không nhập kho mà được tiêu thụ ngay theo giá dự toán
hoặc giá thỏa thuận với chủ đầu tư từ trước. Do đó tính chất hàng hóa của sản phẩm thể
hiện không rõ.
Đối tượng hạch toán chi phí ở các doanh nghiệp xây lắp có thể là các hạng mục công
trình, các giai đoạn của hạng mục hay nhóm hạng mục. Vì thế phải lập dự toán chi phí và
tính giá thành sản phẩm theo từng hạng mục hay giai đoạn của hạng mục.
Về cơ bản, việc hạch toán các phần hành kế toán như: Tài sản cố định, vật liệu, công cụ,
chi phí nhân công. Trong doanh nghiệp kinh doanh xây lắp cũng tương tự như doanh
nghiệp công nghiệp. Tuy nhiên, do đặc điểm của hoạt động kinh doanh và quản lý của
ngành xây dựng cơ bản mà nội dung của chi phí kinh doanh tạo nên chỉ tiêu giá thành sản
phẩm có một số khác biệt:
+ Giá thành công trình lắp đặt thiết bị không bao gồm giá trị thiết bị do đơn vị chủ
đầu tư bàn giao.
79 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 1795 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Thực tế tổ chức công tác kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm xây lắp tại Công ty xây dựng Sông Đà 10, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN:
Thực tế tổ chức công tác kế toán tập
hợp chi phí sản xuất và tính giá thành
sản phẩm xây lắp ở Công ty xây dựng
Sông Đà 10
Chương I: Lý luận chung về kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản
phẩm xây lắp ở công ty xây dựng Sông đà 10.
1.Sự cần thiết phải tổ chức kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản
phẩm trong doanh nghiệp xây lắp.
1.1Đặc điểm của ngành xây dựng cơ bản.
- Đặc điểm hoạt động kinh doanh xây lắp có ảnh hưởng đến hạch toán chi phí sản xuất
và tính giá thành sản phẩm xây lắp.
Sản phẩm xây lắp là các công trình, vật kiến trúc… có quy mô lớn, kết cấu phức tạp,
mang tính đơn chiếc, thời gian sản xuất kéo dài… Đặc điểm này làm cho vốn đầu tư xây
dựng cơ bản thường bị ứ đọng lâu tại công trình đang xây dựng, các tổ chức xây dựng dễ
gặp phải những rủi ro ngẫu nhiên theo thời gian, công trình xây dựng dễ bị hao mòn vô
hình. Do vậy, việc tổ chức và hạch toán nhất thiết phải có những dự án thiết kế thi công.
Sản phẩm xây lắp cố định tại nơi sản xuất còn các điều kiện sản xuất như lao động
vật tư, thiết bị luôn phải di chuyển theo địa điểm thi công. Mặt khác, hoạt động xây dựng
thường tiến hành ngoài trời, chịu ảnh hưởng của khí hậu, thời tiết nên dễ dẫn tới tình
trạng hao hụt, mất mát, lãng phí vật tư, tài sản làm tăng thiệt hại trong tổng chi phí sản
xuất.
Sản phẩm xây lắp hoàn thành không nhập kho mà được tiêu thụ ngay theo giá dự toán
hoặc giá thỏa thuận với chủ đầu tư từ trước. Do đó tính chất hàng hóa của sản phẩm thể
hiện không rõ.
Đối tượng hạch toán chi phí ở các doanh nghiệp xây lắp có thể là các hạng mục công
trình, các giai đoạn của hạng mục hay nhóm hạng mục. Vì thế phải lập dự toán chi phí và
tính giá thành sản phẩm theo từng hạng mục hay giai đoạn của hạng mục.
Về cơ bản, việc hạch toán các phần hành kế toán như: Tài sản cố định, vật liệu, công cụ,
chi phí nhân công.. Trong doanh nghiệp kinh doanh xây lắp cũng tương tự như doanh
nghiệp công nghiệp. Tuy nhiên, do đặc điểm của hoạt động kinh doanh và quản lý của
ngành xây dựng cơ bản mà nội dung của chi phí kinh doanh tạo nên chỉ tiêu giá thành sản
phẩm có một số khác biệt:
+ Giá thành công trình lắp đặt thiết bị không bao gồm giá trị thiết bị do đơn vị chủ
đầu tư bàn giao.
+ Giá thành công tác xây dựng và lắp đặt kết cấu bao gồm giá trị vật liệu kết cấu
và giá trị thiết bị kèm theo như: Thiết bị vệ sinh, thông gió, thiết bị sưởi ấm, thiết bị điều
hòa nhiệt độ, thiết bị truyền dẫn…
Từ những đặc điểm trên, đòi hỏi công tác hạch toán trong doanh nghiệp xây lắp
phải có những nét đặc trưng riêng để vừa phù hợp với ngành nghề, vừa thực hiện đúng
chức năng kế toán của mình. Từ đó cung cấp số liệu chính xác, kịp thời cho các cấp lãnh
đạo, tham mưu cho các cấp lãnh đạo trong việc tổ chức quản lý, tổ chức sản xuất hợp lý
để hoàn thành tốt kế hoạch đã đặt ra.
1.1.1. Chi phí sản xuất sản phẩm xây lắp
1.1.1.1. Khái niệm
Quá trình sản xuất trong doanh nghiệp xây lắp là quá trình chuyển biến của các
loại vật liệu xây dựng thành sản phẩm dưới sự tác động của máy móc thiết bị và sức lao
động của công nhân kỹ thuật. Hay nói cách khác, các yếu tố về tư liệu lao động, đối
tượng lao động dưới sự tác động có mục đích của sức lao động, quá trình thi công sẽ trở
thành sản phẩm xây lắp. Những hao phí này được biểu hiện dưới hình thái giá trị thì đó là
chi phí sản xuất.
Chi phí sản xuất trong xây dựng cơ bản là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ hao phí
về lao động sống và lao động vật hóa mà doanh nghiệp bỏ ra có liên quan đến hoạt động
sản xuất trong một thời kỳ nhất định.
Trong điều kiện nền kinh tế hàng hóa và cơ chế hạch toán kinh doanh, mọi chi phí đều
được biểu hiện bằng tiền, trong đó chi phí tiền công, tiền trích BHXH, BHYT là biểu
hiện bằng tiền của hao phí về lao động sống. Còn chi phí khấu hao TSCĐ, chi phí NVL là
biểu hiện bằng tiền của hao phí bằng lao động vật hóa.
Chi phí sản xuất của doanh nghiệp xây lắp phát sinh thường xuyên trong suốt quá
trình tồn tại và hoạt động sản xuất của doanh nghiệp, nhưng để phục vụ cho quản lý và
hạch toán kinh doanh, chi phí sản xuất phải được tính toán tập hợp theo một kỳ nhất định
và luôn phải là chi phí thực. ở đây có sự phân biệt giữa hai khái niệm chi tiêu và chi phí.
Chi tiêu là sự hao phí vật chất tại một thời điểm tiêu dùng cụ thể được ghi vào bên có
cuảe tài khoản tài sản, còn chi phí theo nghĩa trên được ghi vào bên nợ của tài khoản chi
phí, còn chi phí theo nghĩa trên được ghi vào bên nợ của tài khoản chi phí. Như vậy, có
nhiều khoản chi ra trong quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nhưng không
được coi là chi phí sản xuất như các khoản chi trả về vi phạm hợp đồng hao hụt nguyên
vật liệu ngoài định mức.
1.1.1.2. Yêu cầu quản lý, kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành
sản phẩm xây lắp trong doanh nghiệp xây lắp.
Xuất phát từ đặc điểm của ngành xây dựng cơ bản và của sản phẩm xây lắp, việc
quản lý đầu tư và xây dựng là hết sức khó khăn. Chỉ cần một chút lơi lỏng trong quản lý
có thể dẫn đến những tổn thất lớn. Đặc biệt từ khi chuyển đổi cơ chế, các doanh nghiệp
xây lắp đứng trước một thử thách rất lớn là làm sao quản lý doanh nghiệp được tốt, nâng
cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, cạnh tranh với các doanh nghiệp khác. Về phía Nhà
nước cũng đặt ra yêu cầu mới: một mặt phải tạo ra môi trường kinh doanh năng động cho
các doanh nghiệp, mặt khác vẫn phải giám sát chặt chẽ hoạt động của ngành xây dựng cơ
bản để đảm bảo cho các khoản đầu tư của Nhà nước được sử dụng hợp lý và hiệu quả.
Nhà nước đã ban hành một số văn bản quy định các điều khoản nhằm bảo vệ nâng cao
hiệu quả ngành xây dựng như: Trong điều lệ quản lý đầu tư và xây dựng ( Ban hành theo
quyết định số 177/CP ngày 20/10/1994 của Chính phủ) đã quy định một số yêu cầu cơ
bản của quản lý đầu tư và xây dựng là:
Công tác quản lý đầu tư và xây dựng cơ bản phải đảm bảo tạo ra những sản phẩm,
dịch vụ được xã hội chấp nhận về giá cả, chất lượng, đáp ứng được mụ tiêu phát triển
kinh tế trong từng thời kỳ.
Thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá, đẩy
nhanh tốc độ phát triển kinh tế, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của người dân.
Huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn đầu tư trong nước cũng như đầu
tư nước ngoài, khai thác nguồn tài nguyên, tiềm lực lao động, đất đai và các tiềm lực
khác đồng thời bảo vệ môi trường sinh thái.
Xây dựng phải theo quy hoạch được duyệt, thiết kế hợp lý, tiến tiến, mỹ quan. Xây dựng
phải đúng tiến độ, chất lượng cao với chi phí hợp lý và thực hiện bảo hành công trình.
Ngoài ra để quản lý hiệu quả chi phí trong ngành xây dựng cơ bản, Nhà nước đã
ban hành các chính sách chế độ về giá, các nguyên tắc lập dự toán, xây dựng các định
mức kinh tế kỹ thuật để xác định mức vốn đầu tư cho các công trình, hạng mục công
trình. Các doanh nghiệp phải tuân thủ theo các chế độ mà Nhà nước ban hành.
Mặt khác bản thân các doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển phải xác định
chính xác chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm xây lắp của mình làm cơ sở cho việc
hạch toán lãi lỗ cũng như việc quản lý chi phí để tìm ra những biện pháp tác động nhằm
tiết kiệm chi phí và hạ giá thành sản phẩm. Đặc biệt trong điều kiện hiện nay, lĩnh vực
xây dựng cơ bản chủ yếu áp dụng phương thức đấu thầu. Để thắng thầu các doanh nghiệp
xây lắp cần phải đưa ra một giá thầu hợp lý, một mặt chấp hành đúng định mức, đơn giá
do Nhà nước ban hành, đáp ứng yêu cầu kỹ, mỹ thuật mà vẫn phải đảm bảo có lãi. Muốn
làm được điều này, các doanh nghiệp phảo tăng cường công tác quản lý kinh tế mà trước
hết là quản lý sản xuất, quản lý chi phí và giá thành. Vì vậy, hoàn thiện công tác kế toán
tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm xây lắp được coi là một công việc
trọng tâm.
1.1.1.3Vai trò, nhiệm vụ của kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá
thành sản phẩm
Trong quá trình tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh, con người luôn quan
tâm đến hiệu quả của công việc, tức là tiến hành so sánh những chi phí mà họ đã bỏ ra và
kết quả mang lại. Họ luôn có mong muốn tăng lợi ích của mình bằng cách giảm thiểu các
chi phí, muốn vậy họ phải quản lý các chi phí đó. Con người đã sử dụng nhiều công cụ
khác nhau để quản lý, song có thể nói kế toán là một công cụ quản lý hữu hiệu. Với chức
năng ghi chép, tính toán, phản ánh, giám sát một cách thường xuyên liên tục sự vận động
của vật tư, tiền vốn, kế toán cung cấp cho các nhà quản lý những con số chính xác về chi
phí của từng bộ phận cũng như của toàn doanh nghiệp. Thông qua những dữ liệu mà kế
toán cung cấp, các nhà quản lý doanh nghiệp có thể nắm bắt được chi phí sản xuất và giá
thành thực tế của từng sản phẩm cũng như kết quả sản xuất của từng doanh nghiệp để
phân tích, đánh giá tình hình thực hiện các định mức chi phí và dự toán chi phí, tình hình
sử dụng vật tư lao động, tiền vốn, tình hình thực hiện kế hoạch giá thành để từ đó có
quyết định thích hợp.
Để tổ chức tốt công tác kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm, đáp
ứng tốt yêu cầu quản lý chi phí sản xuất và giá thành ở doanh nghiệp, kế toán tập hợp chi
phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm xây lắp phải thực hiện tốt các nhiệm vụ sau:
-Phản ánh đầy đủ, chính xác và kịp thời toàn bộ chi phí thực tế, tập hợp theo đúng
đối tượng tập hợp chi phí sản xuất đã xác định.
-Kiểm tra tình hình thực hiện các định mức chi phí về vật tư, nhân công, máy thi
công và các dự toán chi phí khác. Phát hiện kịp thời các khoản chênh lệch so với định
mức, các khoản chi phí ngoài kế hoạch, các khoản thiệt hại mất mát, hư hỏng trong sản
xuất để có biện pháp ngăn chặn kịp thời.
-Tính toán chính xác, kịp thời giá thành công tác xây lắp theo đối tượng tính giá
thành đã xác định.
-Kiểm tra việc thực hiện kế hoạch hạ giá thành sản phẩm của doanh nghiệp thep
từng công trình, hạng mục công trình vạch ra khả năng, biện pháp hạ giá thành một cách
hữu hiệu, hợp lý.
-Xác định đúng đắn và bàn giao thanh toán kịp thời khối lượng xây lắp hoàn
thành. Đinh kỳ kiểm tra và đánh giá khối lượng sản phẩm dở dang theo nguyên tắc xác
định.
- Đánh giá đúng kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của từng công trình, hạng
mục công trình, từng bộ phận thi công trong thời kỳ nhất định. Kịp thời lập báo cáo kế
toán về chi phí sản xuất và giá thành công tác xây lắp.hẩm xây lắp.
1.2 Chí phí sản xuất và giá thành sản phẩm xây lắp.
1.2.1 Chi phí sản xuất và phân loại chi phí sản xuất của doanh nghiệp xây
lắp:
Việc quản lý chi phí sản xuất, không chỉ dựa vào các số liệu tổng hợp về chi phí
sản xuất mà còn căn cứ vào các số liệu cụ thể của từng loại chi phí theo từng công trình,
hạng mục công trình trong từng thời điểm nhất định. Do vậy, phân loại theo chi phí sản
xuất là yêu cầu tất yếu cho công tác quản lý và hạch toán ở doanh nghiệp.Tùy vào yêu
cầu của từng mặt quản lý, giác độ xem xét chi phí… mà chi phí sản xuất được sắp xếp
phân loại theo các cách thức khác nhau.
Thông thường, chi phí sản xuất sản phẩm xây lắp được phân theo các tiêu thức sau:
1.2.1.1. Phân loại chi phí sản xuất theo yếu tố.
Cách phân loại này các yếu tố chi phí có cùng chung nội dung, tính chất kinh tế
được xếp chung vào cùng một yếu tố, không kể chi phí phát sinh ở đâu hay dùng vào
mục đích gì trong quá trình sản xuất. Đối với doanh nghiệp xây lắp bao gồm các yếu tố
chi phí sau:
+ Chi phí nguyên vật liệu: Xi măng, sắt thép, cát sỏi, gạch ngói..
+ Chi phí nhiên liệu động lực sử dụng vào quá trình sản xuất thi công: Xăng, dầu,
mỡ.
+ Chi phí tiền lương và các khoản phụ cấp lương của công nhân viên trực tiếp và
gián tiếp sản xuất.
+ Các khoản BHXH, BHYT, KPCĐ (theo tỷ lệ 19%).
+ Chi phí khấu hao tài sản cố định là các khoản hao mòn của các loại tài sản có
trong doanh nghiệp như: Nhà xưởng làm việc, các loại ô tô, cần cẩu, máy thi công… và
khấu hao các tài sản cố định dùng trong quản lý khác.
+ Chi phí dịch vụ mua ngoài như điện nước, điện thoại, điện báo.
+ Chi phí khác bằng tiền.
Việc phân loại chi phí sản xuất theo nội dung, tính chất kinh tế có tác dụng rất lớn
trong công tác quản lý chi phí sản xuất. Nó cho biết được nội dung kinh tế ban đầu đông
nhất của từng khoản chi phí, là cơ sở để lập kế hoạch cung ứng vật tư, kế hoạch quỹ tiền
lương, tính toán nhu cầu vốn lưu động cho kỳ sau và cung cấp tài liệu để tính toán thu
nhập quốc dân.
1.2.1.2 Phân loại chi phí sản xuất theo mối quan hệ với quá trình sản xuất.
Theo cách phân loại này chi phí sản xuất được chia làm hai loại:
+Chi phí trực tiếp: Là những khoản chi phí có liên quan trực tiếp tới quá trình sản
xuất và tạo ra sản phẩm. Nó bao gồm chi phí về NVL xây dựng, tiền lương công nhân sản
xuất, khấu hao máy móc thi công.
+ Chi phí gián tiếp: Gồm những khoản chi phí phục vụ chung cho việc tổ chức thi
công và không tính trực tiếp cho từng đối tượng cụ thể. Các chi phí này bao gồm: chi phí
quản lý hành chính, chi phí phục vụ nhân công, chi phí phục vụ thi công, chi phí về
ngừng sản xuất, chi phí các khoản thiệt hại phá đi làm lại và các chi phí chung khác.Cách
phân loại các sản phẩm sản xuất này có ý nghĩa đối với việc xác định phương pháp kế
toán tập hợp và phân bố chi phí cho các đối tượng một cách đúng đắn, hợp lý. Đồng thời
là kế hoạch để tiết kiệm chi phí.
1.2.1.3.Phân loại chi phí theo khoản mục giá thành
Theo cách phân loại này, căn cứ vào mục đích vào công dụng của cp trong sản xuất để
chia các khoản mục chi phí khác nhau, mỗi khoản mục chi phí bao gồm những chi phí có
cùng mục đích và công dụng, không phân biệt chi phí đó có nội dung kinh tế như thế
nào? Toàn bộ chi phí phát sinh trong kỳ được chia làm các khoản mục chi phí sau:
+ Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp: Là tất cả những chi phí về nguyên vật liệu chi
ra để cần tạo nên một thực thể công trình như: Gạch, đá, thép, xi măng, sắt thép… các
cấu kiện bê tông và các phụ gia khác. Giá trị vật liệu trên được tính theo giá thực tế gồm
giá mua ghi trên hóa đơn của người bán và các khoản chi phí thu mua thực tế như vận
chuyển, bốc dỡ…
Trong khoản chi phí nguyên vật liệu không bao gồm các loại vật liệu phụ, nhiên liệu
dùng cho máy thi công, các loại vật liệu làm cho công trình tạm như: Lán trại che mưa,
các chi phí vượt qua định mức cho phép.
+ Chi phí nhân công trực tiếp: Là toàn bộ tiền lương, lương phụ, phụ cấp, và các
khoản trích theo lương của công nhân trực tiếp sản xuất, công nhân vận chuyển vật liệu
trong thi công, công nhân chuẩn bị thi công và thu dọn hiện trường.
Như vậy chi phí nhân công trực tiếp bao gồm tiền lương trả theo thời gian trả theo sản
phẩm, trả lương thêm giờ. Nhưng khoản mục này không bao gồm tiền lương và các
khoản có tính chất lương của công nhân điều khiển máy móc thi công, tiền lương của
công nhân vận chuyển ngoại cự ly thi công.
+ Chi phí sử dụng máy thi công: Là các chi phí trực tiếp liên quan đến việc sử
dụng máy để hoàn thành sản phẩm xây lắp bao gồm: Tiền khấu hao máy móc thiết bị,
tiền thuê máy, tiền lương công nhân điều khiển máy móc thi công, chi phí về nhiên liệu
động lực dùng trong thi công.
+ Chi phí sản xuất chung: Là những khoản chi phí trực tiếp phục vụ cho sản xuất
của đội, chi phí liên quan đến nhiều công trình, chi phí này bao gồm: Chi phí tiền lương
công nhân quản lý đội, các khoản trích theo lương, khấu hao TSCĐ dùng cho đội, chi phí
vật liệu, công cụ, dụng cụ dùng chung cho quản lý đội.
Như vậy, cách phân loại này cho ta biết được điểm sử dụng chi phí, công dụng của
từng k hoản chi phí và mức phân bố của từng loại giúp cho việc xác định chỉ tiêu giá
thành được nhanh chóng và kịp thời.
Do đặc điểm của sản phẩm xây lắp và phương pháp lập dự toán trong xây dựng cơ bản là
dự toán được lập cho từng đối tượng xây dựng theo các khoản mục giá thành nên phương
pháp loại chi phí là phương pháp được sử dụng rất phổ biến trong các doanh nghiệp kinh
doanh xây lắp
1.2.2 Giá thành sản phẩm xây lắp
1.2.2.1. Khái niệm
Quá trình sản xuất là quá trình thống nhất gồm hai mặt: Mặt hao phí sản xuất và
mặt kết quả sản xuất. Chi phí sản xuất phản ánh mặt hao phí sản xuất, còn giá thành sản
phẩm phản ánh mặt kết quả sản xuất. Tất cả các khoản chi phí phát sinh trong quá trình
thi công và các chi phí trích trước có liên quan đến khối lượng sản phẩm xây lắp hoàn
thành bàn giao trong kỳ sẽ tạo nên chỉ tiêu giá thành sản phẩm xây lắp.
Như vậy, giá thành sản phẩm xây lắp là toàn bộ chi phí tính bằng tiền để hoàn
thành khối lượng sản phẩm xây lắp theo quy định.
Giá thành sản phẩm xây lắp là chỉ tiêu kinh tế tổng hợp, phản ánh chất lượng hoạt
động sản xuất, phản ánh kết quả sử dụng đúng các loại tài sản, vật tự lao động, tiền vốn
trong quá trình sản xuất cũng như các giải pháp kinh tế kỹ thuật mà doanh nghiệp đã thực
hiện nhằm đạt được khối lượng sản phẩm nhiều nhất với chi phí sản xuất tiết kiệm và hạ
giá thành. Giá thành sản phẩm xây lắp là căn cứ để tính toán, xác định hiệu quả kinh tế,
các hoạt động sản xuất của doanh nghiệp.
1.2.2.2. Phân loại giá thành sản phẩm
Để đáp ứng các yêu cầu của quản lý, hạch toán và kế hoạch hóa giá thành cũng
như yêu cầu xây lắp giá cả hàng hóa, giá thành được xem xét dưới nhiều góc độ, nhiều
phạm vi tính toán khác nhau.
Trong xây dựng cơ bản, giá thành sản phẩm được phân loại theo các tiêu thức sau:
Căn cứ vào cơ số số liệu và thời điểm để tính giá thành thì giá thành sản xuất xây
lắp được chia ra thành
+ Giá thành dự toán (ZDT)
Là tổng số các chi phí dự toán để hoàn thành một khối lượng sản phẩm xây lắp.
Giá dự toán được xác định trên cơ sở định mức theo thiết kế được duyệt và khung giá quy
định đơn giá xây dựng cơ bản áp dụng vào từng vùng lãnh thổ, từng vùng địa phương do
cấp có thẩm quyền ban hành.
Giá thành dự toán nhỏ hơn so với giá trị dự toán công trình xây lắp ở phần lợi
nhuận định mức.
Như vậy:
Giá trị dự toán = giá thành dự toán + Lợi nhuận định mức.
Giá trị dự toán là do chi phí cho công tác xây dựng, lắp ráp các cấu kiện, lắp đặt
các máy móc thiết bị.. bao gồm các chi phí vật liệu, chi phí nhân công, chi phí máy thi
công và chi phí sản xuất chung cộng thêm phần lợi nhuận định mức.
Lợi nhuận định mức là chỉ tiêu Nhà nước quy định để tích lũy cho xã hội do ngành xây
dựng sáng tạo.
+ Giá thành kế hoạch (Zhk)
Là giá thành xuất phát từ những điều kiện cụ thể ở mỗi đơn vị xây lắp trên cơ sở biện
pháp thi công các định mức, đơn giá áp dụng trong đơn vị.
Giá thành KH = Giá thành dự toán + Mức hạ giá thành dự toán.
Giá thành kế hoạch cho phép chúng ta xem xét thấy được chính xác những chi phí
phát sinh trong giai đoạn kế hoạch cũng như hiệu quả của các biện pháp kỹ thuật là hạ giá
thành dự toán. Giá thành kế hoạch được xem là mục tiêu phấn đấu của các doanh nghiệp,
là cơ sở đánh giá tình trạng thực hiện kế hoạch doanh nghiệp.
+ Giá thành thực tế ( Ztt)
Là toàn bộ những chi phí thực tế đã hoàn thành bàn giao khối lượng xây, lắp mà
đơn vị đã nhận thầu, giá thành thực thể được xác định theo số liệu kế toán.
Đánh giá chính xác chất lượng hoạt động sản xuất của doanh nghiệp xây lắp thì
cần phải so sánh các loại giá thành trên với nhau, vì giá thành dự toán mang tính chất xã
hội nên việc so sánh giá thành thực tế với giá thành dự toán cho phép ta đánh giá được
trình độ quản lý của doanh nghiệp xây lắp trong mối quan hệ chung với các doanh nghiệp
xây lắp khác. Còn việc so sánh giá thành dự toán với giá thành thực tế cho phép ta đánh
giá được sự tiến bộ hay yếu kém của doanh nghiệp xây lắp trong điều kiện cụ thể về cơ
sở vật chất kỹ thuật và trình độ tổ chức quản lý của bản thân doanh nghiệp. Trong việc so
sánh này cần đảm bảo tính thống nhất và có thể so sánh được, tức là phải thực hiện trên
cùng một đối tượng tính giá thành.
Về nguyên tắc thì mối quan hệ giữa các giá thành trên phải đảm bảo như sau: Zdt ( kh (
thị trường
Đây cũng là nguyên tắ