Pháp luật là công cụ điều chỉnh các quan hệ xã hội và đời sống cộng đồng, là sản phẩm của sự phát triển xã hội vừa mang tính khách quan, vừa mang tính chủ quan. Chính vì vậy, pháp luật có một ý nghĩa và vai trò đặc biệt quan trọng. Trong bối cảnh xã hội Việt nam hiện nay, pháp luật là vũ khí chính trị sắc bén để nhân dân đấu tranh chống lại các lực lượng thù địch, giữ vững an ninh quốc phòng và trật tự an toàn xã hội; là cơ sở pháp lý để bộ máy Nhà nước Việt Nam tổ chức và hoạt động; là công cụ để Nhà nước quản lý hữu hiệu các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội; là phương tiện thiết lập và bảo đảm công bằng, thực hiện dân chủ xã hội chủ nghĩa; là cơ sở bảo vệ hữu hiệu quyền công dân; đồng thời, pháp luật tạo điều kiện cho những công cụ quản lý xã hội khác phát triển vì một xã hội công bằng, văn minh, tốt đẹp hơn. Nhận thức được tầm quan trọng đó, Nhà nước ta luôn coi xây dựng pháp luật là một hoạt động cơ bản và quan trọng hàng đầu. Những năm qua, đặc biệt là khi Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2008 ra đời, hoạt động xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật của các cơ quan Nhà nước đã gặt hái được những kết quả đáng kích lệ. Góp phần to lớn vào sự thành công chung đó, phải kể tới hoạt động ban hành văn bản quy phạm pháp luật của các cơ quan Nhà nước ở trung ương.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành công đã đạt được, hoạt động ban hành văn bản quy phạm pháp luật của các cơ quan Nhà nước ở trung ương cũng bộc lộ những hạn chế và bất cập, nhất là vào giai đoạn hiện nay, khi đất nước ta đang trong quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập kinh tế quốc tế. Một số quan hệ xã hội quan trọng vẫn chưa được điều chỉnh; quy trình xây dựng văn bản quy phạm pháp luật còn chưa được thực hiện nghiêm túc; nội dung nhiều văn bản quy phạm pháp luật còn mâu thuẫn, chồng chéo, không thống nhất, thiếu tính khả thi; văn bản quy đinh chi tiết và hướng dẫn thi hành còn “nợ đọng”;
Xuất phát từ thực trạng đó, việc nghiên cứu các vấn đề lý luận và thực tiễn về hoạt động xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật của các cơ quan Nhà nước ở trung ương là điều hết sức quan trọng và cần thiết. Do vậy, em đã mạnh dạn chọn đề tài: “Thực trạng ban hành văn bản quy phạm pháp luật của các cơ quan Nhà nước ở trung ương” với hy vọng sẽ góp phần cung cấp cơ sở lý luận và thực tiễn cho việc nâng cao hơn nữa hiệu quả hoạt động xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật. Song, trong phạm vi của một đề tài khóa luận tốt nghiệp cử nhân, em chỉ dừng lại xem xét, tìm hiểu khái niệm, đặc điểm, đánh giá thực trạng ban hành văn bản quy phạm pháp luật của các cơ quan Nhà nước ở trung ương, từ đó đưa ra những giải pháp cho việc hoàn thiện hoạt động này.
Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở vận dụng phương pháp luận truyền thống của chủ nghĩa Mác - Lênin và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về xây dựng nhà nước pháp quyền trong nền kinh tế thị trường. Ngoài ra, đề tài còn sử dụng các phương pháp bổ trợ như phân tích, tổng hợp, so sánh, lịch sử, thống kê, kết hợp lý luận và thực tiễn để làm sáng tỏ đề tài nghiên cứu.
Luận văn được trình bày theo bố cục như sau:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về văn bản quy phạm pháp luật do các cơ quan Nhà nước ở trung ương ban hành.
Chương 2: Thực trạng ban hành văn bản quy phạm pháp luật của các cơ quan Nhà nước ở trung ương và một số kiến nghị hoàn thiện.
Đây là một đề tài rộng và khó, với kiến thức còn hạn hẹp và thiếu kinh nghiệm thực tế nên mặc dù đã được sự chỉ bảo nhiệt tình và tận tâm của Cô giáo hướng dẫn cùng sự giúp đỡ của bè bạn, luận văn vẫn không thể tránh khỏi những hạn chế. Vì vậy, em rất mong nhận được sự chỉ bảo, đóng góp của các Thầy, Cô giáo và các bạn.
Em xin chân thành cảm ơn!
61 trang |
Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 2287 | Lượt tải: 7
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Thực trạng ban hành văn bản quy phạm pháp luật của các cơ quan Nhà nước ở trung ương, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU
Pháp luật là công cụ điều chỉnh các quan hệ xã hội và đời sống cộng đồng, là sản phẩm của sự phát triển xã hội vừa mang tính khách quan, vừa mang tính chủ quan. Chính vì vậy, pháp luật có một ý nghĩa và vai trò đặc biệt quan trọng. Trong bối cảnh xã hội Việt nam hiện nay, pháp luật là vũ khí chính trị sắc bén để nhân dân đấu tranh chống lại các lực lượng thù địch, giữ vững an ninh quốc phòng và trật tự an toàn xã hội; là cơ sở pháp lý để bộ máy Nhà nước Việt Nam tổ chức và hoạt động; là công cụ để Nhà nước quản lý hữu hiệu các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội; là phương tiện thiết lập và bảo đảm công bằng, thực hiện dân chủ xã hội chủ nghĩa; là cơ sở bảo vệ hữu hiệu quyền công dân; đồng thời, pháp luật tạo điều kiện cho những công cụ quản lý xã hội khác phát triển vì một xã hội công bằng, văn minh, tốt đẹp hơn. Nhận thức được tầm quan trọng đó, Nhà nước ta luôn coi xây dựng pháp luật là một hoạt động cơ bản và quan trọng hàng đầu. Những năm qua, đặc biệt là khi Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2008 ra đời, hoạt động xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật của các cơ quan Nhà nước đã gặt hái được những kết quả đáng kích lệ. Góp phần to lớn vào sự thành công chung đó, phải kể tới hoạt động ban hành văn bản quy phạm pháp luật của các cơ quan Nhà nước ở trung ương.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành công đã đạt được, hoạt động ban hành văn bản quy phạm pháp luật của các cơ quan Nhà nước ở trung ương cũng bộc lộ những hạn chế và bất cập, nhất là vào giai đoạn hiện nay, khi đất nước ta đang trong quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập kinh tế quốc tế. Một số quan hệ xã hội quan trọng vẫn chưa được điều chỉnh; quy trình xây dựng văn bản quy phạm pháp luật còn chưa được thực hiện nghiêm túc; nội dung nhiều văn bản quy phạm pháp luật còn mâu thuẫn, chồng chéo, không thống nhất, thiếu tính khả thi; văn bản quy đinh chi tiết và hướng dẫn thi hành còn “nợ đọng”;…
Xuất phát từ thực trạng đó, việc nghiên cứu các vấn đề lý luận và thực tiễn về hoạt động xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật của các cơ quan Nhà nước ở trung ương là điều hết sức quan trọng và cần thiết. Do vậy, em đã mạnh dạn chọn đề tài: “Thực trạng ban hành văn bản quy phạm pháp luật của các cơ quan Nhà nước ở trung ương” với hy vọng sẽ góp phần cung cấp cơ sở lý luận và thực tiễn cho việc nâng cao hơn nữa hiệu quả hoạt động xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật. Song, trong phạm vi của một đề tài khóa luận tốt nghiệp cử nhân, em chỉ dừng lại xem xét, tìm hiểu khái niệm, đặc điểm, đánh giá thực trạng ban hành văn bản quy phạm pháp luật của các cơ quan Nhà nước ở trung ương, từ đó đưa ra những giải pháp cho việc hoàn thiện hoạt động này.
Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở vận dụng phương pháp luận truyền thống của chủ nghĩa Mác - Lênin và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về xây dựng nhà nước pháp quyền trong nền kinh tế thị trường. Ngoài ra, đề tài còn sử dụng các phương pháp bổ trợ như phân tích, tổng hợp, so sánh, lịch sử, thống kê, kết hợp lý luận và thực tiễn để làm sáng tỏ đề tài nghiên cứu.
Luận văn được trình bày theo bố cục như sau:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về văn bản quy phạm pháp luật do các cơ quan Nhà nước ở trung ương ban hành.
Chương 2: Thực trạng ban hành văn bản quy phạm pháp luật của các cơ quan Nhà nước ở trung ương và một số kiến nghị hoàn thiện.
Đây là một đề tài rộng và khó, với kiến thức còn hạn hẹp và thiếu kinh nghiệm thực tế nên mặc dù đã được sự chỉ bảo nhiệt tình và tận tâm của Cô giáo hướng dẫn cùng sự giúp đỡ của bè bạn, luận văn vẫn không thể tránh khỏi những hạn chế. Vì vậy, em rất mong nhận được sự chỉ bảo, đóng góp của các Thầy, Cô giáo và các bạn.
Em xin chân thành cảm ơn!
Chương 1:
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ VĂN BẢN QUY PHẠM PHÁP LUẬT DO CÁC CƠ QUAN NHÀ NƯỚC Ở TRUNG ƯƠNG BAN HÀNH.
1.1 Khái niệm văn bản quy phạm pháp luật.
Nhà nước và pháp luật là hai hiện tượng xã hội đa dạng, phức tạp và không thể tách rời. Nhà nước hình thành để thực hiện nhiệm vụ tác động tới các quan hệ xã hội nhằm đạt được mục tiêu quản lý theo ý chí của giai cấp thống trị. Thực hiện mục tiêu đó, Nhà nước phải sử dụng một công cụ điều chỉnh tồn tại song song với sự tồn tại của Nhà nước, đó là pháp luật. Pháp luật được hình thành, phát triển bằng con đường nhà nước và Nhà nước chỉ tồn tại được khi có pháp luật. Nhà nước sử dụng pháp luật dưới nhiều hình thức như: tập quán pháp, tiền lệ pháp và văn bản quy phạm pháp luật. Trong những hình thức đó, văn bản quy phạm pháp luật là hình thức tiến bộ nhất. Với những đặc điểm đặc biệt và ưu thế mà tập quán pháp, tiền lệ pháp không có, văn bản quy phạm pháp luật trở thành hình thức pháp luật chủ đạo và phù hợp nhất với kiểu pháp luật xã hội chủ nghĩa.
Tuy nhiên, dù vai trò của văn bản quy phạm pháp luật đã được nhận định từ lâu thì phải tới năm 1996, khi Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật lần đầu tiên ra đời, khái niệm văn bản quy phạm pháp luật mới được quy định cụ thể và thống nhất. Điều 1, Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật 1996 quy định: “Văn bản quy phạm pháp luật là văn bản do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành theo thủ tục, trình tự luật định, trong đó có các quy tắc xử sự chung, được Nhà nước đảm bảo thực hiện nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội theo định hướng xã hội chủ nghĩa”. Đáp ứng yêu cầu quản lý của Nhà nước, năm 2004, Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân ra đời, vì vậy, khái niệm văn bản quy phạm pháp luật cũng có sự thay đổi: “Văn bản quy phạm pháp luật là văn bản do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành hoặc phối hợp ban hành theo thẩm quyền, hình thức, trình tự, thủ tục được quy định trong luật này hoặc luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân, trong đó có quy tắc xử sự chung, có hiệu lực bắt buộc chung được nhà nước bảo đảm thực hiện để điều chỉnh các quan hệ xã hội” (khoản 1, Điều 1, Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2008).
Căn cứ vào khái niệm văn bản quy phạm pháp luật nêu trên thì chủ thể có thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật phải là các cơ quan Nhà nước. Tuy nhiên, Điều 2, Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2008 lại liệt kê các cá nhân có thẩm quyền ban hành như Chủ tịch nước; Thủ tướng Chính phủ; Chánh án Tòa án nhân dân tối cao; Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao; Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ; Tổng Kiểm toán Nhà nước (khoản 2,5,6,7,8,9, Điều 2). Như vậy, có thể thấy giữa hai Điều luật này đã có sự không thống nhất, dễ tạo ra lầm tưởng về chủ thể ban hành văn bản. Sẽ hợp lý hơn nếu Luật quy định rõ văn bản quy phạm pháp luật do các cá nhân và cơ quan Nhà nước có thẩm quyền ban hành.
Với đề tài khóa luận “Thực trạng ban hành văn bản quy phạm pháp luật của các cơ quan Nhà nước ở trung ương”, người viết xin đi sâu vào tìm hiểu thực trạng ban hành nhóm văn bản quy phạm pháp luật của các cơ quan Nhà nước ở trung ương, bao gồm: Hiến pháp, Luật, Nghị quyết của Quốc hội; Pháp lệnh, Nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội; Nghị định của Chính phủ; Nghị quyết của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao; Nghị quyết liên tịch giữa Ủy ban thường vụ Quốc hội hoặc giữa Chính phủ với cơ quan trung ương của tổ chức chính trị xã hội; Thông tư liên tịch giữa Chánh án Tòa án nhân dân tối cao với Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao; giữa Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ với Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, giữa các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ (khoản 1,2,4,6,10,11, Điều 2, Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2008).
1.2 Đặc điểm văn bản quy phạm pháp luật do các cơ quan Nhà nước ở trung ương ban hành.
Các cơ quan nhà nước ở trung ương là những cơ quan đầu não của cả nước, thể hiện tập trung nhất quyền lực của một chế độ xã hội. Vì vậy, văn bản quy phạm pháp luật do những chủ thể này ban hành có một vai trò rất đặc biệt. Nó không chỉ là những văn bản có phạm vi áp dụng rộng rãi nhất mà còn là cơ sở pháp lý để nhiều văn bản quy phạm pháp luật khác ra đời. Giữ vị trí đặc biệt quan trọng trong hệ thống pháp luật, văn bản quy phạm pháp luật do các cơ quan Nhà nước ở trung ương ban hành mang những đặc điểm sau:
Văn bản quy phạm pháp luật do chủ thể có thẩm quyền ban hành theo quy định của pháp luật.
Với vai trò quan trọng là công cụ điều chỉnh các quan hệ xã hội , là cơ sở cho việc ban hành văn bản áp dụng pháp luật và văn bản hành chính, văn bản quy phạm pháp luật do đó chỉ được ban hành bởi các chủ thể nhất định theo quy định của pháp luật. Điều 2, Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2008 quy định những cơ quan có thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật bao gồm: Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Hội đồng thẩm phán tòa án nhân dân tối cao, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân các cấp, có sự phối hợp giữa các cơ quan nhà nước với nhau hoặc giữa các cơ quan nhà nước với cơ quan trung ương của tổ chức chính trị - xã hội. Ngoài ra, các cá nhân cũng có thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật, đó là: Chủ tịch nước, Thủ tướng Chính phủ, Chánh án tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, Tổng Kiểm toán Nhà nước
Vì vậy, dấu hiệu đầu tiên để khẳng định văn bản quy phạm pháp luật do các cơ quan Nhà nước ở trung ương ban hành là văn bản được ban hành bởi những chủ thể: Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội; Chính phủ; Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao và có sự phối hợp giữa các cơ quan Nhà nước với nhau hoặc với các cơ quan trung ương của tổ chức chính trị - xã hội .
Văn bản quy phạm pháp luật được ban hành bởi các cơ quan Nhà nước ở trung ương có hình thức do pháp luật quy định.
Theo quy định của pháp luật hiện hành, hình thức của văn bản quy phạm pháp luật bao gồm hai yếu tố cấu thành là: tên gọi và thể thức của văn bản.
Điều 2, Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2008 có quy định tên gọi của các văn bản quy phạm pháp luật do các cơ quan Nhà nước ở trung ương ban hành, bao gồm: Hiến pháp, Luật, Nghị quyết, Pháp lệnh, Nghị định, Nghị quyết liên tịch, Thông tư liên tịch. Việc quy định tên gọi của văn bản như trên đã thể hiện thẩm quyền về hình thức của các cơ quan ban hành văn bản: trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, cơ quan được quyền ban hành những loại văn bản nào và khi điều chỉnh một vấn đề pháp lý cụ thể, cơ quan ban hành phải ban hành đúng hình thức văn bản đó. Việc tuân thủ quy định về tên gọi nói riêng và hình thức của văn bản quy phạm pháp luật do các cơ quan Nhà nước ở trung ương ban hành nói chung là điều kiện cần để khẳng định nội dung của văn bản (là có chứa quy phạm pháp luật). Đồng thời, nó còn giúp phân biệt với các loại văn bản quy phạm pháp luật của các cơ quan Nhà nước khác cũng như với văn bản do các cá nhân ban hành; xác định thứ bậc, hiệu lực của từng loại văn bản.
Bên cạnh tên gọi, pháp luật còn quy định về thể thức của văn bản quy phạm pháp luật. Thể thức văn bản quy phạm pháp luật được hiểu là kết cấu về hình thức của văn bản. Hiện nay, thể thức của văn bản quy phạm pháp luật do các cơ quan Nhà nước ở trung ương ban hành nói riêng và của các chủ thể có thẩm quyền nói chung được quy định cụ thể trong Thông tư liên tịch số 55/2005/TTLT-BNV-VPCP ngày 06/05/2005 của Bộ Nội vụ và Văn phòng Chính phủ hướng dẫn về thể thức và kĩ thuật trình bày văn bản và Quyết định số 20/2002/QĐ-BKHCN, ngày 31/12/2002 của Bộ Khoa học và công nghệ ban hành tiêu chuẩn Việt nam số 5700 năm 2002.
Văn bản quy phạm pháp luật do các cơ quan Nhà nước ở trung ương ban hành phải tuân theo trình tự, thủ tục luật định.
Với vai trò là công cụ không thể thiếu trong hoạt động quản lý nhà nước, văn bản quy phạm pháp luật được ban hành phải đảm bảo sự thống nhất, chặt chẽ về mọi mặt, trong đó có trình tự và thủ tục ban hành. Vì thế, Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2008 đã có những quy định khá chi tiết và hợp lý về thủ tục ban hành văn bản quy phạm pháp luật của các cơ quan Nhà nước ở trung ương. Các cơ quan Nhà nước ở trung ương có vị trí, chức năng nhất định, ban hành văn bản để điều chỉnh các quan hệ xã hội có tính chất và vai trò khác nhau. Chính vì thế, mỗi cơ quan Nhà nước cần tuân theo trình tự và thủ tục ban hành văn bản quy phạm pháp luật riêng. Theo đó, trình tự, thủ tục ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Quốc hội và Ủy ban thường vụ Quốc hội được quy định cụ thể tại chương III (từ Điều 22 đến Điều 57); của Chính phủ được quy định tại chương V (từ Điều 59 đến Điều 66); của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao tại chương VI (Điều 69); trình tự thủ tục ban hành văn bản quy phạm pháp luật liên tịch được quy định tại chương VII (Điều 73, Điều 74).
Việc quy định cụ thể về trình tự, thủ tục ban hành đối với mỗi loại văn bản quy phạm pháp luật của các cơ quan Nhà nước ở trung ương không chỉ nhằm thống nhất hóa các hoạt động xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật mà còn có vai trò trợ giúp cho người soạn thảo, tạo cơ chế trong việc phối hợp, kiểm tra, giám sát của những cơ quan có thẩm quyền, từ đó hạn chế khiếm khuyết trong hoạt động của Nhà nước. Một văn bản quy phạm pháp luật có chất lượng cao phụ thuộc rất lớn vào việc thực hiện đúng, đủ, nghiêm túc quy trình ban hành văn bản quy phạm pháp luật của các chủ thể có thẩm quyền và sự hoàn thiện của pháp luật trong quy định đối với thủ tục ban hành văn bản quy phạm pháp luật.
Văn bản quy phạm pháp luật do các cơ quan Nhà nước ở trung ương ban hành có nội dung là các quy phạm pháp luật mang tính bắt buộc chung, được áp dụng nhiều lần đối với nhiều đối tượng, có hiệu lực trong phạm vi toàn quốc.
Quy phạm pháp luật là quy tắc xử sự do Nhà nước ban hành và bảo đảm thực hiện, thể hiện ý chí của giai cấp thống trị nhằm điều chỉnh các mối quan hệ xã hội. Các quy tắc xử sự là những khuôn mẫu, những chuẩn mực mà mọi cơ quan, tổ chức, cá nhân phải tuân theo khi tham gia các quan hệ xã hội được các quy tắc đó điều chỉnh.
Với nội dung là các quy tắc xử sự chung, văn bản quy phạm pháp luật do các cơ quan Nhà nước ở trung ương ban hành cũng giống như các văn bản quy phạm pháp luật khác: đều mang tính bắt buộc chung. Tính bắt buộc chung của văn bản quy phạm pháp luật được hiểu là bắt buộc đối với mọi chủ thể nằm trong những điều kiện nhất định mà quy phạm pháp luật đó đã dự liệu. Đồng thời, để tính bắt buộc chung của văn bản quy phạm pháp luật có hiệu quả trên thực tế, Nhà nước đã đề ra những biện pháp để bảo đảm thực hiện như: tuyên truyền, giáo dục, thuyết phục, hành chính, kinh tế , cưỡng chế,…
Hơn nữa, văn bản quy phạm pháp luật do các cơ quan Nhà nước ở trung ương ban hành nhằm dự liệu những trường hợp, tình huống để áp dụng cho mọi đối tượng có đủ điều kiện như trong dự liệu đó. Vì vậy, chúng không như văn bản áp dụng pháp luật chỉ được áp dụng cho một chủ thể hoặc được áp dụng một lần, mà còn được áp dụng lặp đi lặp lại nhiều lần trong thực tế.
Văn bản quy phạm pháp luật do các chủ thể có thẩm quyền khác nhau ban hành thì có nội dung và hiệu lực áp dụng không giống nhau. Thông thường, văn bản quy phạm pháp luật do các cơ quan Nhà nước ở trung ương ban hành có hiệu lực pháp lý trong phạm vi cả nước. Tuy nhiên, cũng có trường hợp văn bản quy phạm pháp luật do các cơ quan nhà nước ở trung ương ban hành nhưng chỉ có hiệu lực pháp lý trên phạm vi một số địa phương. Và trường hợp ngoại lệ này thường áp dụng đối với các địa phương có đặc thù về điều kiện kinh tế - xã hội, điều kiện địa lý, dân cư,…
Văn bản quy phạm pháp luật do các cơ quan Nhà nước ở trung ương ban hành được Nhà nước bảo đảm thực hiện.
Pháp luật mang tính giai cấp, thông qua pháp luật giai cấp lãnh đạo đã thể hiện ý chí của mình nhằm thực hiện hoạt động quản lý xã hội. Để thực hiện điều đó, việc thực thi pháp luật cũng phải được đảm bảo bằng nhiều biện pháp trên thực tế.
Trước hết, Nhà nước thực hiện tuyên truyền, giáo dục, phổ biến pháp luật để mọi chủ thể tự nguyện, tự giác tuân thủ và thực hiện đúng nội dung văn bản quy phạm pháp luật. Nếu các chủ thể có nghĩa vụ không thực hiện hoặc thực hiện không đúng thì Nhà nước sẽ có những biện pháp cưỡng chế thích hợp buộc các chủ thể phải chịu trách nhiệm pháp lý trước Nhà nước. Ngược lại, nếu các chủ thể thực hiện tốt thì có thể được khích lệ về tinh thần hoặc vật chất như: tặng huân chương, huy chương, bằng khen, thưởng tiền,…
Với vai trò là công cụ quản lý của Nhà nước, cũng giống như các văn bản quy phạm pháp luật khác, văn bản quy phạm pháp luật do các cơ quan Nhà nước ở trung ương ban hành luôn được Nhà nước bảo đảm thực hiện trên thực tế.
1.3 Thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật của các cơ quan nhà nước ở Trung ương.
Hoạt động xây dựng văn bản quy phạm pháp luật là một hoạt động chuyên môn do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền thực hiện hoặc phối hợp thực hiện bằng việc xác lập những hình thức văn bản khác nhau. Thông qua các văn bản quy phạm pháp luật, ý chí của nhà nước cùng các giá trị khách quan của xã hội được thể hiện thông qua ý chí chủ quan của những chủ thể có thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật. Vì vậy, để hoạt động ban hành văn bản quy phạm pháp luật đạt hiệu quả cao, chất lượng văn bản được bảo đảm thì một trong những vấn đề phải chú ý trước nhất đó là thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật.
Theo quy định của pháp luật hiện nay, thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật của các cơ quan nhà nước nói chung và các cơ quan nhà nước ở Trung ương nói riêng được xem xét dưới hai góc độ: thẩm quyền về hình thức và thẩm quyền về nội dung.
Thứ nhất, thẩm quyền về hình thức là thẩm quyền của các chủ thể trong việc ban hành những hình thức văn bản do pháp luật quy định. Theo đó, mỗi chủ thể có thẩm quyền chỉ được ban hành một số loại văn bản nhất định. Vì vậy, vai trò của mỗi loại văn bản quy phạm pháp luật sẽ khác nhau, được áp dụng phù hợp với từng công việc cụ thể.
Theo quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 1996, sửa đổi bổ sung năm 2002, hệ thống văn bản quy phạm pháp luật của các cơ quan nhà nước bao gồm hơn 20 loại văn bản do nhiều cơ quan có thẩm quyền ban hành, trong đó có những chủ thể có thẩm quyền ban hành từ 2 đến 3 loại văn bản. Quy định đó đã dẫn đến một thực tế là việc xác định thứ bậc hiệu lực của các văn bản quy phạm pháp luật gặp không ít khó khăn, đặc biệt trong nhiều trường hợp khó xác định được khi nào và vấn đề gì cần ban hành văn bản dưới hình thức nào. Điều đó đã làm cho hệ thống văn bản quy phạm pháp luật chồng chéo, phức tạp và khó áp dụng. Trước thực tế như vậy, Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2008 đã có sự thay đổi đáng kể, hình thức văn bản quy phạm pháp luật đã được thu hẹp lại, nhiều cơ quan có thẩm quyền ban hành văn bản chỉ có thẩm quyền ban hành một hình thức văn bản. Theo đó, hệ thống văn bản quy phạm pháp luật của các cơ quan nhà nước ở Trung ương hiện nay bao gồm: Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội; Pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội; Nghị định của Chính phủ; Nghị quyết của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao; Nghị quyết liên tịch giữa Ủy ban thường vụ Quốc hội hoặc giữa Chính phủ với cơ quan trung ương của tổ chức chính trị - xã hội; Thông tư liên tịch giữa Chánh án Tòa án nhân dân tối cao với Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, giữa Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ với Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, giữa các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ (Điều 2, Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2008).
Thứ hai, Thẩm quyền về nội dung là giới hạn quyền lực của các chủ thể trong quá trình giải quyết công việc do pháp luật quy định. Về thực chất, đó là “giới hạn của việc sử dụng quyền lực nhà nước mà pháp luật thực định đã đặt ra đối với từng cơ quan trong bộ máy nhà nước về mỗi loại công việc nhất định”[8,tr.71].
Thẩm quyền này của các cơ quan Nhà nước ở trung ương trước hết được pháp luật quy định trong Hiến pháp và các luật về tổ chức bộ máy Nhà nước như Luật Tổ chức Quốc hội 2001, Luật Tổ chức Chính phủ 2001, Luật Tổ chức Tòa án nhân dân 2002.
Hiến pháp nước ta quy định Quốc hội là cơ quan quyền lực nhà