Giáo dục và đào tạo (GD&ĐT) giữ vai trò đặc biệt cần thiết đối với sự phát
triển của mỗi con người và của cả xã hội. Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam năm 1992 quy định GD&ĐT là quốc sách hàng đầu. Văn kiện hội
nghị lần thứ II Ban Chấp hành Trung ương khoá VIII tiếp tục khẳng định: “Thực sự
coi giáo dục (GD) là quốc sách hàng đầu”. GD&ĐT là sự nghiệp của toàn Đảng,
của Nhà nước và của toàn dân, và chỉ ra nhiệm vụ xây dựng đội ngũ giáo viên, coi
đội ngũ giáo viên là nhân tố quyết định chất lượng GD và được xã hội tôn vinh.
Phát triển đội ngũ nhà giáo, cán bộ quản lý (CBQL) là động lực của sự phát triển
nhà trường, của quá trình GD. Luật GD 2005 đã dành 2 điều 15, 16 để nói về vai trò
của nhà giáo và CBQL giáo dục. Lao động của nhà giáo, của đội ngũ CBQL giáo
dục là lao động sư phạm đòi hỏi có sự sáng tạo và phải có năng lực cao, phẩm chất
nghề nghiệp trong sáng lành mạnh để GD con người.
Nước ta đang có những sự thay đổi nhanh chóng về mọi mặt, trước sự biến
động của nền kinh tế thị trường và sự phát triển kinh tế - xã hội thì GD cũng bị tác
động rất lớn. Đề án “Xây dựng, nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo và CBQL
giáo dục giai đoạn 2005-5010” của Chính phủ, xác định mục tiêu tổng quát là xây
dựng đội ngũ nhà giáo và CBQL giáo dục theo hướng chuẩn hóa, nâng cao chất
lượng, đảm bảo đủ về số lượng, đồng bộ về cơ cấu. Đồng thời chỉ ra nhiệm vụ tiếp
tục bổ sung, sửa đổi, hoàn thiện và thực hiện chính sách ưu đãi đối với nhà giáo và
CBQL giáo dục, khuyến khích đội ngũ nhà giáo nâng cao trình độ chuyên môn
nghiệp vụ, đổi mới công tác quản lý (QL) nhà giáo. Những bất cập về QL đội ngũ
giáo viên trong nền kinh tế thị truờng, những vấn đề mới về lý luận QL đội ngũ giáo
viên khi Việt Nam đã gia nhập WTO và khi Đảng ta cho phép nước ngoài đầu tư
vào GD, đòi hỏi phải bổ sung về lý luận QL đội ngũ giáo viên và đòi hỏi phải cụ thể
hoá lý luận này trong từng trường học, bậc học, cấp học.
157 trang |
Chia sẻ: duongneo | Lượt xem: 2249 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Thực trạng công tác quản lý đội ngũ giáo viên ở các trường trung học phổ thông huyện Tân Thành, tỉnh Bà Rịa - Vũng tàu và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH
Nguyễn Hữu Thọ
THỰC TRẠNG CÔNG TÁC QUẢN LÝ
ĐỘI NGŨ GIÁO VIÊN
Ở CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
HUYỆN TÂN THÀNH, TỈNH BÀ RỊA-VŨNG TÀU
VÀ GIẢI PHÁP
LUẬN VĂN THẠC SĨ GIÁO DỤC HỌC
Thành phố Hồ Chí Minh, 2008
MỞ ĐẦU
1- Lý do chọn đề tài
Giáo dục và đào tạo (GD&ĐT) giữ vai trò đặc biệt cần thiết đối với sự phát
triển của mỗi con người và của cả xã hội. Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam năm 1992 quy định GD&ĐT là quốc sách hàng đầu. Văn kiện hội
nghị lần thứ II Ban Chấp hành Trung ương khoá VIII tiếp tục khẳng định: “Thực sự
coi giáo dục (GD) là quốc sách hàng đầu”. GD&ĐT là sự nghiệp của toàn Đảng,
của Nhà nước và của toàn dân, và chỉ ra nhiệm vụ xây dựng đội ngũ giáo viên, coi
đội ngũ giáo viên là nhân tố quyết định chất lượng GD và được xã hội tôn vinh.
Phát triển đội ngũ nhà giáo, cán bộ quản lý (CBQL) là động lực của sự phát triển
nhà trường, của quá trình GD. Luật GD 2005 đã dành 2 điều 15, 16 để nói về vai trò
của nhà giáo và CBQL giáo dục. Lao động của nhà giáo, của đội ngũ CBQL giáo
dục là lao động sư phạm đòi hỏi có sự sáng tạo và phải có năng lực cao, phẩm chất
nghề nghiệp trong sáng lành mạnh để GD con người.
Nước ta đang có những sự thay đổi nhanh chóng về mọi mặt, trước sự biến
động của nền kinh tế thị trường và sự phát triển kinh tế - xã hội thì GD cũng bị tác
động rất lớn. Đề án “Xây dựng, nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo và CBQL
giáo dục giai đoạn 2005-5010” của Chính phủ, xác định mục tiêu tổng quát là xây
dựng đội ngũ nhà giáo và CBQL giáo dục theo hướng chuẩn hóa, nâng cao chất
lượng, đảm bảo đủ về số lượng, đồng bộ về cơ cấu. Đồng thời chỉ ra nhiệm vụ tiếp
tục bổ sung, sửa đổi, hoàn thiện và thực hiện chính sách ưu đãi đối với nhà giáo và
CBQL giáo dục, khuyến khích đội ngũ nhà giáo nâng cao trình độ chuyên môn
nghiệp vụ, đổi mới công tác quản lý (QL) nhà giáo. Những bất cập về QL đội ngũ
giáo viên trong nền kinh tế thị truờng, những vấn đề mới về lý luận QL đội ngũ giáo
viên khi Việt Nam đã gia nhập WTO và khi Đảng ta cho phép nước ngoài đầu tư
vào GD, đòi hỏi phải bổ sung về lý luận QL đội ngũ giáo viên và đòi hỏi phải cụ thể
hoá lý luận này trong từng trường học, bậc học, cấp học.
Mọi thành tựu, mọi yếu kém trong một trường học xét cho cùng đều có
nguyên nhân của sự QL của Hiệu trưởng (HT) trường đó. Trong công tác QL của
HT thì QL đội ngũ giáo viên là mặt QL quan trọng nhất vì hoạt động giảng dạy, GD
học sinh (HS) của giáo viên (GV) và hoạt động học tập, rèn luyện của HS là hai
hoạt động trung tâm trong một trường học. Tình hình chất lượng GD yếu kém đang
là vấn đề bức xúc của xã hội và của ngành GD nước ta. Vì thế vấn đề QL đội ngũ
giáo viên là vấn đề cấp thiết.
Ở cấp trung học phổ thông (THPT) từ năm học 2006-2007 tiến hành phân
ban theo diện rộng. Trước yêu cầu về thay sách giáo khoa, thay đổi nội dung
chương trình, đổi mới phương pháp giảng dạy, đòi hỏi người thầy giáo phải có đủ
phẩm chất, năng lực thích ứng để đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong giai đoạn hiện
nay. HT trường THPT cần phải có các giải pháp để tăng cường công tác QL đội ngũ
giáo viên phù hợp với yêu cầu phát triển GD trong giai đoạn mới.
Hiện nay trên địa bàn huyện Tân Thành, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu (BR-VT) có
3 trường THPT: trường THPT Phú Mỹ (trường PM), trường THPT Hắc Dịch
(trường HD), trường THPT Trần Hưng Đạo (trường THĐ). Đây là huyện có 5 khu
công nghiệp đang hoạt động, đội ngũ lao động từ nhiều nơi khác về gia tăng, vì vậy
số lượng học sinh THPT tăng nhanh kéo theo đội ngũ giáo viên thiếu, các trường
THPT tuyển nhiều GV từ nhiều nguồn, chất lượng GV không đồng đều. Mặt khác
trong những năm qua, mặc dù công tác QL đội ngũ giáo viên của các HT đã có
nhiều cố gắng song nhìn từ góc độ khoa học quản lý giáo dục (QLGD) thì vẫn còn
thiếu đồng bộ, cần phải có những giải pháp phù hợp với tình hình thực tế để QL,
nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên.
Qua quá trình thực tiễn làm công tác QL tại một trường THPT ở huyện Tân
Thành, tỉnh BR-VT, và quá trình học tập nghiên cứu về khoa học QLGD tại trường
Đại học Sư phạm thành phố Hồ Chí Minh, bản thân tôi xét thấy mình có đủ điều
kiện để nghiên cứu được vấn đề này.
Với các lý do trên tôi chọn vấn đề: “Thực trạng công tác quản lý đội ngũ
giáo viên ở các trường trung học phổ thông huyện Tân Thành, tỉnh Bà Rịa-Vũng
Tàu và giải pháp” làm đề tài nghiên cứu, với hy vọng góp thêm một phần kết quả
nghiên cứu để ứng dụng vào việc QL đội ngũ giáo viên và nâng cao chất lượng đội
ngũ giáo viên ở các trường THPT trong huyện.
2- Mục đích nghiên cứu
Đề tài này nghiên cứu thực trạng công tác QL đội ngũ giáo viên THPT ở
các trường THPT huyện Tân Thành, tỉnh BR-VT, trên cơ sở đó đề xuất các giải
pháp nhằm thực hiện tốt công tác QL và nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên ở
các trường THPT trong huyện.
3- Nhiệm vụ nghiên cứu
- Hệ thống hóa làm rõ cơ sở lý luận về người giáo viên THPT, về đội ngũ
giáo viên THPT và việc QL đội ngũ giáo viên THPT.
- Nghiên cứu thực trạng công tác QL đội ngũ giáo viên ở các trường THPT
huyện Tân Thành, tỉnh BR-VT và tìm ra nguyên nhân của nó.
- Đề xuất các giải pháp nhằm thực hiện tốt công tác QL và nâng cao chất
lượng đội ngũ giáo viên ở các trường THPT huyện Tân Thành, tỉnh BR-VT.
4- Khách thể và đối tượng nghiên cứu
4.1- Khách thể nghiên cứu
- Các trường THPT ở huyện Tân Thành, tỉnh BR-VT.
- HT, Phó hiệu trưởng (PHT), Tổ trưởng chuyên môn (TTCM), GV các
trường THPT nói trên.
4.2- Đối tượng nghiên cứu
Thực trạng công tác QL đội ngũ giáo viên ở các trường THPT huyện Tân
Thành, tỉnh BR-VT.
5- Giả thuyết nghiên cứu
Trong công tác quản lý đội ngũ giáo viên ở các trường THPT huyện Tân
Thành, tỉnh BR-VT bên cạnh việc QL tương đối tốt ở một số mặt như sử dụng GV,
đánh giá GV, bồi dưỡng (BD) đội ngũ giáo viên, còn có những hạn chế trong tuyển
dụng GV, kiểm tra hoạt động sư phạm của GV. Vì thế chất lượng công tác QL đội
ngũ giáo viên ở các trường THPT huyện Tân Thành, tỉnh BR-VT chỉ ở mức trung
bình khá. Nguyên nhân có thể là do các HT chưa thực hiện chặt chẽ và đồng bộ các
chức năng QL.
Đánh giá đúng thực trạng QL đội ngũ giáo viên và biết được nguyên nhân
của nó thì có thể đưa ra những giải pháp phù hợp nhằm thực hiện tốt hơn công tác
QL đội ngũ giáo viên và nâng cao hơn nữa chất lượng đội ngũ giáo viên.
6- Giới hạn nghiên cứu
6.1- Giới hạn về thời gian: Đề tài này được nghiên cứu trong vòng 12
tháng, kể từ khi được duyệt đề tài cho đến khi hoàn thành đề tài.
6.2- Giới hạn về không gian: Đề tài nghiên cứu tại 3 trường THPT trên địa
bàn huyện Tân Thành, tỉnh BR-VT.
6.3- Giới hạn về đối tượng nghiên cứu: QL đội ngũ giáo viên là vấn đề
khó khăn và phức tạp gắn với nhiều vấn đề như xây dựng quy hoạch đội ngũ giáo
viên; tuyển dụng GV; sử dụng GV; ĐT, BD đội ngũ giáo viên; khen thưởng, kỷ
luật, thực hiện chế độ tiền lương và tạo điều kiện làm việc cho đội ngũ giáo viên.
Trong đề tài này tác giả luận văn chỉ tập trung nghiên cứu công tác QL đội ngũ giáo
viên ở các trường THPT huyện Tân Thành, tỉnh BR-VT với các vấn đề: Quy hoạch,
tuyển dụng GV; sử dụng GV; kiểm tra hoạt động sư phạm của GV; đánh giá
GV; BD đội ngũ giáo viên.
Đề tài chỉ nghiên cứu QL của HT đối với đội ngũ giáo viên, không nghiên
cứu hoạt động dạy học của GV, chất lượng của đội ngũ giáo viên được xem như là
hệ quả của hoạt động QL đội ngũ giáo viên.
7- Phương pháp nghiên cứu [26], [44]
Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau:
7.1- Các phương pháp nghiên cứu tài liệu
- Phương pháp phân tích và tổng hợp.
- Phương pháp phân loại, hệ thống hóa.
7.2- Các phương pháp nghiên cứu thực tiễn
- Phương pháp điều tra: Điều tra bằng phiếu trưng cầu ý kiến dựa trên cơ sở
lý luận, mục đích nghiên cứu gồm một số lựa chọn câu hỏi dành cho CBQL và GV
các trường THPT. Đây là phương pháp chủ đạo trong đề tài nghiên cứu.
- Phương pháp tọa đàm: Xin số liệu, thu thập thông tin qua việc nói chuyện
trực tiếp với CBQL Sở GD&ĐT, CBQL và GV các trường THPT.
- Phương pháp nghiên cứu sản phẩm: Thông qua các bảng thống kê để tìm
hiểu tình hình phát triển GD, tình hình đội ngũ CBQL, đội ngũ giáo viên và thực
trạng công tác QL đội ngũ giáo viên.
- Phương pháp quan sát: Người nghiên cứu dùng phương pháp quan sát để
tìm hiểu môi trường, điều kiện làm việc của đội ngũ giáo viên.
7.3- Phương pháp bổ trợ
Người nghiên cứu sử dụng toán thống kê để xử lý số liệu nhằm định lượng
kết quả nghiên cứu, tập trung vào các phép tính tần số, tần suất (Frequencise), số
trung bình (mean), phương sai (varition ) và độ lệch chuẩn (standard deviation).
8- Đóng góp mới của đề tài
- Đề tài hệ thống hóa được lý luận về người giáo viên THPT; về đội ngũ
giáo viên THPT và về QL đội ngũ giáo viên nói chung, QL đội ngũ giáo viên THPT
nói riêng.
- Đề tài cũng làm rõ được thực trạng công tác QL đội ngũ giáo viên ở các
trường THPT huyện Tân Thành, tỉnh BR-VT và nêu được nguyên nhân của thực
trạng.
- Trên cơ sở đó đề tài đã đề xuất một số giải pháp nhằm khắc phục những
hạn chế trong công tác QL và nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên ở các trường
THPT huyện Tân Thành, tỉnh BR-VT. Kết quả nghiên cứu có thể làm tư liệu có ích
cho CBQL các trường THPT trong huyện tham khảo, vận dụng trong việc QL đội
ngũ giáo viên của trường mình. Đồng thời, các giải pháp và kiến nghị được đưa ra
là khách quan và thiết thực có giá trị để Ủy ban Nhân dân huyện Tân Thành, tỉnh
BR-VT; Sở GD&ĐT tỉnh BR-VT; Ủy ban Nhân dân tỉnh BR-VT làm cơ sở hoạch
định một số chủ trương, chính sách trong việc QL các trường THPT trên địa bàn
huyện Tân Thành, tỉnh BR-VT.
Chương 1- CƠ SỞ LÝ LUẬN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1- Lịch sử vấn đề nghiên cứu
Trên thế giới vấn đề QLGD, QL trường học và QL đội ngũ giáo viên rất
được quan tâm nghiên cứu. Các tác giả V.A.Xukhomlinxki, Jaxapob đã nghiên cứu
và đề ra những vấn đề QL của HT trường phổ thông. Các tác giả đều khẳng định
người HT phải là người lãnh đạo toàn diện và chịu trách nhiệm cao nhất trong công
tác QL nhà trường [17, tr.16]; [42, tr.17]. Đặc biệt họ đều thống nhất là trong những
nhiệm vụ QL của HT thì nhiệm vụ hết sức quan trọng là xây dựng và BD đội ngũ
giáo viên. HT phải biết tuyển chọn GV bằng nhiều nguồn khác nhau và BD họ trở
thành những GV tốt theo tiêu chuẩn nhất định, bằng những biện pháp khác nhau
[42, tr.24-25]. Giáo sư Stanislaw kowalski khi nghiên cứu về xã hội học GD và GD
học đã khẳng định thầy giáo như là khâu kết hợp nhà trường với môi trường và đề
cập đến các loại QL và phong cách QL nhà trường, vai trò xã hội và trình độ nghề
nghiệp của thầy giáo [37, tr.421-458].
Ở Việt Nam nhiều tác giả đã nghiên cứu chuyên sâu về QLGD, QL đội ngũ
giáo viên. Tác giả Trần Kiểm nghiên cứu một cách toàn diện, hệ thống những vấn
đề về QL, QLGD, phân tích rất cụ thể quá trình QLGD, các chức năng, nguyên tắc,
phương pháp và công cụ QLGD [18]. Trong cuốn “Một số vấn đề cơ bản về GD
phổ thông trung học”, nhà xuất bản GD, 1998 [8], tác giả Nguyễn Hữu Dũng đã đưa
ra những vấn đề về xu thế phát triển giáo dục THPT trên thế giới, vị trí mục tiêu của
GD trung học và QL trường trung học. Các tác giả Chu Mạnh Nguyên, Mai Quang
Tâm, Dương Thúy Giang, Đỗ Thị Hòa nghiên cứu một cách hệ thống nghiệp vụ QL
trường Trung học cơ sở và trường Tiểu học, đặc biệt trong đó đã chi tiết hóa công
tác QL, BD, kiểm tra, đánh giá đội ngũ giáo viên. [27], [38]. Vấn đề QLGD trong
nhà trường, vai trò của HT trong QL trường phổ thông, lao động sư phạm của đội
ngũ giáo viên cũng được các tác giả Trần Thị Tuyết Oanh, Phạm Khắc Chương,
Phạm Viết Vượng, Nguyễn Văn Diệu, Lê Tràng Định nghiên cứu chuyên sâu.
[29,tr.135-168]
Vị trí, tầm quan trọng của người GV, đặc điểm lao động của đội ngũ giáo
viên, những yêu cầu chung về xây dựng đội ngũ giáo viên và nhiệm vụ của họ đều
được thể hiện trong các giáo trình của các tác giả Hà Thế Ngữ [28]; Bùi Minh Hiền,
Vũ Ngọc Hải, Đặng Quốc Bảo [11]; Bùi Thanh Huyền [16].
Các tác giả Phùng Đình Mẫn, Trần Văn Hiếu, Hồ Văn Liên, Phan Minh
Tiến, Trương Thanh Thúy – Đại học Sư phạm Huế, đã đề cập đến những vấn đề cơ
bản về đổi mới giáo dục THPT hiện nay trong đó nhấn mạnh vai trò của người GV
và xu hướng đổi mới đánh giá ở trường THPT [23]. Riêng tác giả Phạm Quang
Huân đã đưa ra những quan niệm mới: GV thực sự là chủ thể QL chất lượng trong
nhà trường. [15, tr.3]
Các tác giả Nguyễn Kim Hồng – Trường Đại học Sư phạm thành phố Hồ
Chí Minh, Vũ Lan Hương – Trường Cán bộ QLGD và ĐT II đã có những bài viết
về “coi trọng việc ĐT đội ngũ QLGD có tình độ sau đại học cho các quận/huyện”
và “hướng tới mục tiêu 10% giáo viên THPT có trình độ sau đại học vào năm 2010”
[41, tr.17.82]. Trong quá trình nghiên cứu về lịch sử GD, tác giả Nguyễn Bá Cường
– Trường đại học Sư phạm Hà nội đã chỉ ra vấn đề trọng dụng hiền tài trong tư
tưởng của Ngô Thì Nhậm. Với Ngô Thì Nhậm, vấn đề tuyển chọn và sử dụng nhà
giáo rất được quan tâm, bởi theo ông, nhà giáo có ảnh hưởng to lớn đối với sự
nghiệp phát triển của quốc gia. [5, tr.12]
Vấn đề bồi dưỡng GV về tư tưởng chính trị, chuyên môn, nghiệp vụ để
nâng cao năng lực giảng dạy cho họ là cần thiết. Các tác giả Nguyễn Văn Lê [20],
Trần Bá Hoành [12] đã chú ý nhiều đến nội dung này. Đặc biệt tác giả Trần Đình
Thuận đã đề xuất xây dựng chương trình BD cán bộ, GV qua truyền hình, một vấn
đề không mới nhưng rất cần được đầu tư. [40, tr.6]
Nhóm nghiên cứu gồm các tác giả Nguyễn Kim Hồng, Đoàn Văn Điều,
Nguyễn Sỹ Trung, Đoàn Nguyễn Thùy Dương – Trường Đại học Sư phạm thành
phố Hồ Chí Minh qua nghiên cứu tiêu chí đánh giá GV cấp THPT tại thành phố Hồ
Chí Minh đã đề xuất bảng đánh giá giờ dạy của GV gồm 35 tiêu chí cụ thể. [13]
Các tác giả Nghiêm Đình Vỳ, Nguyễn Đắc Hưng khi nghiên cứu về phát triển
GD, ĐT nhân tài đã đưa ra cách khắc phục những tồn tại trong GD phổ thông, cải
cách chương trình đào tạo GV và tiếp tục khẳng định đội ngũ giáo viên quyết định
chất lượng GD [45, tr.113-121].
Vấn đề QLGD, QL trường học nói chung, QL đội ngũ giáo viên nói riêng
đã được nhiều tác giả trong và ngoài nước quan tâm nghiên cứu. Gần đây các
luận văn Thạc sỹ khoa học chuyên ngành QLGD ở trường Đại học Sư phạm
thành phố Hồ Chí Minh của các tác giả Đỗ Thị Cúc, Lê Bạt Sơn, Vũ Thị Huyền,
Đỗ Ngọc Mỹ, Phạm Đình Ly, Phạm Kiều Mai cũng đã đề cập đến một số mặt như
tuyển dụng, sử dụng, BD, khen thưởng trong công tác QL đội ngũ giáo viên. QL
đội ngũ giáo viên đang là vấn đề cấp thiết và rất cần được tiếp tục quan tâm
nghiên cứu. Ở huyện Tân Thành, tỉnh BR-VT vấn đề này vẫn chưa được đề cập
đến. Vì thế đề tài: “Thực trạng công tác quản lý đội ngũ giáo viên ở các trường
THPT huyện Tân Thành, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu và giải pháp” đã được trường
Đại học Sư phạm thành phố Hồ Chí Minh phê duyệt và cho phép tiến hành
nghiên cứu.
1.2- Lý luận về người giáo viên THPT và đội ngũ giáo viên THPT
1.2.1- Khái niệm về người giáo viên THPT và đội ngũ giáo viên THPT
1.2.1.1- Khái niệm giáo viên THPT
Khái niệm giáo viên: Theo từ điển tiếng Việt của nhóm tác giả Hồng Mây
- Ngọc Sương - Minh Mẫn, nhà xuất bản Thống kê 2004, thì GV là người dạy
học ở bậc phổ thông hoặc tương đương. Như vậy: Nhà giáo giảng dạy, GD ở cơ
sở GD mầm non, GD phổ thông, GD nghề nghiệp gọi là GV. Ở các trường Mầm
non, GV không làm công việc giảng dạy, mà GV là người chăm sóc và giáo dục
trẻ em. Nhà giáo giảng dạy ở bậc Đại học được gọi là giảng viên.
Khái niệm trường THPT: Trường THPT là cơ sở GD phổ thông, nơi tiến
hành công tác giảng dạy, giáo dục HS từ lớp 10 đến lớp 12. Trường THPT có
loại hình công lập và tư thục.
Khái niệm giáo viên THPT: Giáo viên THPT là người hành nghề giảng
dạy một môn học nào đó ở trường THPT và qua sự giảng dạy môn học đó mà GD
học sinh theo mục tiêu GD mà Bộ GD&ĐT đã đề ra đối với giáo dục THPT.
1.2.1.2-Khái niệm đội ngũ giáo viên THPT
Khái niệm đội ngũ : Đội ngũ được hiểu là một số đông người cùng chức
năng hoặc nghề nghiệp được tập hợp và tổ chức thành một lực lượng.[27, 166]
Khái niệm đội ngũ giáo viên THPT:
Đội ngũ GV của một trường THPT là tập hợp tất cả các giáo viên của
trường đó theo một cấu trúc nhất định về mặt tổ chức, có một số lượng GV nhất
định (đủ hay chưa đủ theo quy định), có một chất lượng nhất định (về tư tưởng
chính trị, phẩm chất đạo đức và chuyên môn, nghiệp vụ) tạo thành một tập thể sư
phạm được đánh giá là vững mạnh hay yếu kém nói chung, hoặc vững mạnh hay
yếu kém về từng mặt nói riêng.
Đội ngũ giáo viên THPT là tập hợp những GV làm nhiệm vụ giảng dạy,
GD trong trường THPT, là lực lượng chủ yếu giữ vai trò quan trọng trong việc thực
hiện mục tiêu và kế hoạch GD của trường THPT. Bất kỳ GV nào cũng có ảnh
hưởng GD rộng rãi đến một tập thể HS, và ngược lại HS nào cũng đều trực tiếp
nhận sự GD của đội ngũ giáo viên. Chất lượng GD trong trường THPT là sự đóng
góp chung của tập thể sư phạm trong đó đội ngũ giáo viên đóng vai trò quyết định.
Chất lượng GD không chỉ phụ thuộc vào tinh thần trách nhiệm và năng lực công tác
của từng GV mà còn phụ thuộc vào sự phối hợp GD của các GV. Đội ngũ giáo viên
trong trường THPT có sự quan hệ gần gũi, gắn bó, giúp đỡ, tương trợ nhau trong
cuộc sống và trong công tác. Đội ngũ giáo viên THPT tham gia tích cực vào các
hoạt động GD của nhà trường, coi trọng sinh hoạt của các tổ chức, có sự thống nhất
cao về nhận thức và hoạt động GD. [27, 171-172]
1.2.2- Vai trò của người giáo viên THPT và vai trò của đội ngũ giáo viên
THPT
1.2.2.1- Vai trò của người giáo viên THPT
Người giáo viên THPT nói riêng và nhà giáo nói chung đóng vai trò
quyết định đến chất lượng dạy và học. Luật GD năm 2005 quy định vai trò và
trách nhiệm của nhà giáo đối với sự nghiệp GD&ĐT là:
- Nhà giáo giữ vai trò quyết định trong việc đảm bảo chất lượng GD.
- Nhà giáo không ngừng học tập, rèn luyện nêu gương tốt cho người học.
- Nhà nước tổ chức ĐT, BD nhà giáo, có chính sách sử dụng, đãi ngộ, bảo
đảm các điều kiện cần thiết về vật chất và tinh thần để nhà giáo thực hiện vai trò và
trách nhiệm của mình, giữ gìn và phát huy truyền thống quý trọng nhà giáo, tôn
vinh nghề dạy học. [22, tr.14]
Vai trò của người giáo viên THPT trong các hoạt động giảng dạy, GD:
Vai trò người thiết kế: Căn cứ vào mục tiêu giáo dục THPT, mục tiêu bài
học, nội dung chương trình và lôgic của quá trình sư phạm, dựa trên các khả năng
và điều kiện cho phép, người giáo viên THPT chọn nội dung GD, xây dựng quy
trình hoạt động, sử dụng và phối hợp các phương pháp giảng dạy, GD, để thiết kế
chương trình dạy học. Quá trình hình thành bản thiết kế bài dạy của GV đáp ứng
được nội dung chương trình; thể hiện tính sáng tạo; khéo léo tạo ra các tình huống
có vấn đề phù hợp với đối tượng HS. Người thầy giáo thiết kế để cho HS tự thiết kế
và tự giác thi công, người thầy vừa thiết kế hoạt động chung cho tập thể vừa thiết kế
cho từng đối tượng HS.
Vai trò người tổ chức: Thông qua bản thiết kế của mình, với đặc trưng dạy
học theo tiết học, người giáo viên THPT tổ chức cho HS học tập. Việc tổ chức này
phải khéo léo và khoa học mới lôi kéo, thu hút được tất cả các đối tượng HS học
tập. Với phương pháp dạy học hiện đại, người GV tổ chức cho HS tìm tòi, thảo
luận, tranh luận, phản biện và báo cáo thông qua các hoạt động của cá nhân, tổ,
nhóm, từ đó HS mới nắm vững vấn đề, hiểu sâu, nhớ lâu và có khả năng vận dụng.
Giáo viên THPT cũng là những người dạy Hướng nghiệp, giáo dục HS Ngoài giờ
lên lớp.
Vai trò người cổ vũ: Vai trò cổ vũ của người GV sẽ dẫn dắt, uốn nắn, điều
chỉnh, khích lệ, khơi dậy và phát huy được khả năng sáng tạo của HS. Nếu người
thầy chỉ thiên về đánh giá HS lĩnh hội tri thức từ người thầy thì HS rất dễ máy móc,
rập khuôn, thụ động. Người thầy phải giữ vai trò cổ vũ cho HS sáng tạo. Bằng
nhữ