Luận văn Thực trạng công tác quản lý hoạt động giáo dục phòng chống ma túy của hiệu trưởng các trường trung học phổ thông tỉnh An Giang

Trong những năm qua, Việt Nam là một trong những nước có tốc độ phát triển kinh tế nhanh trên thế giới. Cơ chế kinh tế thị trường, hội nhập với thế giới đã có những tác động tích cực tới đời sống xã hội, trong đó có giáo dục và đào tạo. Bên cạnh đó, mặt trái của cơ chế thị trường đã bộc bộ và ảnh hưởng tiêu cực đến hoạt động xã hội, một trong những ảnh hưởng tiêu cực của hội nhập và giao lưu thế giới là sự du nhập nhanh chóng các hiện tượng lạm dụng và sử dụng chất ma túy. Trường học cũng không tránh khỏi những ảnh hưởng tiêu cực của hội nhập nói chung và của ma túy nói riêng. Tác động của ma túy tới học đường là mối nguy hiểm tiềm ẩn và gây nên những hậu quả không chỉ đối với bản thân học sinh (HS) bị nghiện mà còn cả với gia đình các em và toàn xã hội. Hiện nay, tình trạng nghiện ma túy và các tội phạm liên quan đến ma túy thật sự là mối đe dọa an ninh, trật tự của toàn xã hội. Tệ nạn ma túy đã và đang trở thành hiểm họa của xã hội, là nỗi lo lắng của mỗi gia đình, là nguy cơ đe dọa sự bền vững của đất nước và của dân tộc ta. Theo đánh giá tại Hội nghị tổng kết 10 năm thực hiện chỉ thị 06-CT/TW về phòng, chống và kiểm soát ma túy trong toàn quốc thì tình trạng nghiện ma túy trong HS-SV bị đẩy lùi nhưng chưa cơ bản, chưa vững chắc. Nguy cơ ma túy tái xâm nhập vào nhà trường vẫn còn rất lớn, nếu chúng ta buông lỏng hoặc lơ là thì tình hình sẽ tái diễn phức tạp. Nhất là hiện nay, ma túy tổng hợp đang xâm nhập vào nước ta mà HS-SV và thanh thiếu niên lại dễ tiếp cận lạm dụng loại ma túy này. Trong khi đó, một số trường học vẫn chưa thực sự quan tâm đúng mức, chưa kiên trì, thường xuyên và liên tục, thiếu các biện pháp kiên quyết trong việc giáo dục HS-SV phòng chống ma túy (PCMT)

pdf95 trang | Chia sẻ: duongneo | Lượt xem: 1200 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Thực trạng công tác quản lý hoạt động giáo dục phòng chống ma túy của hiệu trưởng các trường trung học phổ thông tỉnh An Giang, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH _________________ Nguyễn Quốc Khanh THỰC TRẠNG CÔNG TÁC QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC PHÒNG CHỐNG MA TÚY CỦA HIỆU TRƯỞNG CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG TỈNH AN GIANG Chuyên ngành : Quản lý Giáo dục Mã số: 60 14 05 LUẬN VĂN THẠC SĨ GIÁO DỤC HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC TS. VÕ THỊ BÍCH HẠNH Thành phố Hồ Chí Minh- 2010 LỜI CÁM ƠN Tôi xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến : - Lãnh đạo nhà trường, Phòng Khoa học công nghệ- Sau đại học, Khoa Tâm lý - Giáo dục trường Đại học Sư phạm thành phố Hồ Chí Minh; - Tập thể quí Thầy cô giảng dạy khoá 18 (2007 - 2010) ngành Quản lý Giáo dục tại Trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh; - Ban Giám đốc, Lãnh đạo và Chuyên viên Phòng Giáo dục Trung học, Phòng Tổ Chức cán bộ - Sở Giáo dục và Đào tạo An Giang đã tạo mọi điều kiện cho tôi cả về thời gian, tinh thần, vật chất trong suốt 3 năm qua. - Ban chỉ đạo phòng chống AIDS, phòng chống ma túy, mại dâm và tệ nạn xã hội tỉnh An Giang; Cục thống kê tỉnh An Giang; Chi cục phòng chống tệ nạn xã hội- Sở Lao động Thương binh và Xã hội tỉnh An Giang; Thư Viện trường Đại học Sư phạm thành phố Hồ Chí Minh;Thư viện tỉnh An Giang - Đặc biệt là TS. Võ Thị Bích Hạnh, giảng viên Trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh - người đã tận tâm hướng dẫn và giúp đỡ tôi hoàn thành luận văn này. Trân trọng biết ơn ! Tác giả luận văn Nguyễn Quốc Khanh MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Trong những năm qua, Việt Nam là một trong những nước có tốc độ phát triển kinh tế nhanh trên thế giới. Cơ chế kinh tế thị trường, hội nhập với thế giới đã có những tác động tích cực tới đời sống xã hội, trong đó có giáo dục và đào tạo. Bên cạnh đó, mặt trái của cơ chế thị trường đã bộc bộ và ảnh hưởng tiêu cực đến hoạt động xã hội, một trong những ảnh hưởng tiêu cực của hội nhập và giao lưu thế giới là sự du nhập nhanh chóng các hiện tượng lạm dụng và sử dụng chất ma túy. Trường học cũng không tránh khỏi những ảnh hưởng tiêu cực của hội nhập nói chung và của ma túy nói riêng. Tác động của ma túy tới học đường là mối nguy hiểm tiềm ẩn và gây nên những hậu quả không chỉ đối với bản thân học sinh (HS) bị nghiện mà còn cả với gia đình các em và toàn xã hội. Hiện nay, tình trạng nghiện ma túy và các tội phạm liên quan đến ma túy thật sự là mối đe dọa an ninh, trật tự của toàn xã hội. Tệ nạn ma túy đã và đang trở thành hiểm họa của xã hội, là nỗi lo lắng của mỗi gia đình, là nguy cơ đe dọa sự bền vững của đất nước và của dân tộc ta. Theo đánh giá tại Hội nghị tổng kết 10 năm thực hiện chỉ thị 06-CT/TW về phòng, chống và kiểm soát ma túy trong toàn quốc thì tình trạng nghiện ma túy trong HS-SV bị đẩy lùi nhưng chưa cơ bản, chưa vững chắc. Nguy cơ ma túy tái xâm nhập vào nhà trường vẫn còn rất lớn, nếu chúng ta buông lỏng hoặc lơ là thì tình hình sẽ tái diễn phức tạp. Nhất là hiện nay, ma túy tổng hợp đang xâm nhập vào nước ta mà HS-SV và thanh thiếu niên lại dễ tiếp cận lạm dụng loại ma túy này. Trong khi đó, một số trường học vẫn chưa thực sự quan tâm đúng mức, chưa kiên trì, thường xuyên và liên tục, thiếu các biện pháp kiên quyết trong việc giáo dục HS-SV phòng chống ma túy (PCMT). Đặc điểm tâm lý của thanh thiếu niên và HS là người đang trưởng thành, hiếu kỳ, dễ bị dụ dỗ hay kích động, luôn thể hiện ta là người lớn, suy nghĩ và hành động một cách bộc phát. Do vậy bọn tội phạm lợi dụng tâm lý này đã tìm cách dụ dỗ, lôi kéo, kích động thậm chí hăm dọa, khống chế các em vào con đường sử dụng ma túy. Hoạt động giáo dục PCMT có một vị trí quan trọng trong quá trình giáo dục, hình thành và phát triển nhân cách của thế hệ trẻ trong giai đoạn hiện nay. Nó nhằm giáo dục HS những hiểu biết về tệ nạn ma túy, biết cách giữ mình không bị ảnh hưởng của ma túy và tham gia đấu tranh với tệ nạn này ở trong nhà trường cũng như ngoài xã hội. Để thực hiện điều đó, Hiệu trưởng nhà trường cần phải có những biện pháp quản lý việc giáo dục PCMT trong trường học một cách có hiệu quả hơn. An Giang là tỉnh ở phía tây nam bộ, có đường biên giới dài hơn 104 km giáp với Vương quốc Campuchia, có đường giao thông nối với thủ đô Phnôm Pênh, có cửa khẩu quốc tế Tịnh Biên (huyện Tịnh Biên) và Khánh Bình (huyện An Phú) giáp với 02 tỉnh Kan - Đan và Tà- Keo của Campuchia là nơi có đông người dân của 02 nước qua lại làm ăn, buôn bán. Lợi dụng đặc điểm địa lý trên, bọn tội phạm ma túy xâm nhập vào tỉnh An Giang sau đó lan tỏa đi các tỉnh khu vực đồng bằng sông Cửu Long và lên thành phố Hồ chí Minh. Công tác giáo dục PCMT trong trường học là một đòi hỏi quan trọng và cấp bách, là trách nhiệm của tất cả mọi người, đặc biệt là những người làm công tác giáo dục. Là chuyên viên phụ trách công tác hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp (HĐGDNGLL) tại Sở Giáo dục và Đào tạo, tôi xác định chọn đề tài nghiên cứu: “Thực trạng công tác quản lý hoạt động giáo dục phòng chống ma túy của Hiệu trưởng các trường trung học phổ thông tỉnh An Giang” với hy vọng đóng góp một phần nhỏ những biện pháp của mình vào công tác PCMT trong các trường học tại tỉnh An Giang. 2. Mục đích nghiên cứu Khảo sát thực trạng công tác quản lý hoạt động giáo dục PCMT của Hiệu trưởng một số trường trung học phổ thông (THPT), tìm ra nguyên nhân và đề xuất một số biện pháp quản lý góp phần nâng cao hiệu quả công tác quản lý hoạt động giáo dục PCMT của Hiệu trưởng các trường THPT tại tỉnh An Giang. 3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu 3.1- Khách thể nghiên cứu: Công tác quản lý hoạt động giáo dục ở các trường THPT tỉnh An Giang. 3.2- Đối tượng nghiên cứu: Thực trạng công tác quản lý hoạt động giáo dục PCMT của Hiệu trưởng các trường THPT tỉnh An Giang. 4. Giả thuyết khoa học 4.1- Trong những năm qua, công tác quản lý hoạt động giáo dục PCMT của Hiệu trưởng các trường THPT tỉnh An Giang đã đạt được một số kết quả. Song, thực tế công tác này còn gặp nhiều khó khăn và hạn chế nhất định. 4.2- Có nhiều nguyên nhân dẫn đến những hạn chế trong công tác quản lý của Hiệu trưởng ở các trường THPT, trong đó phải kể đến những nguyên nhân chủ yếu là: chỉ đạo việc tuyên truyền nhận thức về tác hại của ma túy cho học sinh THPT còn quá ít thời gian; chưa có sự phối hợp đồng bộ giữa các lực lượng giáo dục trong và ngoài nhà trường trong tham gia hoạt động giáo dục PCMT; Hiệu trưởng các trường THPT đôi lúc còn chủ quan trong việc chỉ đạo, kiểm tra đánh giá thực hiện kế hoạch hoạt động giáo dục PCMT trong nhà trường. 4.3- Cho nên, cần có những biện pháp quản lý hoạt động giáo dục PCMT hợp lý nhằm khắc phục những hạn chế nêu trên. 5. Nhiệm vụ nghiên cứu 5.1. Nghiên cứu cơ sở lý luận về công tác quản lý hoạt động giáo dục PCMT của Hiệu trưởng các trường THPT. 5.2. Khảo sát thực trạng công tác quản lý hoạt động giáo dục PCMT ở một số trường THPT tỉnh An Giang. 5.3. Đề xuất một số biện pháp nhằm khắc phục những hạn chế trong công tác quản lý hoạt động giáo dục PCMT ở các trường THPT tỉnh An Giang. 6. Phương pháp nghiên cứu 6.1- Phương pháp nghiên cứu lý luận : Phân tích, tổng hợp, hệ thống hóa các loại tài liệu, sách báo, tạp chí, các đề tài khoa học, các văn bản pháp quy, các báo cáo kinh nghiệm về lĩnh vực ma túy và PCMT làm cơ sở lý luận của đề tài. Xử lý thông tin nhằm thực hiện mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài. 6.2- Phương pháp điều tra bằng phiếu trưng cầu ý kiến : đây là phương pháp chủ yếu dùng cho HS, GV và CBQL giáo dục cấp THPT. Đối với học sinh: Nhằm hiểu rõ nhận thức, những hiểu biết của HS về ma túy và tác hại của ma túy; những hoạt động mà nhà trường đã thực hiện để giáo dục học sinh PCMT. Đối với CBQL và GV: Nhằm khảo sát thái độ của CBQL, GV đối với công tác quản lý hoạt động giáo dục PCMT của Hiệu trưởng các trường THPT, những hoạt động mà nhà trường đã thực hiện để giáo dục PCMT. Khảo sát nhiệm vụ quản lý của Hiệu trưởng và các biện pháp mà Hiệu trưởng đã thực hiện trong việc quản lý giáo dục PCMT tại đơn vị. 6.3- Các phương pháp bổ trợ Dùng phương pháp trao đổi, phỏng vấn : nhằm thu thập những thông tin đáng tin cậy từ CBQL, GV- những người trực tiếp thực hiện công tác PCMT . 6.4- Phương pháp sử dụng thống kê toán học để xử lý, phân tích các số liệu thu thập được nhằm định lượng kết quả nghiên cứu. 7. Giới hạn của đề tài Đề tài chỉ tập trung nghiên cứu thực trạng công tác quản lý hoạt động giáo dục PCMT của Hiệu trưởng các trường THPT tỉnh An Giang (11 trường THPT tiêu biểu của 11 huyện, thị (TP) trong tỉnh An Giang chia theo khu vực địa bàn TP, TX, (tt); địa bàn nông thôn và biên giới). Chương 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN 1.1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề 1.1.1- Hoạt động PCMT ở một số nước trên thế giới Từ rất lâu, người ta sử dụng ma túy như một phương tiện để chữa bệnh, cho nên việc PCMT ít được quan tâm. Công tác PCMT chỉ được các nước trên thế giới quan tâm khi họ nhận thấy rõ bản chất của chúng. Hiện nay, vấn đề ma túy không còn hạn chế bởi quốc gia nào mà đã trở thành hiểm họa trên phạm vi toàn thế giới. Cho nên, “chống ma túy” đã trở thành nhiệm vụ chung của tất cả các nước. Chúng ta có thể điểm qua vài nét về lịch sử vấn đề này. [16] 1.1.1.1. Các nước Châu Á Ở Thái Lan, Luật PCMT đã có từ cuối những năm 1950. Ủy ban bài trừ ma túy của phủ thủ tướng được thành lập từ cuối những năm 1960. Năm 1982, nhà nước lại thành lập ủy ban đặc biệt trấn áp hoạt động buôn bán ma túy ở biên giới Thái-Miến (Thái Lan-Myanma). Trong những năm gần đây, việc lạm dụng ma túy ở Thái Lan đã đến mức báo động, đặc biệt trong HS, SV. Chính phủ Thái Lan đã thực hiện chương trình “Trường học trắng” trong trường phổ thông nhằm đưa nhà trường và xã hội xích lại gần nhau hơn. [32] Các nước Myanmar, Malaixia, Singapore, Brunay, Indonesia, Philippine đều có luật PCMT và cơ quan chuyên trách PCMT. Nhìn chung luật pháp các nước đều có hình phạt nặng đối với những kẻ buôn bán hoặc tàng trữ ma túy phi pháp. Trong pháp lệnh chống ma túy đều có án tử hình. Malaixia, Singapore triển khai công tác giáo dục PCMT thông qua các phương tiện thông tin đại chúng, thành lập đội thiếu niên tuyên truyền PCMT trong và ngoài nhà trường; tập huấn cán bộ chuyên môn giảng dạy, biên soạn tài liệu về vấn đề ma túy và phụ trách công tác PCMT trong nhà trường; tăng cường lồng ghép các nội dung về ma túy và tác hại của ma túy trong các môn học có liên quan để nâng cao ý thức PCMT trong học sinh.[15, Tr.10] 1.1.1.2. Các nước Châu Mỹ Mỹ là nước tiêu thụ ma túy lớn nhất thế giới, vấn đề ma túy nghiêm trọng hơn bất cứ quốc gia nào. Luật chống ma túy Liên bang sớm nhất nước Mỹ là “ pháp lệnh Halition” năm 1914. Năm 1930 chính phủ liên bang thành lập cục chống ma túy trong Bộ Tài chính, tiến hành quản lý chất ma túy, heroine, cocaine đang lạm dụng lúc đó. Năm 1937, Chính phủ liên bang thông qua “ Pháp lệnh thu thuế đại ma” hạn chế mở rộng đại ma. Năm 1986, Quốc hội Mỹ thông qua “ pháp lệnh chống lạm dụng ma túy”, lần đầu tiên đưa ra về mặt pháp luật một cách toàn diện đối với vấn đề lạm dụng ma túy và vấn đề buôn lậu ma túy. Năm 1986, nhà trường ở nước Mỹ phải là nhà trường không có ma túy. [16, Tr.157] Các nước Trung và Nam Mỹ đều có luật chuyên về chống ma túy và áp dụng luật hình sự để trừng trị các loại hoạt động tội phạm vi phạm pháp lệnh cấm ma túy. Những năm 1970 đến nay, luật cấm ma túy là một loại luật pháp chủ yếu được coi trọng ở các nước, phần lớn các nước đều có cơ quan chấp pháp chống ma túy.[16, Tr.158] Nhìn chung, các nước Trung và Nam Mỹ rất coi trọng công tác giáo dục PCMT. Từ năm 1990, Bộ Giáo dục Pêru bắt đầu triển khai hoạt động chống lạm dụng ma túy trong HS, yêu cầu phụ huynh HS và GV tích cực phối hợp thực hiện công tác này. Braxin tiến hành tuyên truyền PCMT, thông qua nhà trường yêu cầu HS hiểu rõ tác hại của ma túy và tránh xa ma túy. Ở một số nước vùng Nam Mỹ hàng ngày trên các phương tiện thông tin đại chúng đều có chương trình tuyên truyền PCMT.[15, Tr.9] 1.1.1.3. Các nước Châu Âu [16] Năm 1975, Ý đã ban bố pháp lệnh về vấn đề ma túy. Tháng 6 năm 1990, Quốc hội thông qua Luật chống ma túy và thành lập “Cục chống ma túy Trung ương”. Các nước Tây Ban Nha, Pháp, Anh, Đức ...đều có pháp luật và cơ quan phụ trách vấn đề PCMT từ những năm 80. 1.1.1.4. Các nước Châu Đại Dương [16, Tr.166] Năm 1987, Australia thực hiện luật PCMT, cho phép tịch thu tài sản những kẻ buôn bán ma túy, yêu cầu các cơ quan tài chính phải báo cáo tình hình giao dịch tiền tệ của tội phạm ma túy. Đầu những năm 1970, New Zealand thành lập cục tình báo ma túy để thu thập và phân tích tình hình tội phạm ma túy nhằm thực hiện công tác PCMT. Đến đầu những năm 1990, thành lập tổ công tác cấp Bộ chuyên đánh vào hoạt động buôn bán ma túy và điều hòa chống ma túy của các ngành có liên quan Chính phủ. 1.1.1.5. Các nước Châu Phi Ai Cập là nước rất tích cực và nghiêm minh trong công tác phòng chống tội phạm ma túy. Luật pháp về ma túy có quy định, những kẻ chế biến chất ma túy phi pháp với mục đích buôn bán phải chịu tội tử hình và phạt tiền tùy tính chất, những kẻ buôn lậu ma túy sẽ bị nghiêm trị, nhẹ thì vào tù, nặng thì xử tử hình. [16, Tr.167] Trong các nước Châu Phi, Ai Cập là nước có nét đặc sắc riêng về công tác giáo dục PCMT. Chính phủ đã phát động phong trào đài truyền hình tham gia PCMT nhằm vào đặc điểm yêu thích xem truyền hình của thanh thiếu nhi [15, Tr.11] Các nước khác như: Nigieria, Kênia, Nam Phi... đã và đang phải đối mặt với vấn đề ma túy ngày càng nghiêm trọng. Các quốc gia này cũng đã có luật pháp và cơ quan làm nhiệm vụ bày trừ ma túy.[16] 1.1.2- Hoạt động phòng chống ma túy ở Việt Nam Vào năm Cảnh Trị thứ ba (1665) Nhà nước Phong kiến Việt Nam đã ban hành đạo luật đầu tiên về “Cấm trồng cây thuốc phiện”. Đạo luật này nêu rõ: “ Con trai, con gái dùng thuốc phiện để thỏa lòng dâm dật, trộm cướp dùng nó để nhòm ngó nhà người ta. Trong thì kinh thành, ngoài thì thôn xóm, vì nó mà có khi hỏa hoạn, khánh kiệt tài sản. Vì nó mà thân thể tàn tạ, người chẳng ra người”. Đạo luật này còn quy định: “Từ nay về sau quan lại và dân chúng không được trồng hoặc mua bán thuốc phiện. Ai đã trồng thì phải phá đi, người nào chứa giữ thì phải hủy đi”. [30, Tr.470] Năm Minh Mạng thứ nhất (1820) có quy định thêm những hình phạt cụ thể đối với tội phạm ma túy: gieo trồng, tàng trữ, buôn bán và nghiện hút thuốc phiện. Năm Tự Đức thứ ba (1840), quy định hình phạt tử hình đối với tội phạm ma túy nghiêm trọng và chú trọng biện pháp điều trị cho người nghiện hút thuốc phiện. Đặc biệt là vấn đề khen thưởng hậu hỉ cho những người có công phát hiện hoặc tố giác đúng tội phạm ma túy. Trong thời kỳ đô hộ của thực dân Pháp (1858- 1954), công tác PCMT không được chú trọng. Các cấp chính quyền bấy giờ không hề quan tâm đến việc phòng chống thuốc phiện, tình trạng gieo trồng, tàng trữ, buôn bán và nghiện hút thuốc phiện ở nước ta lại phát triển. Chính vì vậy, tệ nạn nghiện hút thuốc phiện làm cho nhiều gia đình tan nát, nhiều người rơi vào hoàn cảnh túng quẩn, sức khoẻ bị hủy hoại, trí tuệ cạn kiệt... [15, Tr14] Sau thành công của Cách mạng tháng Tám (1945), mặc dù chính quyền cách mạng còn non trẻ song vấn đề đấu tranh với tệ nạn thuốc phiện đã được Chính phủ rất quan tâm: Chính phủ đã cấm việc trồng trọt, buôn bán và sử dụng thuốc phiện ngoài danh mục y tế. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ra chỉ thị rõ ràng trong những nhiệm vụ cấp bách của Nhà nước:“Cuối cùng tôi đề nghị cấm hút thuốc phiện”. Nghị định số 150/TTg của Chính phủ ban hành ngày 12/3/1952 ấn định chế độ tạm thời về thuốc phiện; Ngày 22/12/1952, Chính phủ lại ban hành Nghị định mới số 225/TTg sửa đổi lại Nghị định 150/TTg. Nhìn chung, đây là cơ sở pháp lý đầu tiên của Nhà nước Việt Nam về đấu tranh chống thuốc phiện nói chung.[36] Sau hiệp định Giơnevơ năm 1954, ở miền Bắc XHCN, tệ nạn trồng, hút thuốc phiện đã căn bản xóa bỏ được. Trong khi đó, ở Miền nam thời Mỹ- Ngụy, nạn nghiện hút, tiêm chích ma túy rất phát triển ở Sài gòn, Huế, Nha Trang, Vũng Tàu, Cần Thơ ... Sau ngày giải phóng Miền Nam thống nhất đất nước (năm 1975) Đảng và Nhà nước ta tiếp tục chủ trương bài trừ nạn trồng trọt, chế biến, sử dụng các chất ma túy. Cuộc đấu tranh chống nạn ma túy đã đạt được nhiều kết quả từ năm 1975- 1984. Nhưng từ giữa thập kỷ 80, do việc buông lỏng quản lý của Nhà nước và gia đình nên tệ nạn ma túy có cơ hội phát triển. Vì thế, để kịp thời ngăn chặn tệ nạn này ngày 08/4/1991, Chính phủ ra Nghị quyết số 99/CT về việc vận động nhân dân không trồng cây anh túc.[16] Trong những năm gần đây, Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều văn bản để chỉ đạo công tác PCMT, cụ thể như: Chỉ thị số 33/CT-TW ngày 01/3/1994 của Ban chấp hành Trung ương Đảng chỉ rõ: “ Phòng chống, khắc phục có hiệu quả các tệ nạn xã hội, trước hết là nạn mại dâm, nghiện ma túy, là một nhiệm vụ cấp bách hiện nay của Đảng và Nhà nước ta phải kiên quyết lãnh đạo thực hiện để có bước tiến bộ rõ rệt ngay từ năm 1994”. Chỉ thị 06-CT/TW ngày 30/11/1996 của Ban chấp hành Trung ương Đảng về tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo công tác phòng chống và kiểm soát ma túy đã yêu cầu: “Các cấp ủy Đảng phải tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo đối với công tác phòng chống và kiểm soát ma túy, phải coi đây là nhiệm vụ thường xuyên nhằm từng bước ngăn chặn và đẩy lùi tình trạng sử dụng ma túy trong nhân dân...” Văn kiện Đại hội IX của Đảng cũng đã nêu: “Phòng chống đẩy lùi các tệ nạn xã hội, đặc biệt là ma túy. Thực hiện cơ chế, giải pháp đồng bộ về tuyên truyền, giáo dục, chữa trị, đào tạo nghề, tạo việc làm. Xử lý nghiêm theo pháp luật những hành động gây tệ nạn xã hội” Quốc hội ban hành Luật số 04/1997/QH9 “Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật hình sự”, trong đó đã quy định 13 tội phạm về ma túy. Tháng 10/1999 Quốc hội đã ban hành Bộ luật hình sự thay thế Luật sửa đổi và bổ sung Bộ luật hình sự quy định các tội phạm về ma túy thành một chương riêng gồm 10 tội và tại kỳ họp lần thứ 8 Quốc hội khóa X, Luật phòng chống ma túy được thông qua ngày 09/12/2000 gồm 08 chương, 56 điều. 1.1.3. Một số công trình nghiên cứu có liên quan đến đề tài Với đề tài nghiên cứu “Biện pháp giáo dục phòng chống ma túy ở một số trường trung học phổ thông tỉnh Lai Châu” (2003), tác giả Nguyễn Mạnh Chủ đã tập trung nghiên cứu, làm rõ thực trạng nhận thức và những vấn đề vi phạm ma túy của HS trường THPT trên địa bàn tỉnh Lai Châu, trên cơ sở đó tác giả đã đề xuất một số biện pháp giáo dục PCMT học đường có tính khả thi trong tình hình hiện nay. Tác giả Dương Thị Kim Oanh cũng đã xác định được thực trạng nhận thức của học sinh THPT về vấn đề ma túy và chỉ ra những nguyên nhân dẫn đến tệ nạn nghiện ma túy trong HS trường THPT, qua kết quả nghiên cứu của đề tài: “Tìm hiểu thực trạng nhận thức về ma túy và nguyên nhân dẫn tới tệ nạn nghiện ma túy của học sinh trung học phổ thông” (1998) Với nội dung nghiên cứu của đề tài “Một số giải pháp quản lý của Hiệu trưởng ngăn chặn tệ nạn ma túy xâm nhập vào các trường học trung học phổ thông ở Tây Ninh. Thực trạng hướng đến sự hoàn thiện nó trong thời gian tới”. (2002), tác giả Trần Úc Châu đã giúp cho chúng ta hiểu được thực trạng công tác quản lý của Hiệu trưởng nhằm ngăn chặn tệ nạn ma túy xâm nhập vào trường THPT và tìm ra nguyên nhân, đề xuất các biện pháp quản lý có tính khả thi giúp người quản lý đạt hiệu quả cao trong hoạt động PCMT xâm nhập vào trường học, góp phần thực hiện thắng lợi chương trình hành động PCMT giai đoạn 2001-2005 của Chính phủ. Trong tạp chí “phòng chống ma túy” của Ủy ban quốc gia PCMT xuất bản do Đại tá Bùi Xuân Biên, Trung tá-PGS.TS Nguyễn Xuân Yêm biên tập được phát hành hàng tháng. Các tác giả đã nêu lên nhiều vấn đề có liên quan đến ma túy. Nó cần thiết và bổ ích cho công tác quản lý hoạt động giáo dục PCMT trong các nhà trường hiện nay. Ngoài ra, còn có nhiều khóa luận, luận văn thạc sĩ nghiên cứu về vấn đề này. Hầu hết các công
Luận văn liên quan