Một trong những đặc trưng quan trọng của tình hình thế giới hiện nay là xu
hướng quốc tế hoá và hội nhập kinh tế toàn cầu. Nến kinh tế thế giới phát triển nhanh
chóng kéo theo nó là sự chuyên môn hoá và phân công lao động quốc tế ngày một cao.
Không một quốc gia nào có thể phát triển mạnh mẽ nếu chỉ bằng con đường tự lực
cánh sinh, đặc biệt là với các nước đang phát triển và trình độ kĩ thuật công nghệ còn
non kém như Việt Nam. Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khoá VII của
Đảng đã khẳng định: “kiên trì chiến lược hướng mạnh về xuất khẩu đồng thời thay thế
nhập khẩu những sản phẩm trong nước sản xuất có hiệu quả, phát huy lợi thế so sánh
của từng vùng, từng ngành, từng lĩnh vực trong từng thời kỳ, không ngừng nâng cao
sức cạnh tranh trên thị trường trong nước, thị trường khu vực và thị trường thế giới”.
Việt Nam được coi là một nước có lợi thế so sánh trong xuất khẩu nông sản với
vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên thuận lợi, tài nguyên phong phú, nguồn nhân công
dồi dào (70% lao động Việt Nam làm nghề nông). Bên cạnh đó, trong nhiều năm qua
xuất khẩu nông sản đã giải quyết được phần lớn công ăn việc làm cho người lao động
và mang lại một nguồn ngoại tệ lớn cho quốc gia. Chính vì vậy xuất khẩu nông sản
đang trở thành ngành kinh tế mũi nhọn trong quá trình đẩy mạnh công nghiệp hoá-hiện
đại hoá ở nước ta.
101 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 2200 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Thực trạng - Giải pháp đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu hàng nông sản của Tổng công ty Thương mại Hà Nội trong bối cảnh kinh tế hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN:
Thực trạng - Giải pháp đẩy mạnh hoạt
động xuất khẩu hàng nông sản của Tổng
công ty Thương mại Hà Nội trong bối
cảnh kinh tế hiện nay
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Một trong những đặc trưng quan trọng của tình hình thế giới hiện nay là xu
hướng quốc tế hoá và hội nhập kinh tế toàn cầu. Nến kinh tế thế giới phát triển nhanh
chóng kéo theo nó là sự chuyên môn hoá và phân công lao động quốc tế ngày một cao.
Không một quốc gia nào có thể phát triển mạnh mẽ nếu chỉ bằng con đường tự lực
cánh sinh, đặc biệt là với các nước đang phát triển và trình độ kĩ thuật công nghệ còn
non kém như Việt Nam. Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khoá VII của
Đảng đã khẳng định: “kiên trì chiến lược hướng mạnh về xuất khẩu đồng thời thay thế
nhập khẩu những sản phẩm trong nước sản xuất có hiệu quả, phát huy lợi thế so sánh
của từng vùng, từng ngành, từng lĩnh vực trong từng thời kỳ, không ngừng nâng cao
sức cạnh tranh trên thị trường trong nước, thị trường khu vực và thị trường thế giới”.
Việt Nam được coi là một nước có lợi thế so sánh trong xuất khẩu nông sản với
vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên thuận lợi, tài nguyên phong phú, nguồn nhân công
dồi dào (70% lao động Việt Nam làm nghề nông). Bên cạnh đó, trong nhiều năm qua
xuất khẩu nông sản đã giải quyết được phần lớn công ăn việc làm cho người lao động
và mang lại một nguồn ngoại tệ lớn cho quốc gia. Chính vì vậy xuất khẩu nông sản
đang trở thành ngành kinh tế mũi nhọn trong quá trình đẩy mạnh công nghiệp hoá-hiện
đại hoá ở nước ta.
Hoà cùng xu thế phát triển của đất nước, Tổng công ty Thương mại Hà Nội
(tiền thân là Công ty sản xuất, dịch vụ và xuất nhập khẩu Nam Hà Nội) cũng không
ngừng chú trọng và coi đẩy mạnh xuất khẩu nông sản là lối đi đúng đắn trong chiến
lược kinh doanh lâu dài của mình. Song trong giai đoạn hội nhập sôi động như hiện
nay thì việc cạnh tranh chiếm lĩnh thị trường và khẳng định thương hiệu của Tổng
công ty ngày càng trở nên khó khăn hơn, thêm vào đó, cuộc khủng hoảng kinh tế toàn
cầu năm 2008 đã bắt đầu ảnh hưởng mạnh đến xuất khẩu nông sản (làm tăng chí phí
đầu vào, sức mua người tiêu dùng giảm sút…). Do đó làm thế nào để khắc phục được
nhanh chóng những ảnh hưởng tiêu cực trên đồng thời nâng cao hiệu quả hoạt động
xuất khẩu nông sản của Tổng công ty trong thời gian tới đang trở thành một vấn đề cấp
thiết cần phải được giả quyết.
Từ thực tế đó em đã lựa chọn đề tài “Thực trạng - Giải pháp đẩy mạnh hoạt
động xuất khẩu hàng nông sản của Tổng công ty Thương mại Hà Nội trong bối
cảnh kinh tế hiện nay” làm chuyên đề tốt nghiệp của mình. Qua bài viết này, em
mong muốn sẽ đóng góp được một số ý kiến quan trọng giúp cải thiện được tình hình
Tổng công ty nói chung cũng như sự lớn mạnh của bộ phận xuất khẩu nông sản nói
riêng trong tương lai.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu:
- Mục đích: tìm ra các giải pháp thiết thực nhằm thúc đẩy hoạt động xuất khẩu nông
sản của Tổng công ty Thương mại Hà Nội (Hapro)
- Nhiệm vụ nghiên cứu:
Đi từ cơ sở lí luận chung về hoạt động xuất khẩu nông sản cho đến thực tế tình
hình xuất khẩu nông sản tại Tổng công ty Thương mại Hà Nội để thấy được
những ưu nhược điểm của hoạt động này.
Nghiên cứu và dự báo tình hình kinh tế thế giới nói chung cũng như tình hình
thị trường nông sản nói riêng trong thời gian sắp tới để thấy được những khó
khăn thách thức với hoạt động xuất khẩu nông sản của Tổng công ty trong thời
gian tới.
Đưa ra những biện pháp và kiến nghị cụ thể nhằm khắc phục những hạn chế và
nâng cao hiệu quả hoạt động xuất khẩu nông sản của Tổng công ty.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
- Đối tượng nghiên cứu: hoạt động xuất khẩu nông sản của Tổng công ty Thương mại
Hà Nội
- Phạm vi nghiên cứu: chuyên đề chỉ tập trung nghiên cứu hoạt động xuất khẩu nông
sản của Tổng công ty Thương mại Hà Nội (bao gồm cả Công ty mẹ và các công ty con
trực thuộc) dưới những biến động thường xuyên của bối cảnh kinh tế thế giới trong
giai đoạn 2004-2009.
4. Kết cấu chuyên đề: ngoài phần mở đầu, kết luận thì chuyên đề bao gồm 3 chương:
Chương 1: Tổng quan chung về hoạt động xuất khẩu hàng nông sản ở Việt Nam
Chương 2: Tình hình xuất khẩu hàng nông sản của Tổng công ty Thương mại Hà Nội
Hapro trong những năm gần đây
Chương 3: Các giải pháp, kiến nghị nhằm đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu hàng nông
sản của Hapro trong bối cảnh kinh tế hiện nay
CHƯƠNG I: TỔNG QUAN CHUNG VỀ HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU HÀNG
NÔNG SẢN TẠI VIỆT NAM
1.1. Khái quát chung về hoạt động xuất khẩu
1.1.1. Khái niệm và đặc điểm của xuất khẩu
Theo quan niệm của doanh nghiệp thì xuất khẩu là việc bán các hàng hoá, dịch
vụ ra thị trường nước ngoài nhằm thoả mãn nhu cầu của khách hàng nước ngoài và thu
về một lượng tiền tệ tương ứng (có thể là ngoại tệ hoặc nội tệ)
Theo qui định khoản 1 điều 28 Luật Thương mại Việt Nam thì “xuất khẩu hàng
hóa là việc đưa hàng hoá ra khỏi lãnh thổ Việt Nam hoặc đưa vào các khu vực đặc biệt
nằm trên lãnh thổ Việt Nam được coi là khu vực hải quan riêng theo qui định của pháp
luật”.
Như vậy, về bản chất có thể coi xuất khẩu là việc cung cấp hàng hoá, dịch vụ
cho nước ngoài trên cơ sở dùng tiền tệ làm phương thức thanh toán. Ngày nay khi xu
thế hội nhập toàn cầu và mở cửa nền kinh tế đang ngày một phát triển thì xuất khẩu đã
trở thành một hoạt động không thể thiếu đối với mỗi quốc gia. Hoạt động xuất khẩu
được tiến hành trong mọi lĩnh vực, ngành nghề, dưới nhiều hình thức khác nhau đã và
đang đem lại những lợi ích to lớn cho nhà xuất khẩu và cho cả quốc gia.
So với buôn bán hàng hoá trong nước thì hoạt động xuất khẩu hàng hoá có những
điểm khác biệt cơ bản dễ nhận thấy như:
Hai chủ thể chính trong hoạt động xuất khẩu (bên mua và bên bán) là những cá
nhân hay tổ chức có tư cách pháp nhân, có quốc tịch và trụ sở chính của doanh
nghiệp đóng ở các nước khác nhau. Đây là điểm khác biệt cơ bản và quan trọng
nhất. Chính vì sự khác biệt trong ngôn ngữ, lối sống, phong tục tập quán, cách
thức làm việc…giữa hai bên nên nghiệp vụ xuất khẩu thường khó khăn, phức
tạp và dễ nảy sinh mâu thuẫn hơn so với buôn bán hàng hoá trong nước
Hàng hoá trong hoạt động xuất khẩu có thể bị dịch chuyển qua biên giới một
quốc gia và khối lượng hàng hoá thường là lớn hơn rất nhiều so với buôn bán
trong nước
Phương tiện thanh toán dùng trong xuất khẩu có thể là ngoại tệ đối với một bên
hoặc với cả hai bên do thoả thuận trong hợp đồng xuất khẩu
Nguồn luật điều chỉnh quan hệ mua bán, giải quyết các tranh chấp khi phát sinh
có thể là luật của nước bên mua, luật của nước bên bán hay luật quốc tế mà các
bên đã thoả thuận trong hợp đồng.
1.1.2. Vai trò của xuất khẩu hàng hoá
1.1.2.1. Đối với nền kinh tế quốc gia
* Xuất khẩu góp phần thúc đẩy sản xuất phát triển, kích thích sự tăng trưởng kinh tế
nhanh chóng, đặc biệt là ở các nước đang phát triển.
Xuất khẩu được hầu hết các quốc gia trên thế giới coi như là một cách thức hữu
hiệu nhất để đẩy nhanh tốc độ phát triển của nền kinh tế do những nguyên nhân cơ bản
sau đây:
Xuất khẩu tạo cơ hội mở rộng thị trường tiêu thụ, cho phép mở rộng qui mô sản
xuất, nhiều ngành nghề mới ra đời theo phản ứng dây chuyền giúp tăng tổng
sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân.
Xuất khẩu tạo ra một nguồn vốn lớn để nhập khẩu máy móc thiết bị, các công
nghệ hiện đại phục vụ sản xuất, đưa nền kinh tế tiến lên theo con đường Công
nghiệp hoá- hiện đại hoá
Hoạt động xuất khẩu làm cho mức độ cạnh tranh ngày càng tăng tiến, điều này
buộc mỗi quốc gia phải có sự tổ chức lại sản xuất, đổi mới công nghệ và nâng
cao chất lượng sản phẩm không ngừng
Xuất khẩu tạo ra một nguồn ngoại tệ giúp cân bằng cán cân thanh toán. Điều
này đặc biệt có ý nghĩa với các nước đang phát triển khi mà tình trạng nhập siêu
khá phổ biến.
* Xuất khẩu có vai trò tác động đến sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành theo hướng
sử dụng có hiệu quả nhất lợi thế so sánh của đất nước
Xuất khẩu lấy thị trường thế giới làm thị trường của mình nên nhu cầu của thế
giới chính là mục tiêu hướng tới của xuất khẩu. Những mặt hàng nào có khả năng phục
vụ tốt nhu cầu của con người trên thế giới thì sẽ trụ vững và phát triển, còn không nó
sẽ bị đào thải và xoá sổ nhanh chóng. Chính vì vậy xuất khẩu có tác dụng thúc đẩy
chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá- hiện đại hoá, hoà mình vào
xu thế chung của toàn thế giới hiện nay.
Như ta đã biết có hai xu hướng xuất khẩu là: xuất khẩu đa dạng và xuất khẩu mũi
nhọn
Xuất khẩu đa dạng tức là mặt hàng nào có khả năng xuất khẩu được thì đều
xuất khẩu, chính vì không có sự tập trung đầu tư thích đáng nên qui mô và chất
lượng hàng xuất khẩu thường không cao, hiệu quả xuất khẩu kém
Xuất khẩu mũi nhọn là tâp trung vào xuất khẩu những mặt hàng mà nước mình
có lợi thế so sánh (có điều kiện thuận sản xuất thuận lợi hơn so với các nước
khác). Xuất khẩu mũi nhọn có tác dụng như một đầu tàu, tuy nhỏ bé nhưng có
sức kéo cả đoàn tàu vượt lên trước nhanh chóng.
Trong bối cảnh hội nhập kinh tế toàn cầu như hiện nay, khi chuyên môn hoá và
phân công lao động quốc tế ngày một phát triển thì xuất khẩu mũi nhọn đang dần trở
thành hướng xuất khẩu chủ yếu của hầu hết các nước. Khi các mặt hàng mũi nhọn xuất
khẩu đạt hiệu quả cao tất yếu sẽ dẫn theo sự phát triển của các ngành hàng liên quan.
Ví dụ như khi xuất khẩu hàng dệt may phát triển, nó sẽ kéo theo sự phát triển của
ngành trồng bông, đay nhằm cung cấp kịp thời nguyên vật liệu cho ngành dệt may.
Hoặc khi các mặt hàng thực phẩm chế biến được xuất khẩu ngày một nhiều thì sẽ kéo
theo sự đi lên của ngành chăn nuôi, trồng trọt…
Rõ ràng xuất khẩu đã và đang làm dịch chuyển cơ cấu kinh tế ngành trong mỗi
nước, tỷ trọng ngành mũi nhọn và các ngành liên quan đang ngày một chiếm ưu thế
trong toàn bộ nền kinh tế.
* Xuất khẩu có tác động tích cực đến việc giải quyết công ăn việc làm và cải thiện đời
sống người lao động
Một mặt hàng xuất khẩu phát triển sẽ kéo theo sự xuất hiện của nhiều ngành
nghề mới liên quan, tạo thêm nhiều việc làm mới cho người lao động trong nước.
Thêm vào đó các đơn đặt hàng từ nước ngoài thường có khối lượng hàng hoá lớn, thời
gian lại gấp rút nên rất cần tập trung nhân công để có thể hoàn thành hợp đồng đúng
hạn. Chính vì vậy xuất khẩu luôn được coi là một công cụ giải quyết nạn thất nghiệp
đặc biệt là ở các nước đang phát triển.
Xuất khẩu còn tạo ra một nguồn vốn để nhập khẩu các mặt hàng tiêu dùng thiết
yếu mà trong nước chưa có khả năng sản xuất, đáp ứng nhu cầu ngày càng đa dạng cảu
người tiêu dùng, qua đó nâng cao chất lượng cuộc sống cả về vật chất và tinh thần.
* Hoạt động xuất khẩu là cơ sở để nâng cao uy tín của một quốc gia trên trường thế
giới đồng thời cũng là động lực thúc đẩy mối quan hệ kinh tế đối ngoại với các nước
khác
Nhờ có hoạt động xuất khẩu mà hàng hoá của một nước được bày bán và biết
đến tại nhiều khu vực trên thế giới, đặc biệt là với các mặt hàng có tính truyền thống
thì việc xuất khẩu đồng nghĩa với việc quảng bá hình ảnh, khẳng định uy tín cũng như
thương hiệu của đất nước đó với toàn thế giới. Thông qua xuất khẩu mà một quốc gia
có thể thiết lập và mở rộng mối quan hệ với các nước khác trên cơ sở đôi bên cùng có
lợi
Xuất khẩu chỉ là một bộ phận của kinh tế đối ngoại nhưng sự phát triển của nó
đã thúc đẩy sự phát triển của các quan hệ tín dụng - vay nợ quốc tế, đầu tư nước ngoài,
mở rộng vận tải quốc tế, bảo hiểm quốc tế, du lịch quốc tế… Ngược lại sự phát triển
của các quan hệ quốc tế này cũng tạo không ít thuận lợi cho hoạt động xuất khẩu.Vì
vậy có thể nói xuất khẩu và các quan hệ kinh tế đối ngoại có mối quan hệ hỗ trợ và
phụ thuộc lẫn nhau.
1.1.2.2. Đối với doanh nghiệp
Vươn ra thị trường nước ngoài là một xu hướng chung của hầu hết các doanh
nghiệp lớn nhỏ hiện nay. Việc xuất khẩu hàng hoá dịch vụ đã mang lại cho các doanh
nghiệp nhiều lợi ích như
* Hoạt động xuất khẩu giúp cho các doanh nghiệp có thể tồn tại và phát triển, đặc biệt
là khi thị trường trong nước trở nên bão hoà. Xuất khẩu giúp mở rộng thị trường, kéo
dài tuổi thọ chu kỳ sống của sản phẩm, đẩy mạnh số lượng tiêu thụ trên thị trường
quốc tế, làm tăng tốc độ quay vòng vốn và thu về một lượng giá trị lớn hơn cho doanh
nghiệp.
* Thông qua hoạt động xuất khẩu, các doanh nghiệp tham gia vào một cuộc cạnh tranh
sôi động hơn cả về chất lượng và giá cả, những yêu cầu khắt khe hơn của thị trường
quốc tế sẽ kích thích các doanh nghiệp phải đổi mới phương thức kinh doanh, nâng
cao trình dộ nghiệp vụ cũng như cải thiện công nghệ - kỹ thuật để nâng cao tính cạnh
tranh so với các đối thủ khác trong và ngoài nước.
* Xuất khẩu tạo nguồn ngoại tệ cho doanh nghiệp, tăng dự trữ, qua đó nâng cao khả
năng nhập khẩu để thay thế, bổ sung và nâng cấp các máy móc, thiết bị phục vụ cho
sản xuất.
* Doanh nghiệp tiến hành xuất khẩu có cơ hội mở rộng quan hệ buôn bán kinh doanh
với nhiều đối tác nước ngoài trên cơ sở đôi bên cùng có lợi.
* Sản xuất hàng xuất khẩu mang lại lợi nhuận cao nên nó giúp doanh nghiệp tạo được
thu nhập ổn định cho cán bộ công nhân viên, đồng thời thu hút được nhiều lao động có
chuyên môn và tay nghề hơn.
* Thị trường quốc tế rộng lớn chứa đựng nhiều rủi ro cũng như cơ hội, những doanh
nghiệp kinh doanh trên thị trường này nếu thành công sẽ có thể tăng cao được thế lực,
uy tín của mình cả trong và ngoài nước, qua đó tạo thuận lợi hơn cho hoạt động kinh
doanh trong lâu dài.
1.1.3. Các hình thức xuất khẩu
1.1.3.1. Xuất khẩu trực tiếp
Xuất khẩu trực tiếp là hình thức xuất khẩu mà các doanh nghiệp ngoại thương
tự bỏ vốn ra mua sản phẩm từ các đơn vị sản xuất trong nước, sau đó trực tiếp tiến
hành các giao dịch buôn bán và kí kết hợp đồng xuất khẩu với đối tác nước ngoài nếu
được nhà nước và Bộ Thương mại cho phép. Với hình thức này các doanh nghiệp trực
tiếp quan hệ với các khách hàng nước ngoài mà không qua bất kỳ một trung gian nào.
Ưu điểm của phương thức này là
Các doanh nghiệp sẽ đạt được hiệu quả kinh doanh cũng như lợi nhuận cao hơn
do tự mình mua được hàng hoá tốt phù hợp với yêu cầu khách hàng với giá mua
vào thấp và không phải cho trả chi phí cho bên trung gian nào
Các điều kiện trong hợp đồng xuất khẩu ( giá cả hàng hoá, phương tiện vận
chuyển, thời gian và địa điểm giao hàng, phương thức thanh toán) do hai bên tự
thoả thuận và quyết định nên sẽ đảm bào được lợi ích của hai bên
Các doanh nghiệp xuất khẩu có cơ hội thâm nhập thị trường, trực tiếp tìm hiểu
nhu cầu sở thích cũng như ý kiến phản hồi từ khách hàng nên khả năng đáp ứng
yêu cầu hay khắc phục thiếu sót sẽ tốt hơn.
Nhược điểm:
Độ rủi ro lớn, hàng hoá có thể không bán được hay bán chậm do những biến
động từ phía khách hàng hay từ thị trường dẫn đên ứ đọng vốn kinh doanh
Khối lượng hàng hoá phải đủ lớn để bù đắp các chi phí điều tra thị trường, giao
dịch, hải quan… mà doanh nghiệp phải bỏ ra
Đối với các thị trường mới thâm nhập, chưa hiểu rõ thì các doanh nghiệp xuất
khẩu dễ bị ép giá, bị lấn át…
Hình thức này chỉ áp dụng cho các doanh nghiệp có qui mô lớn, các cán bộ ngoại
thương phải có trình độ và nghiệp vụ cao, sản phẩm xuất khẩu phải có uy tín tương đối
trên thị trường. Đặc biệt các doanh nghiệp chỉ nên xuất khẩu theo hình thức này khi đã
biết rõ về khách hàng, về nhu cầu thị trường để tránh khỏi những rủi ro đáng tiếc
1.1.3.2. Xuất khẩu uỷ thác
Đây là một hình thức dịch vụ thương mại, trong đó đơn vị có hàng xuất khẩu
(bên uỷ thác) sẽ giao cho đơn vị xuất khẩu (bên được uỷ thác) tiến hành xuất khẩu một
lô hàng nhất định với danh nghĩa của bên được uỷ thác nhưng với chi phí của bên uỷ
thác. Đơn vị xuất khẩu chỉ thực hiện các thủ tục xuất khẩu hàng hóa, kể cả vận chuyển
và được nhận một khoản tiền do bên uỷ thác trả (gọi là phí uỷ thác)
Ưu điểm: doanh nghiệp ngoại thương không phải tự bỏ vốn ra mua hàng, không
phải chi cho các khoản nghiên cứu thị trường, giao dịch kí kết hợp đồng xuất
khẩu,không phải chịu trách nhiệm cuối cùng về việc bán hàng nên tránh được những
rủi ro trong kinh doanh mà vẫn thu được lợi nhuận chắc chắn từ phí uỷ thác.
Nhược điểm: Vì không tham gia trực tiếp vào quá trình nghiên cứu, tìm kiếm
thị trường xuất khẩu nên thị trường và khách hàng của doanh nghiệp bị hạn chế tương
đối.
1.1.3.3. Xuất khẩu gia công: có 2 hình thức gia công chính trong hoạt động xuất khẩu
* Xuất khẩu gia công uỷ thác
Theo hình thức này thì các doanh nghiệp ngoại thương sẽ đứng ra nhập nguyên
vật liệu, bán thành phẩm cho các doanh nghiệp trong nước gia công, sau đó thu hồi lại
và đem xuất cho bên nước đặt gia công.Các bước tiến hành như sau:
Kí hợp đồng với bên nhận gia công
Kí hợp đồng với bên đặt gia công và nhập nguyên vật liệu họ cung cấp về nước
Giao nguyên liệu cho bên nhận gia công
Nhập lại thành phẩm từ bên gia công và xuất trả lại cho bên đặt gia công
Thanh toán chi phí cho đơn vị gia công và hưởng phí uỷ thác gia công
Hình thức này có ưu điểm
Bên được uỷ thác không cần bỏ vốn kinh doanh mà vẫn thu được lợi nhuận từ
phí uỷ thác gia công, việc thanh toán cho bên gia công được bảo đảm vì đầu ra
khá chắc chắn.
Bên trung gian được uỷ thác thường am hiểu thị trường, pháp luật, tập quán của
bên nước ngoài nên họ có khả năng giảm thiểu rủi ro và ép giá trong xuất khẩu
hàng gia công
Nhược điểm là cần qua nhiều khâu xuất nhập, thủ tục phức tạp vì có nhiều bên
tham gia vào nghiệp vụ xuất khẩu. Hình thức này chỉ thích hợp với các doanh nghiệp
ngoại thương có nhiều kinh nghiệm về nghiệp vụ xuất nhập khẩu.
* Gia công quốc tế
Theo hình thức này thì bên xuất khẩu là bên nhận gia công còn bên nhập khẩu
chính là bên đặt gia công. Bên nhận gia công sẽ nhập nguyên liệu hay bán thành phẩm
của bên đặt gia công để chế biến ra thành phẩm theo yêu cầu của bên đặt gia công và
được nhận phí thù lao gọi là phí gia công
Ưu điểm của hình thức này là
Đối với bên nhận gia công: tạo thêm công ăn việc làm cho người lao động, tạo
điều kiện đổi mới và cải tiến kĩ thuật công nghệ nhằm nâng cao năng lực sản
xuất
Đối với bên đặt gia công: lợi dụng được giá nhân công và nguyên phụ liệu
tương đối rẻ của bên nhận gia công
Nhược điểm là thu nhập từ hoạt động kinh doanh này tương đối thấp so với các
hình thức khác, các doanh nghiệp nhận gia công thường bị yếu thế trong việc thoả
thuận các điều kiện gia công với bên nước ngoài.
Hình thức này chủ yếu áp dụng trong các ngành sản xuất sử dụng nhiều lao động
và nguyên vật liệu như: dệt may, đóng giầy da…
1.1.3.4. Xuất khẩu theo hình thức buôn bán đối lưu
Là hình thức xuất khẩu đi đôi với nhập khẩu, việc mua bán gắn liền với nhau,
người mua đồng thời là người bán, lượng hàng hóa trao đổi với nhau phải có giá trị
tương đương. Các bên buôn bán đối lưu phải luôn quan tâm đến sự cân bằng trong trao
đổi hàng hoá (cân bằng về mặt hàng, giả cả, tổng giá trị hàng hoá giao nhau, điều kiện
giao hàng)
Mục đích xuất khẩu không phải là thu về lợi nhuận mà nhằm thu về một lượng
hàng tương đương với lô hàng đã xuất. Ưu điểm của hình thức này chính là sự cân
bằng trong trao đổi hàng hoá, không liên quan tới tiền nên các doanh nghiệp không cần
quá am hiểu về nghiệp vụ thanh toán, ngoài ra còn tránh được các rủi ro do sự biến
động tỷ giá hối đoái trên thị trường ngoại hối.
Tuy nhiên không phải lúc nào doanh nghiệp cũng đáp ứng được yêu cầu về
hàng hóa tương đương mà khách hàng muốn trao đổi nên doanh nghiệp ngoại thương
không chủ động, đây cũng là hạn chế của hình thức này.
1.1.3.5. Xuất khẩu tại chỗ
Đây là hình thức xuất khẩu mà hàng hoá không nhất thiết phải dịch chuyển qua
biên giới quốc gia mà vẫn đến được tay khách hàng nước ngoài. Một điểm đặc biệt của
hình thức xuất khẩu này là khách hàng tự tìm đến doanh nghiệp bán hàng chứ doanh
nghiệp không phải tự đi tìm kiếm khách hàng.
Hình thức xuất khẩu này được tiến hành thông qua việ