Luận văn Thực trạng quản lý đào tạo đại học tại chức ở các cơ sở giáo dục thuộc tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu

Luật Giáo dục năm 2005 đã khẳng định: “Giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu, là sự nghiệp của Nhà nước và của toàn dân”. Mục tiêu của nền giáo dục là “đào tạo con người Việt Nam phát triển toàn diện, có đạo đức, tri thức, sức khỏe, thẩm mỹ và nghề nghiệp, trung thành với lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, hình thành và bồi dưỡng nhân cách, phẩm chất và năng lực của công dân, đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc” [4, tr.7]. Để thực hiện mục tiêu trên, hệ thống giáo dục của nước ta có nhiều ngành học, bậc học, trong đó giáo dục đại học và sau đại học có nhiệm vụ: “Đáp ứng nhu cầu nguồn nhân lực trình độ cao phù hợp với cơ cấu kinh tế- xã hội của thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, nâng cao năng lực cạnh tranh và hợp tác bình đẳng trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế” [11, tr.104]. Về cách tổ chức đào tạo, ngành giáo dục đại học có hai phương thức đào tạo là đào tạo chính qui và đào tạo không chính quy. Trong phương thức đào tạo không chính quy có đào tạo tại chức (vừa làm vừa học ).

pdf137 trang | Chia sẻ: duongneo | Lượt xem: 1039 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Thực trạng quản lý đào tạo đại học tại chức ở các cơ sở giáo dục thuộc tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP.HỒ CHÍ MINH PHAN SƠN TRƯỜNG THỰC TRẠNG QUẢN LÝ ĐÀO TẠO ĐẠI HỌC TẠI CHỨC Ở CÁC CƠ SỞ GIÁO DỤC THUỘC TỈNH BÀ RỊA – VŨNG TÀU LUẬN VĂN THẠC SĨ GIÁO DỤC HỌC CHUYÊN NGÀNH: QUẢN LÝ GIÁO DỤC NGƯỜI HƯỚNG DẪN: TS. HỒ VĂN LIÊN TP. HỒ CHÍ MINH - 2007 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Luật Giáo dục năm 2005 đã khẳng định: “Giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu, là sự nghiệp của Nhà nước và của toàn dân”. Mục tiêu của nền giáo dục là “đào tạo con người Việt Nam phát triển toàn diện, có đạo đức, tri thức, sức khỏe, thẩm mỹ và nghề nghiệp, trung thành với lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, hình thành và bồi dưỡng nhân cách, phẩm chất và năng lực của công dân, đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc” [4, tr.7]. Để thực hiện mục tiêu trên, hệ thống giáo dục của nước ta có nhiều ngành học, bậc học, trong đó giáo dục đại học và sau đại học có nhiệm vụ: “Đáp ứng nhu cầu nguồn nhân lực trình độ cao phù hợp với cơ cấu kinh tế- xã hội của thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, nâng cao năng lực cạnh tranh và hợp tác bình đẳng trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế” [11, tr.104]. Về cách tổ chức đào tạo, ngành giáo dục đại học có hai phương thức đào tạo là đào tạo chính qui và đào tạo không chính quy. Trong phương thức đào tạo không chính quy có đào tạo tại chức (vừa làm vừa học ). Trong mấy năm gần đây, trên địa bàn tỉnh Bà Rịa- Vũng Tàu hình thức đào tạo đại học tại chức phát triển mạnh, qui mô đào tạo tăng nhiều lần, đã góp phần quan trọng vào việc đáp ứng nhu cầu nâng cao trình độ cho đội ngũ cán bộ công chức và nhu cầu học tập của nhân dân lao động trong tỉnh. Tuy nhiên, công tác quản lý các lớp đại học tại chức đã có những bất cập, đó là: “nhiều trường đã tăng quy mô tuyển sinh vượt quá khả năng đào tạo, mở quá nhiều lớp tại chức ở các địa phương mà không thực hiện đúng quy chế, đúng chương trình, không đảm bảo chất lượng đào tạo”. [1, tr.26] Công tác quản lý đào tạo là một trong những vấn đề góp phần quyết định kết quả đào tạo. Bản thân là một cán bộ công tác ở Phòng Giáo dục chuyên nghiệp thuộc sở Giáo dục và Đào tạo đã nhiều năm, có một số kinh nghiệm trong quản lý lĩnh vực giáo dục nghề nghiệp. Vì vậy sau khi hoàn thành chương trình cao học quản lý giáo dục, tôi chọn đề tài “Thực trạng quản lý đào tạo đại học tại chức ở các cơ sở giáo dục thuộc tỉnh Bà Rịa- Vũng Tàu” để nghiên cứu. Đề tài nghiên cứu nhằm góp phần tạo cơ sở để quản lý tốt hình thức đào tạo đại học tại chức tại các cơ sở giáo dục thuộc tỉnh Bà Rịa- Vũng Tàu nhằm nâng cao kết quả đào tạo đáp ứng tốt hơn nhu cầu nhân lực phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá trên địa bàn tỉnh. Quản lý công tác đào tạo ở các trường đại học là một nhiệm vụ chủ yếu nhưng nhiều khó khăn phức tạp đối với người Hiệu trưởng. Tuy nhiên việc quản lý các lớp đào tạo tại chức lại càng khó khăn hơn, nhất là đối với các lớp mở tại các địa phương. Mục tiêu của công tác quản lý này là làm sao nâng cao chất lượng và hiệu quả đào tạo. 2. Mục đích nghiên cứu Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực trạng đề xuất các giải pháp nhằm tăng cường công tác quản lý đào tạo đại học tại chức trên địa bàn tỉnh Bà Rịa- Vũng Tàu. 3. Đối tượng và khách thể nghiên cứu - Khách thể nghiên cứu: Công tác quản lý đào tạo đại học tại chức trên địa bàn tỉnh Bà Rịa- Vũng Tàu. - Đối tượng nghiên cứu: Thực trạng quản lý đào tạo đại học tại chức tại các cơ sở giáo dục trên địa bàn tỉnh Bà Rịa- Vũng Tàu. 4. Giả thuyết khoa học - Công tác quản lý đào tạo đại học tại chức tại các cơ sở giáo dục thuộc tỉnh Bà Rịa- Vũng Tàu bên cạnh những ưu điểm như đã mở được nhiều lớp học, đáp ứng nhu cầu học tập nâng cao trình độ của cán bộ công chức còn có những hạn chế như ngành nghề đào tạo chưa cân đối, thiếu cơ sở vật chất phục vụ đào tạo. - Nếu đánh giá đúng thực trạng quản lý đào tạo đại học tại chức tại cơ sở giáo dục thuộc tỉnh Bà Rịa- Vũng Tàu, thì có thể đề xuất các giải pháp phù hợp nhằm tăng cường công tác quản lý từ đó góp phần nâng cao kết quả đào tạo. 5. Phạm vi và giới hạn nghiên cứu Đề tài chỉ nghiên cứu thực trạng thuộc trách nhiệm quản lý của các cơ sở có liên kết đào tạo đại học tại chức, không nghiên cứu phần thuộc về trách nhiệm của các trường đại học. 6. Nhiệm vụ nghiên cứu - Hệ thống hoá cơ sở lý luận về quản lý đào tạo đại học tại chức. - Khảo sát thực trạng quản lý đào tạo đại học tại chức tại các cơ sở giáo dục có liên kết đào tạo đại học tại chức trên địa bàn tỉnh Bà Rịa- Vũng Tàu. - Đề xuất các giải pháp tăng cường công tác quản lý đào tạo đại học tại chức trên địa bàn tỉnh Bà Rịa- Vũng Tàu. 7. Các phương pháp nghiên cứu 7.1. Phương pháp luận - Tiếp cận hệ thống-cấu trúc: là cách thức nghiên cứu đối tượng như một hệ thống tòan vẹn, phát triển động, tự hình thành và phát triển thông qua việc giải quyết mâu thuẫn nội tại do sự tương tác hợp quy luật của các thành tố tạo ra. Qua đó phát hiện các yếu tố sinh thành, yếu tố bản chất và lôgic phát triển của đối tượng. - Quan điểm lịch sử: khi xem xét một sự vật, hiện tượng chúng ta phải xem xét quá trình lịch sử của nó. Từ đó thấy được mối liên hệ giữa quá khứ, hiện tại và tương lai của đối tượng nghiên cứu. - Quan điểm thực tiễn: Từ việc khảo sát thực trạng quản lý ở các cơ sở liên kết đào tạo đại học tại chức trên địa bàn tỉnh Bà Rịa- Vũng Tàu thấy được những điểm mạnh, điểm yếu từ đó đề ra được các giải pháp khả thi nhằm tăng cường công tác quản lý. 7.2. Phương pháp cụ thể 7.2.1. Phương pháp nghiên cứu lý thuyết Dùng phương pháp này để nghiên cứu tài liệu làm cơ sở lý luận cho đề tài nghiên cứu. Phương pháp này bao gồm các phương pháp như phân tích, tổng hợp, hệ thống hóa tài liệu. 7.2.2. Phương pháp nghiên cứu thực tiễn Phương pháp trao đổi- phỏng vấn: Qua việc trao đổi trực tiếp với một số cán bộ quản lý và giảng viên nhằm thu thập thông tin để làm rõ thực trạng quản lý đào tạo tại cơ sở. Phương pháp điều tra bằng phiếu: nhằm thu thập thông tin qua phiếu hỏi ý kiến cán bộ quản lý, giảng viên và học viên. Xây dụng bộ công cụ nghiên cứu: bộ công cụ điều tra gồm 2 mẫu: - Mẫu 1: Phiếu hỏi 80 cán bộ quản lý và giảng viên tham gia giảng dạy các lớp đại học tại chức tại các cơ sở liên kết đào tạo. - Mẫu 2: Phiếu hỏi dành cho 337 học viên. Thăm dò ý kiến học viên 2 ngành Kinh tế và tiếng Anh tại Trung tâm giáo dục thường xuyên tỉnh Bà Rịa- Vũng Tàu là Trung tâm có quá trình liên kết đào tạo đại học tại chức lâu nhất và có số học viên đông nhất (Trung tâm có chức năng chủ yếu là liên kết đào tạo đại học tại chức). Các phiếu hỏi nhằm nghiên cứu thực trạng quản lý đào tạo tại chức ở các cơ sở giáo dục trên địa bàn tỉnh Bà Rịa- Vũng Tàu, đồng thời thu thập thêm ý kiến về các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng đào tạo. 7.2.3. Các phương pháp bổ trợ 7.2.3.1. Phương pháp lấy ý kiến chuyên gia Tác giả đã gặp gỡ, trao đổi ý kiến với cán bộ quản lý ở các cơ sở giáo dục trên địa bàn. 7.2.3.2. Phương pháp quan sát Quan sát phòng học, thiết bị phục vụ giảng dạy và học tập, xưởng trường, thư viện, ký túc xá. Quan sát việc tổ chức lớp học, tình hình sĩ số học viên, tình hình tổ chức kiểm tra và thi hết học phần, thi tuyển sinh, thi tốt nghiệp. 7.2.4. Phương pháp thống kê toán học Dùng phương pháp thống kê tóan học để xử lý kết quả điều tra khảo sát nhằm đánh giá đúng thực trạng và đề ra phương hướng nâng cao hiệu quả công tác quản lý. Xử lý số liệu theo phương pháp thống kê tóan học: sau khi thu thập các phiếu thăm dò ý kiến của học viên và của cán bộ giảng dạy, cán bộ quản lý tại địa phương, tác giả sử dụng phầm mềm SPSS for Windows xử lý số liệu, tính giá trị trung bình ( X ) và độ lệch chuẩn  (Standard deviation) nhằm đánh giá thực trạng quản lý đào tạo đại học tại chức ở các cơ sở giáo dục trên địa bàn tỉnh Bà Rịa- Vũng Tàu. 8. Cấu trúc luận văn Luận văn gồm các phần sau: - Phần mở đầu: Giới thiệu khái quát về đề tài, mục đích nghiên cứu, nhiệm vụ nghiên cứu, phạm vi nghiên cứu - Phần kết quả nghiên cứu: Gồm 2 chương Chương 1: Cơ sở lý luận của vấn đề quản lý đào tạo đại học tại chức Chương 2: Thực trạng quản lý đào tạo đại học tại chức tại các cơ sở giáo dục trên địa bàn tỉnh Bà Rịa- Vũng Tàu - Kết luận và kiến nghị - Tài liệu tham khảo - Phụ lục Chương I CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VẤN ĐỀ QUẢN LÝ ĐÀO TẠO ĐẠI HỌC TẠI CHỨC 1.1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề Trên thế giới, các trường đại học đã có từ lâu , đối với nước ta có thể nói Quốc Tử Giám được mở năm 1076 là trường đại học đầu tiên. Trường đại học đó tồn tại suốt thời kỳ phong kiến ở nước ta. Đến năm 1902, trường Y dược là trường Cao đẳng đầu tiên được thành lập ở Hà Nội. Một số trường cao đẳng và đại học khác được thành lập vào những năm 20 của Thế kỷ XX và đến năm 1939 được tập hợp lại thành trường ĐH Đông Dương đặt tại Hà Nội, chung cho cả Việt Nam, Lào, Cămpuchia. Đến năm 1945 cả Đông Dương có 5 trường đại học, cao đẳng. Trong những năm kháng chiến chống Pháp (1946- 1954) một số trường ĐH, CĐ đã sơ tán từ Thủ đô Hà Nội lên Việt Bắc để tiếp tục đào tạo, gồm có ĐH Y khoa, CĐ Công chính, CĐ Mỹ thuật. Từ năm 1951- 1954 đã hình thành 3 trung tâm ĐH: một trung tâm ở Việt Bắc với trường ĐH Y khoa, một ở Thanh Hoá với trường dự bị Đại học, một gọi là Khu học xá Trung ương với Khoa khoa học cơ bản và trường Sư phạm cao cấp đặt tại Nam Ninh (Trung Quốc). Năm 1954, ba trung tâm đại học từ vùng kháng chiến và từ nước ngoài được chuyển về Hà Nội. Đến năm 1956, ở miền Bắc có các các trường đại học sau: ĐH Tổng hợp Hà Nội, ĐH Sư phạm Hà Nội, ĐH Bách khoa Hà Nội, ĐH Y khoa Hà Nội, ĐH Kinh tế Hà Nội, CĐ Mỹ thuật. Đến năm học 1974- 1975, ở miền Bắc đã có 30 trường Đại học với 8400 cán bộ giảng dạy, trong đó có 8,9 % cán bộ có học vị Phó tiến sĩ và 56000 sinh viên. Ở miền Nam, đến năm 1974- 1975 có 4 Viện Đại học công lập (Sài Gòn, Bách khoa Thủ Đức, Huế, Cần Thơ), 3 Viện ĐH Cộng đồng công lập đào tạo 2 năm (Mỹ Tho, Nha Trang, Đà Nẵng) và 11 Viện ĐH tư với tổng số 166000 sinh viên. Sau khi thống nhất đất nước, các trường ĐH ở 2 miền Nam Bắc đã được sắp xếp lại để trở thành một hệ thống ĐH thống nhất trong cả nước. Trong đào tạo đại học bên cạnh phương thức chính quy có phương thức không chính quy như tại chức (vừa học vừa làm), chuyên tu, từ xa để đào tạo nâng cao trình độ cho cán bộ công chức, viên chức và những người đang làm việc trong các doanh nghiệp. Hiện nay, theo số liệu của Bộ Giáo dục và Đào tạo, trong năm học 2002- 2003, hệ thống giáo dục ĐH nước ta gồm 111 trường ĐH và 119 trường CĐ, trong đó có 15 trường ĐH dân lập, 2 trường ĐH bán công, 2 trường CĐ dân lập, 4 trường CĐ bán công, 9 trường CĐ Cộng đồng. Tổng số sinh viên là 1.020.670 trong đó 64% chính qui, 36 % không chính qui; đạt tỷ lệ 124,7 SV/ 1 vạn dân. Như vậy, tính từ năm 1945 đến nay sau 60 năm số lượng các trường ĐH, CĐ của nước ta đã tăng trên 40 lần (230 trường so với 5 trường vào năm 1945), số sinh viên tăng hàng ngàn lần. Vấn đề liên kết đào tạo xuất hiện trong khỏang 20 năm gần đây (Báo tuổi trẻ ngày 24/2/2007). Trên địa bàn tỉnh Bà Rịa- Vũng Tàu, lớp đại học tại chức đầu tiên do Sở Tài chính liên kết với trường ĐH Tài chính kế tóan TP Hồ Chí Minh mở vào năm 1986. Sau đó có một số lớp khác, quy mô nhỏ. Trong 5 năm qua, hình thức liên kết đào tạo đại học tại chức trên địa bàn tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu phát triển mạnh. Từ đó vấn đề quản lý các lớp đào tạo tại chức nhất là các lớp mở tại địa phương trở nên cấp thiết. Trong những năm gần đây, đã có nhiều nhà nghiên cứu lý luận và thực tiễn quan tâm đến vấn đề chất lượng đào tạo đại học, có nhiều bài báo viết về vấn đề này. Tác giả Phạm Thành Nghị đã đề cập đến vấn đề quản lý chất lượng đại học. Tác giả Nguyễn Cảnh Toàn đã có bài viết về vấn đề quản lý đào tạo từ xa. Các nhà nghiên cứu đã nêu lên nhiều phương hướng cải tiến nội dung và phương pháp dạy học và không ngừng cải tiến công tác quản lý để từ đó nâng cao chất lượng đào tạo. Tuy nhiên, các tác giả chỉ nêu các biện pháp chung chưa nêu các biện pháp quản lý đối với các lớp đại học tại chức liên kết mở tại các địa phương. Tác giả Lâm Quang Thiệp (nguyên Vụ trưởng vụ Đại học- Bộ GD & ĐT) có bài: “Một số giải pháp nhằm đảm bảo chất lượng cho hệ thống giáo dục đại học” [9, tr.79] trong đó đề cập đến một số giải pháp về tổ chức, quản lý chất lượng giáo dục đại học chính quy và không chính quy. Tác giả Mai Lan (Báo Sài Gòn giải phóng, ngày 16/12/2006) có bài: “Học tại chức- Mục đích gì?” đề cập đến vấn đề chương trình đào tạo, cách thức tổ chức đào tạo đại học tại chức và đề nghị phải thiết kế lại tòan bộ hệ thống “vừa học vừa làm”. Tác giả Trần Duy Hiệp ở trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật Nam Định có bài “Vừa học vừa làm” (Báo Giáo dục và thời đại, số Xuân Đinh Hợi), nêu một số ý kiến về chủ trương, cách nhìn nhận, đánh giá đối với hình thức đào tạo đại học vừa học vừa làm. Tuy vậy, đến nay vẫn chưa có công trình nghiên cứu nào về vấn đề quản lý các lớp liên kết đào tạo đại học tại chức tại tỉnh Bà Rịa- Vũng Tàu. 1.2. Đào tạo đại học tại chức 1.2.1 Khái niệm 1.2.1.1. Đào tạo Theo Từ điển tiếng Việt của Viện Ngôn ngữ học- Nhà xuất bản Đà Nẵng năm 2003: Đào tạo là làm cho trở thành người có năng lực theo những tiêu chuẩn nhất định. Theo Từ điển Giáo dục học- Nhà xuất bản Từ điển Bách khoa- Hà Nội năm 2001 thì đào tạo có hai nghĩa: 1) Là quá trình chuyển giao có hệ thống, có phương pháp những tri thức, những kỹ năng, kỹ xảo nghề nghiệp chuyên môn, đồng thời bồi dưỡng những phẩm chất đạo đức cần thiết và chuẩn bị tâm thế cho người học đi vào cuộc sống lao động tự lập và góp phần xây dựng và bảo vệ đất nước. Hình thức tổ chức đào tạo cơ bản là các cơ sở giáo dục trong hệ thống giáo dục quốc dân, ngòai ra còn có các hình thức đào tạo thường xuyên ngày càng được mở rộng như đào tạo tại chức, đào tạo từ xa, tự học có hướng dẫn nhằm đáp ứng như cầu đa dạng của xã hội. Ngày nay đào tạo không còn là quá trình chuyển giao một chiều, mà còn bằng các phương tiện dạy học hiện đại, các cơ đào tạo đang dần dần tiến tới hợp tác song phương với người học để giúp họ chủ động, tích cực, tự giác chiếm lĩnh tri thức, trang bị kiến thức nghề nghiệp chuyên môn. Đó là quá trình đào tạo được chuyển thành quá trình tự đào tạo của người học. Chỉ khi nào đạt được sự chuyển biến như vậy thì hiệu quả đào tạo mới cao và mới có lợi ích thiết thực cho bản thân và cho xã hội. Ở nước ta trình độ đào tạo được chia thành các bậc: Công nhân từ bậc 1 đến bậc 7) , Trung cấp (Trung cấp chuyên nghiệp, Trung cấp nghề), Cao đẳng, Đại học và sau Đại học (Thạc sỹ, Tiến sỹ). 2) Cách tiến hành hỗ trợ, bồi dưỡng nhằm nâng cao năng lực phẩm chất phù hợp với nhu cầu đòi hỏi của cơ quan, tổ chức. 1.2.1.2. Đào tạo đại học Đào tạo đại học là hình thức đào tạo được thực hiện từ 4 đến 6 năm học tùy theo ngành nghề đào tạo đối với những người đã có bằng tốt nghiệp Trung học phổ thông hoặc bằng tốt nghiệp Trung cấp; từ 2,5 năm đến 4 năm đối với người có bằng Trung cấp cùng chuyên ngành; từ 1,5 năm đến 2 năm đối với người có bằng Cao đẳng cùng chuyên ngành. Theo Luật Giáo dục năm 2005, mục tiêu của giáo dục đại học là: “Đào tạo người lao động có phẩm chất chính trị, đạo đức, có ý thức phục vụ nhân dân, có kiến thức và năng lực thực hành nghề nghiệp tương xứng với trình độ đào tạo, có sức khỏe đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc” [4, tr.29-30]. 1.2.1.3. Đào tạo đại học tại chức Theo Từ điển Giáo dục học- Nhà xuất bản Từ điển Bách khoa- Hà Nội năm 2001, đào tạo tại chức là phương thức đào tạo dành cho những người đang làm việc tại cơ quan, xí nghiệp có nhu cầu học tập để đạt tới trình độ học vấn, chuyên môn, nghề nghiệp nhất định dưới các hình thức không tập trung, ngòai giờ hành chính là chủ yếu. Mỗi khóa học thường kéo dài gấp rưỡi thời gian so với khóa học chính quy và do người học nhận tài liệu về tự học là chính, chỉ khi nào cần thiết mới tập trung đến nghe giáo viên giải đáp thắc mắc và phụ đạo. Học viên tại chức phải thi và được cấp bằng tốt nghiệp có giá trị tương đương với cấp học chính quy. Đối tượng tuyển sinh khác với tuyển sinh chính quy: tuyển người đã làm việc hai năm trở lên. Hình thức tổ chức học tập khác với chính quy. 1.2.2. Mục tiêu của đào tạo tại chức Trong đào tạo nói chung và đào tạo đại học tại chức nói riêng, mục tiêu đào tạo có hai lọai là mục tiêu hệ thống và mục tiêu nhân cách. Mục tiêu của hệ thống đào tạo đại học tại chức là góp phần mở rộng quy mô đào tạo đại học tạo điều kiện cho cán bộ công chức và người lao động học tập nâng cao trình độ đáp ứng yêu cầu của công việc hoặc nguyện vọng chuyển đổi nghề nghiệp; góp phần thực hiện phương châm học liên tục, học suốt đời, xây dựng “xã hội học tập”. Mục tiêu nhân cách của đào tạo đại học tại chức cũng như mục tiêu của đào tạo Đại học chính quy tập trung, đó là: “Đào tạo người học có phẩm chất chính trị, đạo đức, có ý thức phục vụ nhân dân, có kiến thức và năng lực thực hành nghề nghiệp tương xứng với trình độ đào tạo, có sức khỏe, đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.” [4, tr.29-30]. Từ mục tiêu chung nói trên, hệ thống đào tạo tại chức phải đào tạo ra những con người năng động, sáng tạo, tự chủ, có óc phê phán, có năng lực giải quyết vấn đề mới nảy sinh, có năng lực tự học, tự nghiên cứu suốt đời, có năng lực tạo nghiệp, tiến thân, lập nghiệp trong thị trường sức lao động. 1.2.3. Chương trình đào tạo đại học tại chức Có thể nói chương trình đào tạo là công cụ để hiện thực hóa mục tiêu đào tạo. Chương trình đào tạo đại học tại chức được xây dựng để thực hiện mục tiêu đào tạo đại học tại chức. Do mục tiêu đào tạo tại chức cũng như đào tạo chính quy nên chương trình đào tạo đại học tại chức cũng giống như chương trình đào tạo chính quy, chương trình này do các trường đại học biên sọan dựa trên chương trình khung do Bộ Giáo dục và Đào tạo quy định. Chương trình được cấu trúc từ các học phần thuộc hai khối kiến thức: giáo dục đại cương và giáo dục chuyên nghiệp. Tuy nhiên do đối tượng đào tạo của đại học tại chức là những người đang làm việc nên trong chương trình đào tạo thường được miễn môn Giáo dục quốc phòng và môn Giáo dục thể chất. Theo ý kiến của tác giả, do đặc điểm đối tượng học viên tại chức và mục tiêu đào tạo, nên chương trình đào tạo tại chức cần có tính thực hành cao, tránh tình trạng nặng về lý thuyết mang tính hàn lâm. Ngòai ra đối với các lớp mở ở địa phương chương trình cần gắn với thực tế của tỉnh. Đối với tỉnh Bà Rịa- Vũng Tàu là tỉnh có thế mạnh về công nghiệp dầu khí, dịch vụ du lịch và thủy sản. Do đó chương trình đào tạo cần gắn với các đặc điểm này để gắn đào tạo với sử dụng, sớm phát huy hiệu quả đào tạo. 1.2.4. Hình thức đào tạo tại chức Hiện nay, có hai lọai hình thức đào tạo đại học tại chức là đào tạo tại trường đại học và liên kết đào tạo tại các địa phương, thường là cách xa nơi trường đóng. Ngành đào tạo tại chức giống như đào tạo đại học chính quy, nhưng các lớp mở ở địa phương chủ yếu là các ngành Kinh tế, Luật, Ngọai ngữ, Sư phạm (những ngành ít sử dụng thiết bị). Khác với đào tạo chính quy tập trung học liên tục, đại học tại chức là hình thức vừa làm vừa học. Có nhiều cách thức tổ chức học tập khác nhau như mỗi quý học một tháng, mỗi tháng học một tuần hoặc học vào thứ bảy, chủ nhật. 1.2.5. Liên kết đào tạo đại học tại chức Là phương thức phối hợp giữa một trường đại học với một cơ sở giáo dục ở địa phương thông qua hợp đồng đào tạo nhằm phát huy năng lực cơ sở vật chất, thiết bị và khả năng quản lý của cơ sở, đưa lớp học gần với học viên, tạo điều kiện thuận lợi cho người học, đào tạo nâng cao trình độ cán bộ, công chức của địa phương, phù hợp với hòan cảnh và điều kiện của học viên. 1.2.6. Các cơ sở giáo dục 1.2.6
Luận văn liên quan