Theo Garry Becker, người Mỹ, đạt giải thưởng Nobel kinh tế năm 1992 thì “Không có đầu tư nào
mang lại nguồn lợi lớn như đầu tư vào nguồn nhân lực, đặc biệt là đầu tư cho giáo dục”. Việc
chuyển đổi cơ chế từ đào tạo học chế học phần kết hợp với niên chế sang đào tạo theo học chế tín
chỉ đòi hỏi có sự tìm hiểu thấu đáo và cần có thời gian tiếp cận và hoàn thiện dần dần, thậm chí
hàng chục năm. Hiệu trưởng trường đại học Harvard Charles Ellilot cho rằng: đào tạo theo tín chỉ là
một khẩu hiệu, hay triết lý riêng của trường để đổi mới về giáo dục khắc phục những yếu kém giáo
dục cũ. Ở Việt Nam đã và đang chuyển đổi để đào tạo theo tín chỉ.
Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ 2 Khóa VIII đã khẳng
định “Giáo dục và đào tạo cùng với khoa học công nghệ là quốc sách hàng đầu, là động lực của quá
trình phát triển”. Từ đó, sau hai mươi năm đổi mới và 5 năm thực hiện chiến lược phát triển giáo
dục năm 2006-2010 đã phát triển rõ về quy mô, loại hình, hình thức đào tạo, cải tiến quy trình,
chương trình đào tạo, và tranh thủ nhiều nguồn lực xã hội. Nhìn chung những thành tựu nói trên
chưa mang tính hệ thống và cơ bản, chỉ số GER đang ở mực thấp. Giáo dục đại học đại chúng: đào
tạo cứng nhắc, thiếu linh hoạt, nặng lý thuyết thiếu thực hành, tư duy chậm đổi mới, chậm hội nhập,
phương pháp dạy và học càng lạc hậu, nặng truyền lý thuyết đặt nhẹ phương pháp học tập, kỹ năng
và thái độ, quy trình đào tạo đóng kín, thiếu mềm dẽo, thiếu liên thông.
117 trang |
Chia sẻ: duongneo | Lượt xem: 3192 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Thực trạng quản lý đào tạo tại trường đại học Trà Vinh, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH
Nguyễn Vĩnh Lợi
THỰC TRẠNG QUẢN LÝ
ĐÀO TẠO TẠI TRƯỜNG ĐẠI HỌC TRÀ VINH
CHUYÊN NGÀNH: QUẢN LÝ GIÁO DỤC
MÃ SỐ: 60 14 05
LUẬN VĂN THẠC SĨ GIÁO DỤC HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. HỒ VĂN LIÊN
Thành Phố Hồ Chí Minh - 2010
LỜI CẢM ƠN
Trước yêu cầu đổi mới mạnh mẽ về quản lý giáo dục đại học của Đảng, Quốc hội, chính phủ, và
nhân dân Việt Nam để nâng chất lượng phục vụ phát triển kinh tế đất nước. Trong bối cảnh đó,
người làm giáo dục khi được trang bị chuyên sâu về học khoa học quản lý giáo dục là một thuận lợi
lớn, đặc biệt hơn là được triển khai nghiên cứu cụ thể khoa học quản lý giáo dục đào tạo đại học
theo hướng đổi mới giáo dục đại học hiện đại chung của cả nước. Với tất cả những điều kiện tốt như
thế đã tạo điều kiện cho tôi học tập nhiều lý luận quản lý giáo dục mới bổ ích cho công tác tại đơn
vị, tôi xin chân tình gởi lời cảm ơn đến:
Ban Giám hiệu, phòng, khoa, và giảng viên tại Trường Đại học Trà Vinh đã tạo điều kiện cho
tôi tham dự và hoàn thành lớp sau đại học về quản lý giáo dục.
Ban Giám hiệu, Phòng Sau Đại học, Khoa Tâm lý- Giáo dục, Giảng viên hướng dẫn sau đại
học trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh.
Xin cảm ơn anh chị cùng lớp học quản lý giáo dục khóa 18, gắn bó trao đổi, giúp đỡ tôi cùng
nhau học tập về lý thuyết và lý luận thực tế quản lý giáo dục.
Các đồng nghiệp và sinh viên thuộc Trường Đại học Trà Vinh đã nhiệt tình hỗ trợ nhân bản
phiếu điều tra, phát và thu hộ phiếu điều tra, cũng như đã tận tình hỗ trợ nhập số liệu từ phiếu
điều tra của bài nghiên cứu vào phần mềm xử lý thống kê SPSS.
Đặc biệt, tôi xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến TS.Hồ Văn Liên đã tận tâm gởi ý đề tài
nghiên cứu, hướng dẫn, chỉ bảo, giúp đỡ tôi hoàn thành luận văn.
Do điều kiện năng lực và thời gian có hạn, luận văn không thể tránh khỏi những thiếu sót. Rất
kính mong nhận được sự đóng góp, chỉ dẫn quý báo của Thầy, Cô, và đồng nghiệp.
Xin chân thành cảm ơn.
TP. Trà Vinh, ngày 05 tháng 08 năm 2010
Nguyễn Vĩnh Lợi
DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CÁC CHỮ VIẾT TẮT
TVU Trường đại học Trà Vinh
PPGD Phương pháp giảng dạy
PPHT Phương pháp học tập
PPDH Phương pháp dạy học
TB Trung bình
ĐLTC độ lệch tiêu chuẩn
TC Trung cấp
CĐ Cao đẳng
ĐH Đại học
THS Thạc sĩ
TS Tiến sĩ
Nxb Nhà xuất bản
GV Giáo viên
SV Sinh viên
TBGV Trung bình giáo viên
TBSV Trung bình sinh viên
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Theo Garry Becker, người Mỹ, đạt giải thưởng Nobel kinh tế năm 1992 thì “Không có đầu tư nào
mang lại nguồn lợi lớn như đầu tư vào nguồn nhân lực, đặc biệt là đầu tư cho giáo dục”. Việc
chuyển đổi cơ chế từ đào tạo học chế học phần kết hợp với niên chế sang đào tạo theo học chế tín
chỉ đòi hỏi có sự tìm hiểu thấu đáo và cần có thời gian tiếp cận và hoàn thiện dần dần, thậm chí
hàng chục năm. Hiệu trưởng trường đại học Harvard Charles Ellilot cho rằng: đào tạo theo tín chỉ là
một khẩu hiệu, hay triết lý riêng của trường để đổi mới về giáo dục khắc phục những yếu kém giáo
dục cũ. Ở Việt Nam đã và đang chuyển đổi để đào tạo theo tín chỉ.
Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ 2 Khóa VIII đã khẳng
định “Giáo dục và đào tạo cùng với khoa học công nghệ là quốc sách hàng đầu, là động lực của quá
trình phát triển”. Từ đó, sau hai mươi năm đổi mới và 5 năm thực hiện chiến lược phát triển giáo
dục năm 2006-2010 đã phát triển rõ về quy mô, loại hình, hình thức đào tạo, cải tiến quy trình,
chương trình đào tạo, và tranh thủ nhiều nguồn lực xã hội. Nhìn chung những thành tựu nói trên
chưa mang tính hệ thống và cơ bản, chỉ số GER đang ở mực thấp. Giáo dục đại học đại chúng: đào
tạo cứng nhắc, thiếu linh hoạt, nặng lý thuyết thiếu thực hành, tư duy chậm đổi mới, chậm hội nhập,
phương pháp dạy và học càng lạc hậu, nặng truyền lý thuyết đặt nhẹ phương pháp học tập, kỹ năng
và thái độ, quy trình đào tạo đóng kín, thiếu mềm dẽo, thiếu liên thông.
Vấn đề đổi mới phương thức đào tạo và quản lý đào tạo theo hướng hiện đại hóa, tin học hóa để
thực hiện một quy trình đào tạo mềm dẻo, lấy người học làm trung tâm. Nghị quyết của chính phủ
số 14/2005/NQ-CP về đổi mới cơ bản và toàn diện giáo dục đại học Việt Nam giai đoạn 2006-2020
đề ra mục tiêu chung “ Đổi mới cơ bản và toàn diện giáo dục đại học, tạo được chuyển biến cơ bản
về chất lượng, hiệu quả và quy mô, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước, hội nhập kinh tế quốc tế và nhu cầu học tập của nhân dân. Đến năm 2020, giáo dục đại
học Việt Nam đạt trình độ tiên tiến trong khu vực và tiếp cận trình độ tiên tiến trên thế giới; có năng
lực cạnh tranh cao, thích ứng với cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”. Trong Nghị
quyết này, chính phủ đã nêu lên nhiệm vụ và giải pháp đổi mới nội dung, phương pháp và quy trình
đào tạo như sau: “Xây dựng và thực hiện lộ trình chuyển sang chế độ đào tạo theo hệ thống tín chỉ,
tạo điều kiện thuận lợi để người học tích lũy kiến thức, chuyển đổi ngành nghề, liên thông, chuyển
tiếp tới các cấp học tiếp theo ở trong nước và ở nước ngoài”. Ngày 2/9/2007 Bộ Giáo dục gởi công
văn số 105/BGDĐT-ĐH&SĐH hướng dẫn thực hiện nhiệm vụ năm học 2007-2008 về giáo dục đại
học đã yêu cầu triển khai tổ chức đào tạo “ Các trường cần xây dựng kế hoạch, lộ trình và tuyên bố
thời điểm chuyển sang đào tạo theo hệ thống tín chỉ, trên cơ sở chuẩn bị đầy đủ các điều kiện về cơ
sở vật chất, năng lực đội ngũ, phương pháp quản lý, tài liệu học tập và thí nghiệm vào cuối năm
2007. Bộ GD&ĐT sẽ kiểm tra việc đảm bảo các điều kiện tiên quyết để triển khai đào tạo theo tín
chỉ ở trường. Trong năm học tới có ít nhất 50 trường chuyển sang tổ chức đào tạo theo hệ thống tín
chỉ”. Ngày 03/10/2008 Bộ Giáo dục ra chỉ thị 56/2008/CT-BGDĐT về nhiệm vụ trọng tâm của giáo
dục đại học năm học 2008-2009 phần tổ chức và quản lý đào tạo có nêu “ Các trường chuẩn bị đủ
các điều kiện cần thiết và lộ trình hợp lý để chuyên sang đào tạo theo hệ thống tín chỉ vào năm học
2009-2010 hoặc muộn nhất là năm học 2010-2011: thiết kế chương trình đào tạo, đội ngũ giảng
viên, giảng đường, phòng thí nghiệm, giáo trình, tài liệu, phần mềm”.
Hiện nay, một số trường đại học ở Việt Nam đã chứng minh được hiệu quả, và chất lượng giáo
dục, cũng như đồng tình của xã hội về đào tạo theo tín chỉ, như là trường đại học Bách Khoa thành
phố Hồ Chí Minh. Đại học Trà Vinh cũng như các trường khác, quyết tâm đổi mới đào tạo theo tín
chỉ trên cơ sở học chế học phần kết hợp với niên chế. Từ nhận định trên, việc tìm hiểu thực trạng
quản lý đào tạo tại trường đại học Trà Vinh, trên cơ sở đó đề xuất các giải pháp đổi mới về giáo dục
theo chủ trương của đảng, nhà nước, và nhu cầu xã hội cho phù hợp là yêu cầu cấp thiết về đề tài
“Thực trạng quản lý đào tạo tại trường đại học Trà Vinh”.
2. Mục đích nghiên cứu
- Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực trạng quản lý đào tạo đề xuất các biện pháp quản lý đào
tạo theo tín chỉ tại trường đại học Trà Vinh.
3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
3.1. Khách thể nghiên cứu
- Công tác quản lý đào tạo tại trường đại học Trà Vinh.
3.2. Đối tượng nghiên cứu
- Thực trạng quản lý đào tạo tại trường đại học Trà Vinh.
4. Giả thuyết khoa học
Việc quản lý đào tạo tại trường đại học Trà Vinh bên cạnh những ưu điểm còn có những hạn chế
về quản lý đội ngũ giảng viên và sinh viên với hoạt động dạy và học, phát triển chương trình đào
tạo, quản lý cơ sở vật chất, phương tiện phục vụ dạy và học
Nếu đánh giá đúng thực trạng quản lý đào tạo tại trường đại học Trà Vinh, thì có thể đề xuất các
giải pháp quản lý đào tạo theo học chế tín chỉ ( học phần triệt để ) phù hợp nhằm tăng cường công
tác quản lý từ đó góp phần nâng cao kết quả đào tạo của trường nhiều hơn nữa.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Hệ thống hóa cơ sở lý luận về quản lý đào tạo, và quản lý đào tạo theo tín chỉ.
- Khảo sát thực trạng về quản lý đạo tạo tại trường đại học Trà Vinh.
- Đề xuất các biện pháp quản lý đào tạo theo tín chỉ tại trường đại học Trà Vinh.
6. Giới hạn và phạm vi nghiên cứu
- Khảo sát thực trạng công tác quản lý đào tạo đại học hệ chính qui, năm học 2009-2010 (sinh
viên năm thứ 2 và 3) tại trường đại học Trà Vinh.
7. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
7.1. Cơ sở phương pháp luận
- Quan điểm hệ thống- cấu trúc
Tiếp cận quan điểm hệ thống-cấu trúc trong nghiên cứu quản lý đào tạo là xem xét các mối quan
hệ biện chứng của các thành tố: mục tiêu, chương trình, phương pháp, phương tiện, hình thức tổ
chức đào tạo; mối quan hệ giữa dạy và học, giảng viên và sinh viên cùng với các hoạt động quản lý
đào tạo ở trường ĐH Trà Vinh.
- Quan điểm lịch sử- logic
Muốn nhận thức đúng sự vật hoặc hiện tượng, phải nắm được lịch sử của sự vật. Hay là, xem xét
quá trình phát sinh, phát triển, và hiện nay của nó ra sao?. Như vậy, phải tìm hiểu, phát hiện sự nảy
sinh, phát triển của quá trình đào tạo và quản lý đào tạo ở đại học Trà Vinh.
- Quan điểm thực tiễn
Nghiên cứu quản lý đào tạo ở trường ĐH Trà Vinh cần phải xuất phát từ thực tiễn để tìm ra
những ưu điểm, hạn chế, thuận lợi và khó khăn, những vấn đề nổi cộm, cấp thiết, phát hiện nguyên
nhân để giải quyết nhằm cải thiện thực trạng và đề xuất các biện pháp quản lý đào tạo theo tín chỉ
phù hợp với thực tiễn ở đại học Trà Vinh.
7.2. Phương pháp nghiên cứu
7.2.1. Phương pháp nghiên cứu lý thuyết
Phân tích, tổng hợp, phân loại và hệ thống hóa tài liệu.
7.2.2. Phương pháp nghiên cứu thực tiễn
Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi.
Bảng hỏi dành cho các đối tượng (phần phụ lục):
- 200 SV năm thứ 3, 100 SV năm thứ 2,
- 76 cán bộ quản lý, 75 giảng viên và 42 chuyên viên.
Các phương pháp bổ trợ: ý kiến chuyên gia, nghiên cứu sản phẩm hoạt động.
7.2.3. Phương pháp thống kê
Dùng phần mềm SPSS for Windows xử lý số liệu, tính trị trung bình, độ lệch chuẩn.
Chương 1
CỞ SỞ LÝ LUẬN CỦA VẤN ĐỀ QUẢN LÝ ĐÀO TẠO ĐẠI HỌC
1.1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
1.1.1. Nước ngoài
Các nước trên thế giới đều có cơ quan nhà nước cao nhất chịu trách nhiệm quản lý giáo dục. Tùy
vào cơ chế quản lý giáo dục mà cơ quan quản lý giáo dục cao nhất có những ảnh hưởng nhiều hay ít
đến quyền tự chủ và tự chịu trách nhiệm của các trường đại học. Những nước theo cơ chế tập trung,
trước khi đổi mới đại học đã từng có một hệ thống quản lý trực tiếp chặt chẽ về nhiều mặt từ cơ
quan quản lý cao nhất trở xuống, thực tế đã gây nhiều trì trệ, làm giảm tính năng động của các
trường đại học, đặc biệt trong điều kiện nền kinh tế thị trường luôn luôn chuyển đổi, và khi có biến
động lớn. Cho nên, quản lý đại học ngày nay có xu hướng tăng cường quyền tự chủ và tự chịu trách
nhiệm của các trường đại học.
Quản lý giáo dục bằng pháp luật là một đặc trưng chung của tất cả các nước trên thế giới. Như ở
Mỹ, dưới thời tống thống Mỹ A.Lincoln đạo luật Morrill đã ra đời quy định cấp đất công cho các
bang để xây dựng các trường đại học khác với các quan niệm giáo dục đại học truyền thống của
châu Âu có từ thời trung cổ. Các trường đại học mới theo đạo luật này có các ngành nghề đào tạo
phải gắn chặt với sự phát triển sản xuất, kinh tế, xã hội. Ở Hàn Quốc, Luật giáo dục có quan tâm
đến việc quản lý các hoạt động giáo dục, tổ chức và chỉ đạo công tác kiểm định các trường đại
học:
Thực tế cho thấy các nước có hệ thống giáo dục được xem là tốt nhất trên thế giới đều là những
nước có trình độ phát triển kinh tế- xã hội và chỉ số phát triển con người cao, đây là những nước đạt
trình độ phổ cập giáo dục cao và có hệ thống giáo dục đại học phát triển mạnh. Do đó, hiện nay các
quốc gia luôn coi trọng việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống giáo dục quốc dân để đáp ứng nhu cầu
ngày càng cao về nâng cao trình độ dân trí, phát triển nguồn nhân lực và nhu cầu giáo dục của các
tầng lớp trong xã hội.
Các cơ sở giáo dục đại học thực hiện quốc tế hóa các chương trình đào tạo thì tất cả những hình
thức liên kết đào tạo và nghiên cứu đều hướng tới các quy trình bảo đảm chất lượng quốc tế.
Một số hoạt động thúc đẩy hội nhập giáo dục đại học của UNESCO như là:
- Hội đồng quốc tế về Giáo dục cho thế kỷ XXI (Hội đồng Jacques Delors) với kết quả tích tụ
trong tác phẩm “Học tập - một kho báu tiềm ẩn” (Learning: The Treasure Within)
- Hội nghị Thế giới về giáo dục đại học thế kỷ XXI, Paris tháng 10/1998
- Các hoạt động thúc đẩy hội nhập giáo dục đại học của Liên minh Châu Âu
Tuyên ngôn Bologna (6/1999): của 29 Bộ trưởng giáo dục đại học nhằm thiết lập “Không gian
giáo dục đại học châu Âu” (the European Higher Education Area) vào 2010.
- Các biện pháp để tiến đến “Không gian giáo dục đại học châu Âu” tập trung giải quyết các vấn
đề như là:
Hệ thống văn bằng,
Học chế tín chỉ,
Tháo gỡ mọi rào cản cho sinh viên, giáo chức,
Hệ thống đảm bảo và kiểm định công nhận chất lượng
Thực chất của quá trình Bologna là: nền giáo dục đại học tương đồng với Mỹ, mang thương hiệu
EU, để tăng khả năng cạnh tranh.
- Đồng tuyên ngôn của một số tổ chức giáo dục đại học chủ chốt của phương Tây khẳng định:
+ Các trường đại học cam kết giảm cản trở đối với thương mại quốc tế về giáo dục đại học bằng
cách sử dụng các công ước và thỏa thuận bên ngoài thể chế chính sách thương mại. Cam kết đó bao
gồm tăng cường giao tiếp, mở rộng trao đổi thông tin, phát triển thỏa thuận về các trường, các
chương trình, văn bằng, trình độ, việc xem xét chất lượng.
+ Các quốc gia không nên cam kết về các dịch vụ giáo dục đại học hoặc các phạm trù tương tự
đối với giáo dục người lớn và giáo dục khác trong khuôn khổ của GATS
Thông báo của UNESCO về phản ứng của một số nước đối với GATS:
- Ủng hộ GATS:
1) Trao đổi giáo dục đại học gia tăng vì thêm nhiều nhà cung cấp và thể thức cung cấp mới;
2) Tăng số sinh viên được hưởng giáo dục đại học;
3) Tăng lợi ích về kinh tế cho người cung cấp giáo dục đại học và đất nước.
- Phản đối GATS:
1) Đe dọa vai trò và trách nhiệm của Chính phủ về giáo dục đại học;
2) Làm đi chệch quan niệm giáo dục đại học là “public good” (lợi ích công);
3) Đe dọa chất lượng giáo dục đại học;
4) Thương mại và lợi ích kinh tế làm méo mó chính sách giáo dục đại học.
- UNESCO khẳng định:
Thương mại giáo dục là một thực tế, nhưng giáo dục đại học không thể mua bán như các hàng
hóa khác. Chính phủ và các trường đại học không thể từ bỏ quan niệm giáo dục đại học là một
“public good” và mục tiêu cuối cùng là “global public good” (lợi ích công toàn cầu).
Hệ thống đào tạo theo tín chỉ ngày nay đã trở thành phổ biến như một đơn vị đo lường quá trình
học tập trong giáo dục đại học Hoa Kỳ; nó được dùng để:
Phân bổ kinh phí,
Tính toán kết quả của việc học tập
Phân công công việc,
Bảo đảm chất lượng.
Có hai mốc phát triển chính:
1). Một chương trình đào tạo bậc đại học được quy định toàn bộ cùng với những môn học
bổ sung mà mỗi sinh viên đều có quyền lựa chọn. Cần “tính toán” hoạt động giảng dạy trong những
giới hạn tiêu chuẩn của một môi trường mà mỗi sinh viên có thể bắt tay vào việc học tập qua con
đường riêng của mình (Harvard, 1870)
2). Vì các trường trung học khác nhau khá nhiều (ngày nay cũng vẫn vậy), cần phải có một
đơn vị tiêu chuẩn để bảo đảm rằng những em sinh viên bước vào bậc đại học về đại thể có cùng
trình độ. Do vậy sự mở rộng đồng thời đường vào đại học cũng đòi hỏi phải hợp lý hóa các tiêu
chuẩn tuyển sinh đại học.
Đổi mới triết lý về giáo dục TK XXI đã được UNESCO nêu ra là:
- Học thường xuyên suốt đời,
- 4 mục tiêu của việc học (học để biết, học để làm, học để chung sống và học cách sống với người
khác, học để khẳng định mình),
- Xã hội học tập,
Xu thế đại chúng hóa, thị trường hóa, đa dạng hóa, và quốc tế hóa giáo dục đại học
1.1.2. Ở Việt Nam
Từ khi Việt Nam có trường đại học đầu tiên đến nay nền giáo dục đại học Việt Nam có thể thấy
ảnh hưởng của ba mô hình giáo dục đại học: Liên Xô, Pháp, Mỹ. Riêng về kinh tế, ảnh hưởng mạnh
nhất đến giáo dục đại học là kinh tế kế hoạch hóa tập trung, và kinh tế thị trường theo định hướng
xã hội chủ nghĩa.
Năm 1076 dưới thời nhà Lý, thành lập Quốc Tử Giám, được đánh dấu trường đại học đầu tiên
Việt Nam theo mô hình phương Đông, cho đến năm 1904, thành lập trường Cao đẳng Y khoa thì
mô hình giáo dục đại học phương Tây được du nhập từ Pháp vào Việt Nam.
Năm 1954 đến 1975 ở miền Bắc, các trường đại học đơn lĩnh vực hoặc đơn ngành theo mô hình
giáo dục của Liên Xô cũ với cơ chế kinh tế kế hoạch hóa tập trung. Quản lý đào tạo theo niên chế,
chương trình đào tạo đại học đầy đủ thường từ 4 đến 6 năm học liền một mạch, ngành đào tạo hẹp,
chuyên sâu vào năm cuối.
Ở miền Nam, một phần giáo dục đại học theo mô hình giáo dục của Pháp (như Viện Đại học Sài
Gòn), một phần giáo dục đại học còn lại chịu ảnh hưởng mô hình giáo dục của Mỹ (như Viện Đại
học Cần Thơ). Quản lý đào tạo theo chứng chỉ tích lũy mô- đun; ghi danh học tự do, thi đạt yêu cầu
mỗi mô- đun thì cấp một chứng chỉ hoặc đào tạo theo tín chỉ; để đạt được bằng cấp thường phải tích
lũy đủ số tín chỉ.
Năm 1975 đến 1986, hệ thống giáo dục đại học cả nước xây dựng theo mô hình giáo dục của
Liên Xô cũ.
Năm 1987, Việt Nam thực hiện đổi mới giáo dục đại học cho phù hợp với nền kinh tế thị trường
và hội nhập quốc tế.
Giáo dục đại học cả nước năm 1986 đến nay, quản lý đào tạo theo học phần kết hợp với niên chế
(tín chỉ không triệt để); khối lượng học tập tính theo đơn vị học trình (15 tiết/1 đvht).
Nhìn lại các chủ trương đổi mới GDĐH nước ta từ góc độ “hội nhập”:
Có sự tương đồng của đổi mới giáo dục đại học nước ta từ 1987 với “quá trình Bologna” từ năm
1999 đến nay:
- Cơ cấu hệ thống giáo dục đại học
- Quy trình đào tạo môđun hóa (quy định đơn vị học trình của ta về định lượng rất gần với tín chỉ
của EU)
- Xây dựng hệ thống đảm chất lượng và kiểm định công nhận chất lượng (Các chủ trương đổi
mới giáo dục đại học của ta trùng hợp với 4 trong 6 điểm của các biện pháp Bologna)
Vì sao có sự tương đồng? Phải chăng và cả hai có mục đích gần giống nhau: tạo dựng một nền
giáo dục đại học mạnh để chuẩn bị nhân lực thích hợp cho một nền kinh tế thị trường đầy thách
thức.
Sự tương đồng đó cho thấy là chúng ta đã “đổi mới” đúng hướng để sớm đạt được mục tiêu đề ra.
Sự tương đồng tạo thuận lợi để giáo dục đại học nước ta “hội nhập” với không gian giáo dục đại
học châu Âu và giáo dục đại học thế giới.
Khác nhau ở chỗ: ở nước ta thực hiện chưa triệt để việc đào tạo theo tín chỉ là vì nhiều lý do;
trong đó là sự hạn chế về cơ sở vật chất, phương tiện đào tạo, người dạy, người học và tài chính.
Tiến bộ nhảy vọt của khoa học công nghệ, đặc biệt công nghệ thông tin và truyền thông, nhân
loại bước đầu quá độ sang nền kinh tế tri thức, xu thế toàn cầu hóa.
Chiến lược phát triển KT-XH:
- 2010 ra khỏi tình trạng kém phát triển,
- 2020: trở thành nước công nghiệp,
- Công nghiệp hóa- hiện đại hóa, từng bước phát triển kinh tế dựa vào tri thức,
- Giáo dục- Đào tạo là quốc sách hàng đầu.
Bên cạnh những thành quả to lớn về kinh tế- xã hội của Việt Nam thời gian vừa qua; tuy nhiên
còn nhiều bất cập như: chậm chuyển biến về chất lượng tăng trưởng, hiệu quả và sức cạnh tranh
thấp.
Chủ trương của Việt Nam là “chuyển các hoạt động sự nghiệp công ích sang cơ chế dịch vụ phù
hợp với kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”
Cơ hội, thách thức đối với hệ thống giáo dục đại học của Việt Nam và sự bức thiết phải
đổi mới:
Cơ hội:
- Công nghệ thông tin- truyền thông giúp tiếp cận với các nguồn thông tin và tri thức khổng lồ;
- Học tập kinh nghiệm phát triển giáo dục đại học thế giới.
- Đảng và dân rất quan tâm đến giáo dục đại học;
- Tiềm năng nguồn lực trong xã hội tăng hơn trước.
Thách thức:
- Khoảng cách giữa ta và các nước phát triển tăng;
- Thất thoát chất xám;
- Phai nhạt bản sắc dân tộc.
- Cản trở công cuộc công nghiệp hóa – hiện đại hóa và l