Thế kỷ XXI đã được khởi đầu bởi sự bùng nổ của tri thức, khoa học và công nghệ. Toàn cầu hóa,
CNTT và công nghệ sinh học, nền kinh tế tri thức đang làm thay đổi mọi lĩnh vực hoạt động của con
người.
Các tri thức đang thâm nhập vào mọi mặt của cuộc sống. Các bước ngoặt lớn trong quá trình phát
triển của xã hội loài người đang được đánh dấu bằng những tri thức mới. Nền kinh tế của mỗi quốc gia có
thịnh vượng hay không phụ thuộc vào việc sử dụng tài sản trí tuệ và các nguồn lực khoa học, công nghệ.
Sự phát triển nhanh chóng của kinh tế - xã hội, những nhu cầu về nguồn lực lao động có trình độ cao
đòi hỏi GD phải thay đổi. GD phải tập trung vào con người và sự phát triển của con người. Ở mỗi quốc
gia, xã hội đang đòi hỏi một hệ thống GD mới với nội dung GD và phương pháp GD phù hợp, thích nghi
được với môi trường xã hội luôn thay đổi nhanh chóng.
Sự bùng nổ của CNTT nói riêng và khoa học công nghệ nói chung đang tác động mạnh mẽ vào sự
phát triển của tất cả các ngành trong đời sống xã hội. Trong bối cảnh đó, nếu muốn nền GD phổ thông đáp
ứng được đòi hỏi cấp thiết của công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; nếu muốn việc dạy học
theo kịp cuộc sống, chúng ta nhất thiết phải cải cách phương pháp dạy học theo hướng vận dụng CNTT và
các thiết bị dạy học hiện đại, phát huy mạnh mẽ tư duy sáng tạo, kỹ năng thực hành và hứng thú học tập
của HS để nâng cao chất lượng đào tạo. Không chỉ đối với GV mà HS cũng phải biết tiếp cận nguồn thông
tin to lớn luôn được xử lý hiệu quả với máy tính và mạng internet.
91 trang |
Chia sẻ: duongneo | Lượt xem: 1683 | Lượt tải: 6
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Thực trạng quản lý ứng dụng công nghệ thông tin vào dạy các môn khoa học tự nhiên ở một số trường trung học phổ thông tại thành phố Cần Thơ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Võ Minh Lợi
THỰC TRẠNG QUẢN LÝ ỨNG DỤNG
CÔNG NGHỆ THÔNG TIN VÀO DẠY CÁC
MÔN KHOA HỌC TỰ NHIÊN Ở MỘT SỐ
TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
TẠI THÀNH PHỐ CẦN THƠ
Chuyên ngành: Quản lý Giáo dục
Mã số: 60 14 05
LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ GIÁO DỤC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS. TS. ĐOÀN VĂN ĐIỀU
Thành phố Hồ Chí Minh – 2010
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
CBQL : Cán bộ quản lý
CNTT : Công nghệ thông tin
CSVC : Cơ sở vật chất
ĐLTC : Độ lệch tiêu chuẩn
GD&ĐT : Giáo dục và Đào tạo
GV : Giáo viên
HS : Học sinh
HT : Hiệu trưởng
KHTN : Khoa học tự nhiên
N : Số khách thể tham gia nghiên cứu
PHT : Phó Hiệu trưởng
QL : Quản lý
TB : Trung bình cộng
THPT : Trung học phổ thông
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài.
Thế kỷ XXI đã được khởi đầu bởi sự bùng nổ của tri thức, khoa học và công nghệ. Toàn cầu hóa,
CNTT và công nghệ sinh học, nền kinh tế tri thức đang làm thay đổi mọi lĩnh vực hoạt động của con
người.
Các tri thức đang thâm nhập vào mọi mặt của cuộc sống. Các bước ngoặt lớn trong quá trình phát
triển của xã hội loài người đang được đánh dấu bằng những tri thức mới. Nền kinh tế của mỗi quốc gia có
thịnh vượng hay không phụ thuộc vào việc sử dụng tài sản trí tuệ và các nguồn lực khoa học, công nghệ.
Sự phát triển nhanh chóng của kinh tế - xã hội, những nhu cầu về nguồn lực lao động có trình độ cao
đòi hỏi GD phải thay đổi. GD phải tập trung vào con người và sự phát triển của con người. Ở mỗi quốc
gia, xã hội đang đòi hỏi một hệ thống GD mới với nội dung GD và phương pháp GD phù hợp, thích nghi
được với môi trường xã hội luôn thay đổi nhanh chóng.
Sự bùng nổ của CNTT nói riêng và khoa học công nghệ nói chung đang tác động mạnh mẽ vào sự
phát triển của tất cả các ngành trong đời sống xã hội. Trong bối cảnh đó, nếu muốn nền GD phổ thông đáp
ứng được đòi hỏi cấp thiết của công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; nếu muốn việc dạy học
theo kịp cuộc sống, chúng ta nhất thiết phải cải cách phương pháp dạy học theo hướng vận dụng CNTT và
các thiết bị dạy học hiện đại, phát huy mạnh mẽ tư duy sáng tạo, kỹ năng thực hành và hứng thú học tập
của HS để nâng cao chất lượng đào tạo. Không chỉ đối với GV mà HS cũng phải biết tiếp cận nguồn thông
tin to lớn luôn được xử lý hiệu quả với máy tính và mạng internet.
Ứng dụng CNTT vào dạy học là một trong những mục tiêu lớn được ngành GD đặt ra trong giai đoạn
hiện nay và là một mục tiêu chính đã được nghị quyết TW2, khóa VIII chỉ ra rất rõ ràng cụ thể:
"Đổi mới mạnh mẽ phương pháp giáo dục - đào tạo, khắc phục lối truyền thụ một chiều, rèn luyện
thành nếp tư duy sáng tạo của người học. Từng bước áp dụng các phương pháp tiên tiến và phương tiện
vào quá trình dạy và học, bảo đảm điều kiện và thời gian tự học, tự nghiên cứu của HSPhát triển mạnh
phong trào tự học, tự đào tạo thường xuyên và rộng khắp trong toàn dân, nhất là thanh niên".
CNTT và truyền thông với công nghệ multimedia, internet, đã và đang làm thay đổi cách thức dạy
và học với các phương châm mới về dạy học.
Sau một thời gian khởi động khá dài, ngành GD Việt Nam đã bắt đầu chủ trương đẩy mạnh ứng dụng
CNTT vào giáo dục với sự kiện năm học 2008-2009 được Bộ GD&ĐT chọn là “Năm học đẩy mạnh ứng
dụng CNTT”. Sự kiện này đã làm cho việc đưa CNTT vào trường học trở thành một nhiệm vụ trọng
tâm và thường xuyên của ngành GD.
Ngày nay, máy tính và mạng internet đã có mặt ở hầu hết trường THPT. Nhiều phần mềm dạy học
được đưa vào sử dụng, cánh cửa đi vào tri thức của nhân loại được mở rộng thông qua internet đã phần
nào xóa đi khoảng cách giữa các trường ở trung tâm thành phố và các trường ở vùng nông thôn nói riêng,
giữa các trường học ở Việt Nam và các trường học trên thế giới nói chung.
Trong bối cảnh đó, ngành GD thành phố Cần Thơ đã chỉ đạo các trường THPT trong thành phố ứng
dụng CNTT vào dạy và học từ những năm đầu của thế kỷ 21. Việc quản lý ứng dụng CNTT vào dạy các
môn học của HT các trường THPT thuộc thành phố Cần Thơ đã đạt một số thành tựu. Số lượng bài giảng
có sử dụng CNTT tăng về số lượng, chất lượng, được các trường cải tiến, cập nhật thường xuyên. Công
tác quản lý về mặt chuyên môn, CSVC có nhiều tiến bộ. CSVC được trang bị ngày càng nhiều Tuy
nhiên vẫn còn một số bất cập như: tiêu chí đánh giá chất lượng của một bài giảng có ứng dụng CNTT
chưa nhất quán, mỗi đơn vị có một cách đánh giá riêng. Thậm chí, có hiện tượng lạm dụng CNTT, sử
dụng các thí nghiệm ảo để thay thế cho thí nghiệm thực hành. Một số đơn vị còn lúng túng trong việc xử
lý thông tin như: lưu trữ, phổ biến Đặc biệt, chưa tận dụng được thế mạnh của CNTT đang tạo ra một
môi trường dạy đặc biệt là môi trường mạng Nhìn chung, tính hiệu quả của công tác quản lý ứng dụng
CNTT vào dạy các môn học của HT các trường THPT tại thành phố Cần Thơ vẫn chưa cao. Thực tiễn GD
đang đòi hỏi HT các trường THPT cần phải có những cải tiến, đổi mới về công tác quản lý sao cho phù
hợp với đặc điểm của các môn KHTN và khoa học xã hội để việc ứng dụng CNTT thực sự đáp ứng được
nhu cầu của GD thành phố, thực hiện đúng chỉ đạo của Bộ GD&ĐT. Vì vậy, trong khả năng giới hạn của
mình, tôi chọn đề tài “Thực trạng quản lý ứng dụng công nghệ thông tin vào dạy các môn khoa học tự
nhiên ở một số trường THPT tại thành phố Cần Thơ”.
2. Mục đích nghiên cứu.
Trên cơ sở khảo sát thực trạng công tác quản lý ứng dụng CNTT vào dạy các môn KHTN bậc THPT
của một số trường THPT tại thành phố Cần Thơ hiện nay; đề tài đề xuất một số biện pháp nhằm góp phần
nâng cao hiệu quả của công tác quản lý của HT các trường THPT về lĩnh vực này.
3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu.
3.1 Khách thể nghiên cứu.
Công tác quản lý trường học của HT trường THPT tại thành phố Cần Thơ.
3.2 Đối tượng nghiên cứu.
Công tác quản lý việc ứng dụng CNTT vào dạy các môn KHTN ở một số trường THPT tại thành phố
Cần Thơ.
4. Giả thuyết khoa học.
Việc quản lý ứng dụng CNTT vào dạy các môn KHTN của HT các trường THPT thuộc thành phố
Cần Thơ đã đạt một số thành tựu. Nếu thực hiện quản lý dựa trên các tiêu chí và theo hệ thống thì chất
lượng dạy có ứng dụng CNTT của các môn KHTN được nâng cao.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu.
- Thiết lập cơ sở lý luận của đề tài.
- Khảo sát thực trạng công tác quản lý ứng dụng CNTT vào dạy học các môn KHTN của HT ở một
số trường THPT tại thành phố Cần Thơ
- Đề xuất một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả quản lý việc ứng dụng CNTT vào dạy học các
môn KHTN bậc THPT tại thành phố Cần Thơ.
6. Phương pháp nghiên cứu.
6.1. Phương pháp luận.
6.1.1 Quan điểm hệ thống – cấu trúc.
Công tác quản lý nhà trường là một hệ thống gồm nhiều thành tố, trong đó công tác quản lý việc ứng
dụng CNTT vào dạy các môn KHTN là một thành tố của hệ thống này. Chúng có mối quan hệ hỗ tương
với nhau.
6.1.2 Quan điểm lịch sử - logic.
Việc quản lý ứng dụng CNTT vào dạy các môn KHTN được tiến hành trong một phạm vi không
gian, thời gian và điều kiện, hoàn cảnh cụ thể và có tính kế thừa các lĩnh vực quản lý trước đây và sẽ tiếp
tục phát triển, thay đổi trong tương lai.
6.1.3 Quan điểm thực tiễn.
Việc ứng dụng CNTT vào dạy các môn KHTN ở các trường THPT tại thành phố Cần Thơ là một
hiện tượng đang xảy ra. Việc nghiên cứu trên các đối tượng có liên quan nhằm nắm được thực trạng, từ
đó, dựa vào những cơ sở lý luận khoa học để đề xuất một số biện pháp nhằm góp phần nâng cao chất
lượng công tác quản lý của HT trường THPT về lĩnh vực này.
6.2 Phương pháp nghiên cứu.
6.2.1. Nhóm các phương pháp nghiên cứu lý luận.
- Phân tích, tổng hợp lý thuyết.
- Phân loại, hệ thống hóa lý thuyết, nghiên cứu các văn bản chỉ đạo của các cấp quản lý từ trung
ương đến địa phương; sách, báo và tạp chí; báo cáo tổng kết năm học của các trường THPT, của Sở
GD&ĐT để nhận định, đánh giá về thực trạng công tác quản lý ứng dụng CNTT vào dạy các môn KHTN
bậc THPT, xây dựng cơ sở pháp lý và lý luận của đề tài.
6.2.2 Nhóm các phương pháp nghiên cứu thực tiễn.
6.2.2.2 Phương pháp quan sát.
Quan sát hoạt động quản lý việc ứng dụng CNTT vào dạy của HT và hoạt động dạy của GV các môn
KHTN.
6.2.2.1 Phương pháp điều tra.
Dùng phiếu hỏi để lấy ý kiến của CBQL (HT, PHT), GV về các nội dung có liên quan đến việc quản lý
ứng dụng CNTT vào dạy các môn KHTN bậc THPT.
6.2.2.3 Phương pháp phỏng vấn.
Trao đổi trực tiếp với lãnh đạo, chuyên viên của Sở GD&ĐT; HT, PHT, tổ trưởng tổ chuyên môn, GV,
HS để thu thập dữ liệu cho đề tài.
6.3 Phương pháp thống kê ứng dụng trong nghiên cứu khoa học xã hội và GD để xử lý số liệu
bằng phần mềm thống kê SPSS for Windows.
Sử dụng toán thống kê để xử lý số liệu điều tra.
7. Giới hạn của đề tài.
Thành phố Cần Thơ hiện có 22 trường THPT (trong đó có 1 trường THPT chuyên, 19 trường THPT
công lập, 1 trường tư thục, 1 trường nhiều cấp học). Do khả năng có giới hạn của người nghiên cứu và
thời gian nghiên cứu, đề tài chỉ khảo sát về quản lý ứng dụng CNTT vào dạy các môn KHTN của HT.
Đối tượng của nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn là một số lãnh đạo, trưởng phòng, phó trưởng
phòng, chuyên viên Sở GD&ĐT; một số HT, PHT phụ trách chuyên môn, tổ trưởng chuyên môn, GV, HS
ở 01 trường THPT chuyên và chọn ngẫu nhiên 9 trường THPT công lập trong thành phố Cần Thơ.
NỘI DUNG
CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU
1.1. Cơ sở lý luận của đề tài.
1.1.1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề.
Hoạt động dạy là hoạt động trung tâm của nhà trường phổ thông. Đổi mới phương pháp dạy bằng
CNTT là một chủ đề lớn đã được UNESCO chính thức đưa ra thành chương trình trước ngưỡng cửa của
thế kỷ XXI.
Từ sau những năm 1980, với sự xuất hiện của nền kinh tế tri thức, hình thành xã hội thông tin và xu
thế toàn cầu hóa đã tạo nên “một làn sóng đổi mới cải cách GD trên thế giới lần thứ ba” [13, tr 14]. Các
nước trên thế giới trong chiến lược, mục tiêu GD của mình đều chú trọng đến việc ứng dụng CNTT vào
GD phổ thông nhằm tạo sự bình đẳng về cơ hội học tập, tìm kiếm các giải pháp GD dành cho những nhóm
dân cư đặc biệt. Hướng ưu tiên chủ yếu là cung cấp dịch vụ thông tin quản lý và học tập dựa vào CNTT
hiện đại (mạng tri thức- knowledge networks, mạng GD – education webs; học tập trực tuyến – online
learning, học từ xa qua các phương tiện viễn thông –TV, vệ tinh, internet, thư viện điện tử (electronic
libraries)).
Người ta đã kết luận rằng: nếu không phát triển công nghệ mạng và internet thì không thể tiến tới xã
hội học tập và nền kinh tế tri thức bởi vì mạng thông tin toàn cầu chứa đựng những nguồn tri thức khổng
lồ, vô cùng đa dạng và mới mẻ nhất. Không có công cụ nào hỗ trợ mạnh và nhanh chóng hơn công nghệ
mạng và internet trong sự phát triển quy mô và hiệu quả GD ngày nay.
Bước vào thế kỷ XXI, CNTT đang tạo cơ hội lớn cho việc học tập và làm giàu tiềm năng của mỗi
người, xóa bỏ sự ngăn cách giữa thành thị và nông thôn. Nhìn chung, hầu hết các nước trên thế giới đều
ưu tiên cho việc đẩy mạnh ứng dụng CNTT vào GD nói chung, dạy học nói riêng.
Tại Việt Nam, Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều chủ trương, chính sách quan trọng:
- Chỉ thị số 58-CT/TW của Ban Chấp hành Trung ương chỉ đạo “ Đẩy mạnh ứng dụng CNTT
trong công tác GD&ĐT ở các cấp học, bậc học, ngành học” [10, tr 7].
- Chiến lược phát triển giáo dục 2001-2010 của Chính phủ chỉ rõ “nhanh chóng áp dụng CNTT
vào GD để đổi mới phương pháp GD và quản lý” [9 , tr 27].
- Nghị định số 64/2007/NĐ-CP của Chính phủ quy định trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan
nhà nước “Trực tiếp chỉ đạo và chịu trách nhiệm về hoạt động ứng dụng CNTT trong lĩnh vực, địa phương
và tổ chức, cơ quan mình” [8, tr 15].
Thực hiện chỉ đạo của Đảng và Nhà nước, nhiều năm qua, Bộ GD&ĐT đã đẩy mạnh triển khai ứng
dụng CNTT vào GD, cụ thể như sau:
Giai đoạn 1988-1990, do máy vi tính có giá rất cao (khoảng 1.500 USD/máy XT, 4.500 USD/máy
AT286) nên mục tiêu đầu tiên và duy nhất mà Bộ GD&ĐT đặt ra chỉ ở mức độ giảng dạy tin học cho mọi
người một cách đơn giản. Trong chương trình thí điểm chuyên ban THPT, Bộ GD&ĐT đã cho tiến hành
thí điểm đưa môn tin học vào dạy chính khóa.
Năm 1996, chương trình chuyên ban bị tạm dừng, môn tin học thí điểm tạm ngừng.
Năm 1998, dự án Professional Development Laboratory (PDL) được ký kết giữa Bộ GD&ĐT với
hãng máy tính IBM để ứng dụng tin học phục vụ chủ trương đổi mới nội dung và phương pháp giảng dạy
trong trường phổ thông. Trong năm này, internet được chính thức mở ra tại Việt Nam, sử dụng công nghệ
quay số điện thoại. Tháng 4/2004, cả nước bắt đầu sử dụng ADSL để truy cập internet.
- Chỉ thị số 29/2001/CT-BGD&ĐT của Bộ trưởng Bộ GD&ĐT yêu cầu “Đẩy mạnh ứng dụng
CNTT trong GD&ĐT ở tất cả các cấp học” .
Giai đoạn từ 2001-2008, Bộ GD&ĐT liên tiếp tổ chức các Hội nghị về ứng dụng CNTT và truyền
thông trong GD hàng năm. Một số Sở GD&ĐT ở các địa phương: Hà Nội, Hải Phòng, Đà Nẵng, liên
tục tổ chức các hội nghị về ứng dụng CNTT vào đổi mới phương pháp giảng dạy, quản lý.
- Tháng 4 năm 2006, Dự án hỗ trợ đổi mới quản lý giáo dục (SREM) theo kết quả của Hiệp định tài
chính AIDCO/VNM/2004/016-841 giữa Cộng đồng Châu Âu và Chính phủ nước Cộng hoà xã hội chủ
nghĩa Việt Nam, được ký kết tại Brussel ngày 18/07/2005 và ký kết tại Hà Nội ngày 01/09/2005 bắt đầu
được thực hiện. Dự án triển khai xây dựng hệ thống CNTT tích hợp cho công tác quản lý ở khối GD phổ
thông.
- Năm học 2006-2007, Tin học là môn học chính khóa được dạy ở các trường THPT.
- Năm 2007, Bộ GD&ĐT tăng cường chỉ đạo và đầu tư trang bị cơ sở vật chất để ứng dụng CNTT
trong ngành giáo dục:
+ Triển khai chương trình công nghệ GD; xây dựng hệ thống các công cụ tạo lập và quản lý bài
giảng điện tử, hệ thống e-Learning, qui trình soạn bài giảng, các phần mềm hỗ trợ dạy học, phần mềm thí
nghiệm ảo; xây dựng các nguồn tài nguyên GD và học liệu điện tử để chia sẻ dùng chung qua website của
Bộ, thư viện đề thi, thư viện sách giáo khoa điện tử; tổ chức chủ đề “CNTT đổi mới phương pháp dạy và
học” trên website, tổ chức GV tham gia diễn đàn GD để giao lưu và trao đổi kinh nghiệm, hỗ trợ, tháo gỡ
những khó khăn của GV, khuyến khích GV soạn giáo án trên máy tính và chia sẻ, tham khảo giáo án qua
mạng. [2, tr 3].
+ Các đơn vị, cơ sở GD cần triển khai ngay các phần mềm mã nguồn mở trong công tác dạy học
chính thức trong trường phổ thông và công tác quản lý. [3, tr 2]
- Ngày 4/1/2008, Tổng công ty viễn thông quân đội Viettel ký văn bản hợp tác với Cục CNTT Bộ
GD&ĐT về triển khai mạng GD: Viettel cung cấp dịch vụ kết nối internet băng thông rộng, kết nối kênh
thuê riêng qua đường cáp quang cho tất cả trường học, cơ quan quản lý giáo dục.
- Năm học 2008-2009 được Bộ GD&ĐT chỉ đạo là “Năm học đẩy mạnh ứng dụng CNTT đẩy
mạnh việc đổi mới phương pháp giảng dạy, học tập và ứng dụng CNTT một cách thiết thực và hiệu quả
trong công tác quản lý của nhà trường” [6, tr 1]. “Nhiều trường đại học, cao đẳng, các tổ chức và cá nhân
đã tiến hành triển khai thử nghiệm và vận hành các hệ thống e-Learning. Nhiều công cụ tạo bài giảng điện
tử, công cụ tạo câu hỏi đã được phát triển” [4, tr 8].
- Năm học 2009-2010, Bộ GD&ĐT tiếp tục chỉ đạo “đẩy mạnh việc đổi mới phương pháp giảng
dạy, học tập và ứng dụng CNTT một cách thiết thực và hiệu quả trong công tác quản lý của nhà trường và
công tác đào tạo nguồn nhân lực về CNTT” [7, tr 1].
Ngành GD&ĐT thành phố Cần Thơ đã triển khai ứng dụng CNTT vào dạy và quản lý trong tất cả cơ
sở giáo dục theo các chỉ đạo của Đảng, Nhà nước và Bộ GD&ĐT.
1.1.2. Một số lý luận về dạy học, quản lý dạy học và ứng dụng CNTT bậc THPT.
1.1.2.1. Khái niệm hoạt động dạy (hoạt động dạy học).
Dưới góc độ của GD học: “ Dạy học là hoạt động trí tuệ của thầy và trò, một quá trình vận động và
phát triển liên tục trong trí tuệ và nhân cách của HSBản chất của quá trình dạy học là quá trình nhận
thức độc đáo của người HSQuá trình dạy học là quá trình hoạt động của hai chủ thể, trong đó dưới sự tổ
chức, hướng dẫn và điều khiển của GV, HS nhận thức lại nền văn minh nhân loại và rèn luyện hình thành
kỹ năng hoạt động, tạo lập thái độ sống tốt đẹp” [31, tr 57, 58].
Mục đích của dạy là “làm cho người học học đúng cách, làm cho người học biết cách học và cách
đó là khả thi” [29, tr 221]. “Dạy và học gắn bó với nhau một cách mật thiết và mối quan hệ này có thể
thiết kế được” [29, tr 222].
Trong hoạt động dạy, GV đóng vai trò là chủ thể “tổ chức mọi hoạt động học tập của HS. Người
quyết định chất lượng giáo dục” [31, tr 54]. Đối tượng và hoạt động của GV là hệ thống kiến thức và sự
phát triển trí tuệ, nhân cách của HS.
Hoạt động học là quá trình tự điều khiển tối ưu sự chiếm lĩnh khái niệm khoa học, qua đó hình
thành cấu trúc tâm lý mới, phát triển nhân cách. HS là chủ thể của hoạt động học tập, có ý thức chủ động,
tích cực và sáng tạo trong nhận thức và rèn luyện nhân cách. “Người học vừa phải chủ động và sáng tạo
trong học tập, vừa phải tiếp thu sự chỉ dẫn, dạy bảo từ phía thầy giáo. Người học quyết định chất lượng
học tập của mình” [31, tr 56].
1.1.2.2. Chuẩn kiến thức, kỹ năng của chương trình GD phổ thông.
Chuẩn là những yêu cầu, tiêu chí (gọi chung là yêu cầu) tuân thủ những nguyên tắc nhất định, được
dùng để làm thước đo đánh giá hoạt động, công việc, sản phẩm của lĩnh vực nào đó.
Yêu cầu là sự cụ thể hóa, chi tiết, tường minh chuẩn, chỉ ra những căn cứ để đánh giá chất lượng.
Yêu cầu có thể được đo thông qua chỉ số thực hiện. Yêu cầu được xem như những “chốt kiểm soát” để
đánh giá chất lượng đầu vào, đầu ra cũng như quá trình thực hiện. [27, tr 5]
Việc chỉ đạo dạy học, kiểm tra, đánh giá theo chuẩn kiến thức, kỹ năng sẽ tạo nên sự thống nhất, làm
hạn chế tình trạng dạy học quá tải, đưa thêm nhiều nội dung nặng nề, quá cao so với chuẩn kiến thức, kỹ
năng vào dạy học, kiểm tra, đánh giá, là cơ sở quan trọng để đánh giá việc dạy của GV khi ứng dụng
CNTT vào quá trình dạy của họ.
Trong trường THPT, chuẩn kiến thức kỹ năng được sử dụng để xác định mục tiêu bài học, giúp GV
sáng tạo về phương pháp dạy học để phát huy tính tích cực, chủ động, tự giác học tập của HS; rèn luyện
các kỹ năng, năng lực hành động, vận dụng kiến thức, thực hành và gắn với thực tiễn cuộc sống; giúp GV
chú trọng đến việc sử dụng có hiệu quả phương tiện, thiết bị dạy học, đặc biệt là trong việc ứng dụng
CNTT trong dạy học; đa dạng nội dung, các hình thức đánh giá và tăng cường hiệu quả việc đánh giá. Đối
với CBQL, chuẩn kiến thức, kỹ năng giúp cụ thể hóa các văn bản chỉ đạo của ngành, tính cụ thể trong đổi
mới phương pháp dạy học, sử dụng phương tiện, thiết bị dạy học, hình thức tổ chức dạy học và đánh giá
kết quả GD; tạo điều kiện động viên, khuyến khích GV tích cực ứng dụng CNTT vào dạy, đổi mới
phương pháp; cơ sở để xây dựng các biện pháp quản lý, chỉ đạo ứng dụng CNTT trong nhà trường một
cách hiệu quả, động viên, khen thưởng kịp thời những GV ứng dụng có hiệu quả đồng thời với phê bình,
nhắc nhở những người chưa tích cực.
1.1.2.3. Khái quát về trường THPT.
a. Nhiệm vụ, quyền hạn trường THPT.
Trường trung học là cơ sở GD phổ thông của hệ thống GD quốc dân, về chuyên môn, trường trung
học có những nhiệm vụ và quyền hạn:
- Tổ chức giảng dạy, học tập và các hoạt động GD khác của Chương trình GD phổ thông.
- Quản lý GV, cán bộ, nhân viên; tham gia tuyển dụng và điều động GV, cán bộ, nhân viên.
- Huy động, quản lý, sử dụng các nguồn lực cho hoạt động GD. Phối hợp với gia đình HS, tổ chức
và cá nhân trong hoạt động GD.
- Quản lý, sử dụng và bảo quản CSVC, trang thiết bị theo quy định của Nhà nước.
-. Tự đánh giá chất lượng GD và chịu sự kiểm định chất lượng GD của cơ quan có thẩm quyền kiểm
định chất lượng GD [1, tr 2, 3].
b. Mục tiêu GD THPT.
Mục tiêu của GD phổ thông là giúp HS phát triển toàn diện về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ và
các kỹ năng cơ bản, phát triển năng lực cá nhân, tính năng động và sáng tạo, hình thành nhân cách con người
Việt Nam xã hội chủ nghĩa, xâ