Trong quá trình phát triển chung của nhân loại,của mỗi đất nước .Vấn đề 
đảm bảo cuộc sống cho người lao động cả về mặt vật chất lẫn tinh thần 
không ngừng được nâng lên luôn là mộttrong những vấn đề được quan tâm 
hàng đầu .Cũng như đối với Việt Nam chúng ta,vấn đề trả lương trong các 
doanh nghiệp Nhà nước luôn được Đảng và Nhà nước hết sức quan tâm để
phát triển một nền kinh tế nhiều thành phần theo cơ chế thị trường có sự 
điều tiết của Nhà nước theo định hướng XHCN.
Tiền lương là biểu hiện bằng tiền của giá trị sức lao động mà người sử 
nhập hợp lý giữa các ngành,các vùng trong nền kinh tế quốc dân và đảm bảo 
thống nhất giữa ba lợi ích Nhà nước,doanh nghiệp và người lao động.
Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề này trong các doanh nghiệp 
Nhà nước và được sự giúp đỡ nhiệt tình của các cán bộ ngân hàng,đặc biệt là 
sự giúp đỡ nhiệt tình của cô giáo Vũ Hoàng Ngân .Tôi đã đi sâu vào nghiên 
cứu đề tài: “Tiền lương thu nhậpvà tác động của nó đến năng suất lao 
động hiện nay ở Việt Nam”
Tôi đã cố gắng đưa ra một cách khái quát và đầy đủ nhất về vấn đề.Song do 
thời gian có hạn và là lần đầu viết về vấn đề này nên không thể tránh được 
những thiếu sót ,rất mong được những ý kiến góp ý để tôi có thể nắm vững 
hơn về vấn đề và hoàn thiện hơn trong những lần viết sau:
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Ngoài phần mở đầu và kết luận đề tài gồm ba phần chính như sau:
PHẦN 1:CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TIỀN LƯƠNG-THU NHẬP TRONG 
DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC. 
2
PHẦN 2:THỰC TRẠNG TIỀN LƯƠNG THU NHẬP CỦA NGƯỜI LAO 
ĐỘNG TRONG CÁC DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC HIỆN NAY.
PHẦN 3:MỘT SỐ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CÔNG TÁC TRẢ 
LƯƠNG NHẰM TẠO ĐỘNG LỰC CHO NGƯỜI LAO ĐỘNG
                
              
                                            
                                
            
 
            
                 30 trang
30 trang | 
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 3397 | Lượt tải: 1 
              
            Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Thực trạng tiền lương thu nhập và giải pháp hoàn thiện công tác trả lương nhằm tác động đến năng suất lao động hiện nay tại Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Luận văn 
 Thực trạng tiền lương thu 
nhập và giải pháp hoàn thiện 
công tác trả lương nhằm tác 
động đến năng suất lao động 
hiện nay ở Việt Nam 
 1 
 LỜI NÓI ĐẦU 
 Trong quá trình phát triển chung của nhân loại,của mỗi đất nước .Vấn đề 
đảm bảo cuộc sống cho người lao động cả về mặt vật chất lẫn tinh thần 
không ngừng được nâng lên luôn là một trong những vấn đề được quan tâm 
hàng đầu .Cũng như đối với Việt Nam chúng ta,vấn đề trả lương trong các 
doanh nghiệp Nhà nước luôn được Đảng và Nhà nước hết sức quan tâm để 
phát triển một nền kinh tế nhiều thành phần theo cơ chế thị trường có sự 
điều tiết của Nhà nước theo định hướng XHCN. 
 Tiền lương là biểu hiện bằng tiền của giá trị sức lao động mà người sử 
nhập hợp lý giữa các ngành,các vùng trong nền kinh tế quốc dân và đảm bảo 
thống nhất giữa ba lợi ích Nhà nước,doanh nghiệp và người lao động. 
 Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề này trong các doanh nghiệp 
Nhà nước và được sự giúp đỡ nhiệt tình của các cán bộ ngân hàng,đặc biệt là 
sự giúp đỡ nhiệt tình của cô giáo Vũ Hoàng Ngân .Tôi đã đi sâu vào nghiên 
cứu đề tài: “Tiền lương thu nhập và tác động của nó đến năng suất lao 
động hiện nay ở Việt Nam” 
Tôi đã cố gắng đưa ra một cách khái quát và đầy đủ nhất về vấn đề.Song do 
thời gian có hạn và là lần đầu viết về vấn đề này nên không thể tránh được 
những thiếu sót ,rất mong được những ý kiến góp ý để tôi có thể nắm vững 
hơn về vấn đề và hoàn thiện hơn trong những lần viết sau: 
Tôi xin chân thành cảm ơn! 
 Ngoài phần mở đầu và kết luận đề tài gồm ba phần chính như sau: 
 PHẦN 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TIỀN LƯƠNG-THU NHẬP TRONG 
 DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC. 
 2 
 PHẦN 2:THỰC TRẠNG TIỀN LƯƠNG THU NHẬP CỦA NGƯỜI LAO 
ĐỘNG TRONG CÁC DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC HIỆN NAY. 
 PHẦN 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CÔNG TÁC TRẢ 
LƯƠNG NHẰM TẠO ĐỘNG LỰC CHO NGƯỜI LAO ĐỘNG 
 3 
Phần thứ nhất 
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TIỀN LƯƠNG-THU NHẬP 
TRONG DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC. 
I./ THỰC CHẤT CỦA TIỀN LƯƠNG-THU NHÂP TRONG CÁC DOANH 
NGHIỆP NHÀ NƯỚC. 
 1. Khái niệm về tiền lương-thu nhập. 
 Tiền lương là số lượng tiền tệ mà người sử dụng lao động trả cho người 
lao động theo giá trị sức lao động mà anh ta đã hao phí. 
 Trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung,tiền lương được hiểu một cách thống 
nhất như sau:”Về thực chất,tiền lương dưới CNXH là một phần thu nhập 
quốc dân,biểu hiện dưới hình thức tiền tệ,được Nhà nước phân phối có kế 
hoạch cho công nhân viên chức phù hợp với số lượng và chất lượng lao 
động của mỗi người đã cống hiến.Tiền lương phản ánh việc trả công cho 
công nhân viên chức,dựa trên nguyên tắc phân phối theo lao động nhằm tái 
sản xuất sức lao động”. 
 Theo quan niệm này,tiền lương mang nặng tính chất bao cấp,bình quân 
,dàn đều.Nó chưa đảm bảo được nguyên tắc phân phối tiền lương theo lao 
động từ đó không khuyến khích nâng cao trình độ chuyên môn,tính chủ 
động lao động sáng tạo của người lao động và coi nhẹ lợi ích thiết thực của 
người lao động .Kết quả là không gắn được lợi ích của người lao động với 
thành quả mà họ sáng tạo ra,không có trách nhiệm với công việc được giao. 
 Khi chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung,bao cấp sang nền kinh 
tế thị trường,ở đây mọi người được tự do mua,bán sức lao động của mình,vì 
 4 
thế sức lao động được nhìn nhận như một hàng hoá và tiền lương không phải 
là cái gì khác,mà nó chính là giá cả sức lao động. 
 Thật vậy,sức lao động là cái vốn có của người lao động,người sử dụng 
lao động lại có điều kiện và muốn sử dụng nó để tạo ra của cải vật chất.Do 
vậy người sử dụng lao động phải trả cho người sở hữu sức lao động hay 
người lao động một số tiền nhất định để đổi lấy quyền sử dụng sức lao động 
của người lao động.Về phía người lao động ,họ muốn bán sức lao động để 
lấy một khoản tiền nhất định để nuôi bản thân và gia đình.Vì vậy,giữa người 
sử dụng lao động và người lao động nảy sinh quan hệ mua bán và cái được 
trao đổi ,mua bán ở đây là sức lao động của người lao động và số tiền của 
người lao động trả cho người lao động chính là giá cả của sức lao động hay 
nói khác đi tiền lương chính là giá cả sửc lao động . 
 Lúc này ,Đảng và Nhà nước ta đã nhận định “tiền lương là giá cả của sức 
lao động “Tiền lương là giá cả sức lao động ,được hình thành qua sự thoả 
thuận giữa người lao động và người sử dụng lao động thông qua hợp đồng 
lao động ,phù hợp với các quan hệ của nền kinh tế thị trường đang trong quá 
trình hoàn thiện theo định hướng XHCN”. 
 Điều đó có nghĩa là tiền lương phải được trả theo đúng giá trị sức lao 
động,phải coi tiền lương như một động lực thúc đẩy từng cá nhân người lao 
động hăng say làm việc,nhưng phải tránh tính chất bình quân.Có thể cùng 
trình độ chuyên môn ,cùng bậc thợ nhưng tiền lương lại rất khác nhau do 
hiệu quả sản xuất khác nhau hay do sức lao động khác nhau . 
 Quan điểm mới này về tiền lương đã tạo cho việc trả lương đúng với giá 
trị sức lao động ,tiền tệ hoá tiền lương triệt để hơn ,xoá bỏ tính phân phối 
cấp phát và trả lương bằng hiện vật.Đồng thời nó đã khắc phục quan điểm 
coi nhẹ lợi ích cá nhân như trước kia , Tiền lương phải được sử dụng đúng 
 5 
vai trò đòn bẩy kinh tế của nó kích thích người lao động gắn bó hăng say với 
công việc. 
 Tóm lại tiền lương là một khỏan tiền mà người sử dụng lao động trả cho 
người lao động khi họ hoàn thành một công việc nào đó theo đúng số lượng 
và chất lượng đã thoả thuận.Sức lao động là hàng hoá ,tiền lương là giá cả 
sức lao động ,và người sử dụng sức lao động căn cứ vào số lượng và chất 
lượng của người công nhân ,cũng như mức độ phức tạp,tính chất độc hại của 
công việc để trả lương cho người lao động. 
 Thu nhập là khoản tiền mà người lao động trong doanh nghiệp được 
người sử dụng lao động trả theo lao động và là khoản thu thường xuyên ,tính 
bình quân tháng trong năm bao gồm: Tiền lương ,tiền thưởng,chia phần lợi 
nhuận ,các khoản phụ cấp lương,những chi phí thường xuyên ổn định mà 
người sử dụng lao động chi trực tiếp cho người lao động như tiền ăn giữa 
ca,tiền ăn trưa,tiền xăm lốp xe...và các khoản thu khác,trong đó tiền lương là 
một phần chủ yếu trong thu nhập. 
 Về tiền lương tối thiểu,thì đó là mức lương”sàn” chung ,được xem là 
"cái ngưỡng” cuối cùng trên phạm vi quốc gia,làm cơ sở cho việc xác định 
tiền lương tối thiểu của từng ngành,nghề,khu vực kinh tế và vùng lãnh thổ 
khác nhau,là căn cứ để định chính sách tiền lương.Với quan niệm như 
vậy,mức lương tối thiểu được coi là yếu tố rất quan trọng của một chính sách 
tiền lương,nó liên quan chặt chẽ với ba yếu tố: 
 + Mức sống trung bình của dân cư một nước. 
 + Chỉ số giá cả hàng hoá sinh hoạt . 
 + Loại lao động và điều kiện lao động . 
 6 
 Mức lương tối thiểu đo lường giá loại sức lao động thông thường trong 
điều kiện làm việc bình thường,yêu cầu một kỹ năng đơn giản với một 
khung giá các tư liệu sinh hoạt hợp lý.Nghị định 197/CP của Nhà nước Cộng 
hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam,ngày 31/12/1994 về việc thi hành Bộ luật lao 
động,đã ghi:”Mức lương tối thiểu...là mức lương để trả cho người lao động 
làm công việc đơn giản nhất(không qua đào tạo) với điều kiện lao động và 
môi trường lao động bình thường “. 
 Quĩ tiền lương:là tổng số tiền lương dùng để trả lương cho người lao động 
phù hợp với số lượng và chất lượng lao động trong phạm vi doanh nghiệp. 
 Đơn giá tiền lương: Hiện nay có hai cách hiểu về đơn giá tiền lương. 
 Theo cách thứ nhất thì đơn giá tiền lương là lượng tiền chung để trả cho 
người lao động khi họ hoàn thành một đơn vị sản phẩm hay công việc.Như 
vậy,theo cách hiểu này,lượng tiền dùng để trả công này là trả cho người trực 
tiếp làm ra sản phẩm hay hoàn thành công việc.Theo cách hiểu khác thì đơn 
giá tiền lương là số tiền trả cho người lao động đã tham gia trực tiếp và gián 
tiếp để làm ra sản phẩm hay hoàn thành công việc. 
 Như vậy đơn giá tiền lương này không phải chỉ áp dụng cho người trực 
tiếp sản xuất ra sản phẩm hay hoàn thành công việc mà cho mọi lao động có 
tham gia vào việc hoàn thành nó như người quản lý,công nhân phụ trách kỹ 
thuật.... 
 a. Tiền lương thực tế và tiền lương danh nghĩa . 
 Tiền lương danh nghĩa :Là lượng tiền mà người lao động nhận được từ 
người sử dụng lao động theo lượng giá trị sức lao động đã bỏ ra. 
Tiền lương thực tế: là lượng tư liệu sinh hoạt ,vật chất mà người lao động 
mua được từ tiền lương danh nghĩa. 
 7 
 b- Thu nhập. 
 Thu nhập được hiểu là tất cả những gì bằng tiền và hiện vật mà người lao 
động nhận được từ phía người sử dụng bao gồm :tiền lương(tiền công) ,các 
loại phụ cấp lương,tiền thưởng và những khoản thường xuyên ,ổn định mà 
người sử dụng lao động chi trực tiếp cho người lao động như ăn giữa ca,tiền 
đi lại... 
 Tiền lương là một bộ phận chính của thu nhập. 
 Các khoản thu khác chủ yếu là phúc lợi xã hội như đi tham quan,tổ chức 
phương tiện đi lại,liên hoan sinh nhật,tổ chức nơi ăn ,ở cho công nhân viên. 
 c- Thang lương 
 Là bảng xác định quan hệ tỉ lệ về tiền lương giữa những công nhân cùng 
nhóm ngành có trình độ lành nghề khác nhau. 
II/- NĂNG SUẤT LAO ĐỘNG(NSLĐ).MỐI QUAN HỆ GIỮA TIỀN 
LƯƠNG ,THU NHẬP VÀ NSLĐ. 
1. Khái niệm. 
 Năng suất lao động là chỉ tiêu về hiệu quả hữu ích của hoạt động có mục 
đích của con người trong quá trình sản xuất. 
 Mức năng suất lao động được xác định bằng số lượng sản phẩm sản xuất 
ra trong một đơn vị thời gian hoặc lượng thời gian lao động hao phí để sản 
xuất ra một đơn vị sản phẩm.Như Mác đã viết:”Sự tăng lên của mức sản 
xuất hay năng suất của lao động ,chúng ta hiểu nói chung là sự thay đổi 
trong cách thức lao động ,một sự thay đổi làm giảm ngắn thời gian lao động 
xã hội cần thiết để sản xuất ra một hàng hoá sao cho một số lượng ít hơn lại 
có được một sức sản xuất ra nhiều giá trị sử dụng hơn”. 
 8 
 Hao phí lao động để sản xuất ra một đơn vị sản phẩm gồm hai bộ phận: 
Lao động sống và lao động quá khứ.Lao động sống là lao động trực tiếp tiêu 
hao trong quá trình sản xuất ra sản phẩm.Lao động quá khứ là phần lao động 
tiêu hao từ trước để làm ra nguyên vật liệu và công cụ,nhà xưởng dùng cho 
quá trình sản xuất ra sản phẩm đó. 
 Cần phân biệt hai khái niệm năng suất lao động cá nhân và năng suất lao 
động xã hội .Năng suất lao động cá nhân chỉ liên quan đến lao động 
sống,tăng năng suất lao động cá nhân là hạ thấp chi phí lao động sống.Năng 
suất lao động xã hội liên quan đến cả lao động sống và lao động quá 
khứ,tăng năng suất lao động xã hội là hạ thấp cả chi phí lao động sống và 
chi phí lao động quá khứ. 
2. Ý nghĩa của tăng năng suất lao động. 
 Trước hết,năng suất lao động tăng làm giảm giá thành sản phẩm vì giảm 
chi phí tiền lương trong một đơn vị sản phẩm.Tiền lương là giá cả của sức 
lao động ,nó là một trong những chi phí cấu thành giá thành sản phẩm ,tăng 
NSLĐ có nghĩa là giảm chi phí sức lao động cho một đơn vị sản phẩm hay 
là giảm chi phí tiền lương cho một đơn vị sản phẩm,dẫn đến giá thành sản 
phẩm giảm. 
 Tăng NSLĐ cho phép giảm số người làm việc,do đó tiết kiệm được quĩ 
tiền lương.NSLĐ cao và tăng nhanh sẽ tạo điều kiện tăng qui mô và tốc độ 
của tổng sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân,cho phép giải quyết các vấn 
đề tích luỹ tiêu dùng. 
3. Mối quan hệ giữa tiền lương thu nhập với NSLĐ. 
a- Thực chất của mối quan hệ. 
 9 
 Trước khi tìm hiểu về mối quan hệ ,sự tác động qua lại giữa tiền 
lương,thu nhập và NSLĐ,ta hiểu thực chất về mối quan hệ này là gì và nó là 
sợi dây xuyên suốt mối quan hệ này. 
 Thực chất của mối quan hệ giữa tiền lương ,thu nhập và NSLĐ là mối 
quan hệ giữa ăn và làm hay cái được hưởng và cái làm ra hay xét trong 
phạm vi toàn xã hội là tiêu dùng và sản xuất. 
 Giữa tiền lương ,thu nhập và NSLĐ có một điểm gắn kết như sợi dây 
dàng buộc,đó là quá trình lao động .Quá trình lao động gồm nhiều hoạt động 
lao động,sử dụng sức lao động để tạo ra NSLĐ làm ra sản phẩm.Quá trình 
lao động đã làm hao phí sức lao động của người lao động để tạo ra sản 
phẩm nên người lao động phải được nhận một khoản tiền để bù đắp lại 
lượng lao động đã hao phỉ trong quá trình lao động,đó là tiền lương .Đây 
chính là cái mà người lao động được hưởng sau khi đã sử dụng sức lao động 
của mình tạo ra NSLĐ để tạo ra sản phẩm.Cụ thể hơn ,NSLĐ là một yếu tố 
của quá trình lao động,là thước đo của việc sử dụng sức lao động ,đó là lao 
động .Lao động sản xuất ra của cải vật chất.Còn tiền lương và thu nhập là 
giá cả trả cho sức lao động đã bỏ ra để lao động làm ra của cải vật chất 
đó.Như vậy, người lao động sử dụng sức lao động để làm ra sản phẩm và họ 
đựoc hưởng một lượng tiền gọi là tiền lương tương ứng với sức lao động họ 
đã bỏ ra.Vậy mối quan hệ giữa tiền lương thu nhập và NSLĐ là mối quan hệ 
giữa làm và ăn. 
 Ngoài ra ,trong mối quan hệ giữa tiền lương,thu nhập và NSLĐ,tốc độ 
tăng của tiền lương thấp hơn tốc độ tăng của năng suất lao động.Như trên đã 
nói,giữa tiền lương,thu nhập và NSLĐ có mối quan hệ nhưng mối quan hệ 
đó như thế nào,làm ra bao nhiêu hưởng bấy nhiêu hay chỉ hưởng một phần 
của cải làm ra ,khi NSLĐ tăng lên thì tiền lương cũng tăng lên một lượng 
 10 
tương ứng hay chỉ tăng lên thêm một phần của làm ra.Thực tế cho thấy tốc 
độ tăng năng suất lớn hơn tốc độ tăng tiền lương bình quân.Tức là lượng vật 
chất làm được thêm phải nhiều hơn phần được hưởng thêm do một số 
nguyên nhân sau: 
- Do yêu cầu tăng cường khả năng cạnh tranh.Trong nền kinh tế thị 
trường,trong sản xuất để cạnh tranh được thì giá thành sản phẩm phải thấp 
tức là phải giảm chi phí cho một đơn vị sản phẩm.Tiền lương là một chi phí 
cấu thành nên giá thành sản phẩm,giảm chi phí tiền lương cho một đơn vị 
sản phẩm làm giảm giá thành sản phẩm.Tăng NSLĐ làm giảm hao phí sức 
lao động cho một đơn vị sản phẩm hay giảm chi phí tiền lương cho một đơn 
vị sản phẩm.Nhưng mối quan hệ giữa tăng NSLĐ và giảm chi phí tiền lương 
này là như thế nào,hay mối quan hệ giữa tăng NSLĐ và tăng tiền lương là 
như thế nào. 
 Tóm lại : Tốc độ tăng CPSLĐ/SP = Tốc độ tăng TL - Tốc độ tăng NSLĐ 
 Để có thể cạnh tranh,CPSLĐ?1đvsp phải càng ngày càng giảm hay tốc độ 
tăng CPSLĐ/1đvsp phải âm .Theo (*) thì tốc độ tăng CPSLĐ/1đvsp<0 Hay: 
Tốc độ tăng TL< Tốc độ tăng NSLĐ 
- Do NSLĐ chỉ là một bộ phận của tổng năng suất.NSLĐ tăng lên do 
nhiều yếu tố khách quan và chủ quan như công nghệ sản xuất,môi trường lao 
động,tài nguyên thiên nhiên ,con người...trong đó có tiền lương.Như vậy tiền 
lương chỉ góp một phần làm tăng NSLĐ.Khả năng tăng NSLĐ là lớn hơn so 
với khả năng tăng tiền lương. 
- Do yêu cầu của tích luỹ .Như trên đã nói,NSLĐ tăng lên có một phần do 
công nghệ sản xuất vậy cần thiết phải trích một phần lợi nhuận từ kết quả do 
tăng NSLĐ để tích luỹ nhằm không ngừng đầu tư ,đổi mới trang thiết bị 
 11 
công nghệ để quay trở lại phục vụ sản xuất,làm tăng NSLĐ .Như vậy,sản 
phẩm làm thêm được do tăng NSLĐ không được dùng hoàn toàn cho tăng 
thêm tiền lương làm tốc độ tăng của tiền lương luôn bé hơn tốc độ tăng 
NSLĐ. 
 Cho đến nay,khi nói đến mối quan hệ giữa tiền lương,thu nhập và 
NSLĐ,hay mối quan hệ giữa làm và ăn,quan niệm giữa làm trước ,ăn sau 
hay ăn trước ,làm sau vẫn không được rõ ràng nhưng thực tế giữa tiền 
lương,thu nhập và NSLĐ có mối quan hệ biện chứng. 
b- NSLĐ tác động đến tiền lương và thu nhập 
NSLĐ tác động đến quĩ tiền lương, làm tăng hoặc giảm quĩ tiền lương trong 
tổ chức ,doanh nghiệp nhưng không có nghĩa là tương ứng với nó cũng làm 
tăng hoặc giảm tiền lương,thu nhập của người lao động . 
 NSLĐ tăng làm rút ngắn thời gian để hoàn thành một lượng công việc hay 
sản xuất ra một khối lượng sản phẩm,từ đó hoàn thành vượt mức sản lượng 
hay hoàn thành đúng mức sản lượng trước thời định.Vì vậy,người lao động 
được thưởng theo quy định góp phần làm tăng thu nhập của người lao 
động.Mặt khác,tăng NSLĐ làm tăng sản phẩm làm ra,đối với công nhân 
hưởng lương sản phẩm thì lượng sản phẩm tăng thêm này làm tăng tiền 
lương theo công thức: 
 TLTL = ĐGsp x Q. 
Trong đó: 
TLTL là tiền lương thực lĩnh 
ĐGsp là đơn giá sản phẩm (hiểu theo cách hiểu thứ nhất) 
Q là lượng sản phẩm làm ra. 
 12 
Như vậy, tăng Q kéo theo tăng TLTL 
Tóm lại “làm” có liên quan chặt chẽ đến “hưởng” làm ra được nhiều hơn thì 
được hưởng nhiều hơn. 
c- Tiền lương,thu nhập tác động đến NSLĐ. 
Tiền lương chính là giá cả sức lao động,là hình thức biểu hiện giá trị sức lao 
động,là lượng tiền dùng để mua sắm các tư liệu sinh hoạt nhằm tái sản xuất 
và tái sản xuất mở rộng sức lao động.Tiền lương là một phạm trù thu nhập 
quốc dân được biểu hiện bằng tiền bảo đảm thoả mãn nhu cầu vật chất,văn 
hoá trực tiếp mà Nhà nước dùng để phân phối một cách hợp lý và có khoa 
học cho người lao động căn cứ vào số lượng ,chất lượng mà người đó đã 
cống hiến cho xã hội phù hợp với nền kinh tế.Tiền lương là một trong những 
công cụ kinh tế quan trọng nhất trong quản lý lao động,người ta dùng công 
cụ này để kích thích thái độ quan tâm đến lao động do đó tiền lương là một 
nhân tố mạnh mẽ để tăng NSLĐ,hay nói cách khác,đối với người lao 
động,tiền lương là khoản thu nhập chính,để tăng tiền lương họ phải tăng 
NSLĐ. 
4. Các chính sách về tiền lương tác động đến NSLĐ 
Trong số các chính sách về tiền lương,chính sách về tiền lương tối thiểu 
rất quan trọng,nó là trung tâm trong các mối liên hệ có liên quan đến tiền 
lương,tiền lương tối thiểu có ảnh hưởng rất lớn đến tiền lương bình quân của 
người lao động theo công thức: 
TLBQ = TLmin x (K x (H 
Trong đó: 
 TLBQ là tiền lương bình quân 
 13 
 TLmin là tiền lương tối thiểu 
 (K là hệ số điều chỉnh bình quân 
 (H là hệ số cấp bậc bình quân. 
 Theo công thức trên,khi tiền lương tối thiểu tăng thêm một lượng ít thì 
tiền lương bình quân tăng thêm được một lượng gấp (K lần ,cho thấy việc 
đưa ra và điều chỉnh mức lương tối thiểu là rất quan trọng. Tiền lương tối 
thiểu mà phù hợp sẽ có tác động tốt đến người lao động với ý nghĩa làm một 
khoản thu nhập chính, từ đó bảo đảm được năng suất lao động ổn định và 
tăng lên. Nêu tiền lương tối thiểu quá thấp, dẫn đến tiền lương bình quân 
thấp, tiền lương không còn là khoản thu nhập chính của người lao động và 
mất tác dụng kích thích người lao động làm việc, tăng năng suất lao động. 
Nếu tiền lương tối thiểu quá cao, gây ra sự đảo ngược hay quan hệ không 
hợp lý giữa tốc độ tăng tiền lương và tốc độ tăng năng suất lao động, từ đó 
ảnh hưởng không tốt đến hiệu quả sản xuất kinh doanh của các tổ chức 
kinh tế nói riêng, của xã hội nói chung. Ngoài ra, việc chi trả cho tất cả cho 
các lao động trong tổ chức một cách công khai cũng có tác động đến tâm lý 
lao động rất nhiều, việc công khai đó giúp người lao động cảm thấy sự công 
bằng giữa những người lao động và giữa làm và hưởng của mình với người 
khác, từ đó tạo sự phấn khởi trong lao động, giúp cho tăng năng suất lao 
động. 
 Các chính sách về tiền thưởng hay các hình thức thưởng cũng có ảnh 
hưởng không nhỏ đến việc tăng năng suất lao động. Theo thuyết động cơ của 
Taylor, tiền là động cơ khiến con người làm việc, tuy Taylor có mặt hạn chế 
vì ông coi tiền là động cơ duy nhất và ví người lao động như cái máy mà 
tiền là năng lượng để nó hoạt động nhưng ông đã đúng khi coi tiền là động 
cơ của lao động. Con người lao động do nhiều động cơ nhưng tiền là động 
 14 
cơ chính, động cơ chủ yếu. Đối với người lao động mục đích của họ là thu 
nhập, tiền thưởng là một khoản tiền làm tăng thu nhập, tiền thưởng cũng 
chính là động cơ lao động của họ, nó nằm bên cạnh, xếp sau tiền lương. 
Trong các hình thức thưởng, thưởng giảm tỉ lệ hỏng có tác dụng làm tăng 
năng suất lao động. Giảm tỉ lệ sản phẩm hỏng có nghĩa là tăng sản phẩm đạt 
tiêu chuẩn lên, tức là tăng năng suất lao động. Thưởng hoàn thành vượt mức 
năng suất lao động, điều này có tính chất khuyến khích tăng năng suất lao 
động rất rõ ràng, nếu người lao động đạt được nhiều sản phẩm hơn so với 
tiêu chuẩn trong một đơn vị thời gian hay lượng thời gian hao phí để sản 
xuất ra một đơn vị sản phẩm là ít hơn so với tiêu chuẩ