Bản án, quyết định của Tòa án nhân danh Nhà nước khi được chấp hành nghiêm
chỉnh có tác động trực tiếp đến lòng tin của nhân dân đối với pháp luật. Vì vậy, hoạt
động thi hành án có một ý nghĩa vô cùng quan trọng trong việc giữ vững kỷ cương phép
nước, củng cố pháp chế và trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa, đảm bảo cho quyền lực tư
pháp được thực thi trên thực tế. Hiến pháp 1992 khẳng định: "Các bản án và quyết định
của Tòa án nhân dân đã có hiệu lực pháp luật phải được các cơ quan nhà nước, tổ chức
kinh tế, tổ chức xã hội, các đơn vị vũ trang nhân dân và mọi công dân tôn trọng; những
người và đơn vị hữu quan nghiêm chỉnh chấp hành".
Nhận thức được tầm quan trọng trong công tác này, Đảng và Nhà nước ta đã đề
ra mục tiêu trong những năm tới đây là phải: "Tiếp tục tạo sự chuyển biến mạnh mẽ
trong công tác thi hành án dân sự, nâng cao hiệu quả công tác thi hành án, giải quyết
căn bản tình trạng án tồn đọng. Đổi mới tổ chức và hoạt động của hệ thống cơ quan thi
hành án dân sự, nâng cao vai trò trách nhiệm của các cơ quan thi hành án" [1]. Nhiều
năm qua, Chính phủ đã xác định công tác thi hành án dân sự là một trong những nhiệm
vụ trọng tâm và đã đưa ra nhiều giải pháp hiệu quả nhằm tạo sự chuyển biến cơ bản
trong công tác này. Do vậy, công tác thi hành án dân sự trong những năm qua đạt được
một số kết quả đáng khích lệ, mà kết quả nổi bật nhất theo đánh giá của Chính phủ là:
"Hệ thống cơ quan thi hành án dân sự được hình thành trong cả nước, công tác thi hành
án dân sự đã được triển khai và hoạt động có hiệu quả bước đầu" [35]. Tuy nhiên, bên
cạnh đó, công tác thi hành án dân sự hiện vẫn đang đứng trước những khó khăn, thử
thách to lớn với nhiều vấn đề tồn tại, bất cập đang đặt ra cần được giải quyết. Hiệu quả
công tác thi hành án dân sự chưa cao, chưa đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ, và sự quan
tâm, mong mỏi của Đảng, Nhà nước và nhân dân; hoạt động thi hành án chưa thật sự
đảm bảo được tính công bằng và nghiêm minh của pháp luật.
93 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 7882 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Thực trạng và giải pháp nhằm nâng cao hiểu quả thi hành án dân sự tại Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN:
Thực trạng và giải pháp nhằm
nâng cao hiểu quả thi hành án dân
sự ở Việt Nam
mở đầu
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Bản án, quyết định của Tòa án nhân danh Nhà nước khi được chấp hành nghiêm
chỉnh có tác động trực tiếp đến lòng tin của nhân dân đối với pháp luật. Vì vậy, hoạt
động thi hành án có một ý nghĩa vô cùng quan trọng trong việc giữ vững kỷ cương phép
nước, củng cố pháp chế và trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa, đảm bảo cho quyền lực tư
pháp được thực thi trên thực tế. Hiến pháp 1992 khẳng định: "Các bản án và quyết định
của Tòa án nhân dân đã có hiệu lực pháp luật phải được các cơ quan nhà nước, tổ chức
kinh tế, tổ chức xã hội, các đơn vị vũ trang nhân dân và mọi công dân tôn trọng; những
người và đơn vị hữu quan nghiêm chỉnh chấp hành".
Nhận thức được tầm quan trọng trong công tác này, Đảng và Nhà nước ta đã đề
ra mục tiêu trong những năm tới đây là phải: "Tiếp tục tạo sự chuyển biến mạnh mẽ
trong công tác thi hành án dân sự, nâng cao hiệu quả công tác thi hành án, giải quyết
căn bản tình trạng án tồn đọng. Đổi mới tổ chức và hoạt động của hệ thống cơ quan thi
hành án dân sự, nâng cao vai trò trách nhiệm của các cơ quan thi hành án" [1]. Nhiều
năm qua, Chính phủ đã xác định công tác thi hành án dân sự là một trong những nhiệm
vụ trọng tâm và đã đưa ra nhiều giải pháp hiệu quả nhằm tạo sự chuyển biến cơ bản
trong công tác này. Do vậy, công tác thi hành án dân sự trong những năm qua đạt được
một số kết quả đáng khích lệ, mà kết quả nổi bật nhất theo đánh giá của Chính phủ là:
"Hệ thống cơ quan thi hành án dân sự được hình thành trong cả nước, công tác thi hành
án dân sự đã được triển khai và hoạt động có hiệu quả bước đầu" [35]. Tuy nhiên, bên
cạnh đó, công tác thi hành án dân sự hiện vẫn đang đứng trước những khó khăn, thử
thách to lớn với nhiều vấn đề tồn tại, bất cập đang đặt ra cần được giải quyết. Hiệu quả
công tác thi hành án dân sự chưa cao, chưa đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ, và sự quan
tâm, mong mỏi của Đảng, Nhà nước và nhân dân; hoạt động thi hành án chưa thật sự
đảm bảo được tính công bằng và nghiêm minh của pháp luật.
Tồn tại lớn nhất trong công tác thi hành án dân sự những năm qua là tình trạng
án "tồn đọng" kéo dài, với số lượng lớn ngày càng tăng, song chưa có biện pháp hữu
hiệu để giải quyết. Tính đến hết năm 2002 trong tổng số trên 450 ngàn vụ việc phải thi
hành, thì có trên 173 ngàn vụ việc không có điều kiện thi hành, chiếm gần 39% với tổng
số tiền lên tới 8.000 tỷ đồng. Riêng năm 2002 trong số 276.749 việc có điều kiện thi
hành thì chỉ có 247.000 việc các Cơ quan thi hành án dân sự tổ chức thi hành được,
chiếm 89.23% nhưng số vụ việc thi hành xong hoàn toàn chỉ đạt 160.061 vụ, chiếm
57.83%, chưa kể số vụ việc chưa có điều kiện thi hành.
Đây là vấn đề rất bức xúc đặt ra trong công tác thi hành án dân sự hiện nay.
Thực trạng này, một phần xuất phát từ nguyên nhân: ý thức tuân thủ pháp luật của một
số bộ phận nhân dân nói chung và một số cơ quan, tổ chức, các nhà quản lý doanh
nghiệp và cá nhân (kể cả chính quyền địa phương) còn yếu kém. Mặt khác, là do chưa
có sự phối hợp đồng bộ, chặt chẽ giữa các cơ quan bảo vệ pháp luật, cũng như cơ quan
hữu quan trong quá trình thi hành án; cơ sở pháp lý về tổ chức và hoạt động thi hành án
dân sự chưa được hoàn thiện, hệ thống các văn bản pháp lý về thi hành án dân sự chưa
đầy đủ, chậm được bổ sung, sửa đổi kịp thời; cơ chế quản lý và cơ chế thi hành án hiện
nay không hợp lý, gây cản trở và làm giảm hiểu quả công tác thi hành án nói chung và
thi hành án dân sự nói riêng.
Vì vậy, muốn giải quyết tình trạng "án tồn đọng", nâng cao hiệu quả thi hành án
dân sự cần phải nghiên cứu đề ra các giải pháp đồng bộ về nhiều mặt: Kinh tế, pháp
luật, chính sách xã hội, tổ chức bộ máy, đội ngũ cán bộ... Nhưng trong khuôn khổ luận
văn luật học, chúng tôi chỉ đi sâu tìm hiểu những vấn đề liên quan đến pháp luật.
Với tất cả những lý do nêu trên, việc chọn đề tài "Thực trạng và giải pháp
nhằm nâng cao hiểu quả thi hành án dân sự ở Việt Nam" làm luận văn thạc sĩ luật
học là cấp thiết và có ý nghĩa thực tiễn.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Những năm gần đây, trước những đòi hỏi khách quan của công tác thi hành án dân
sự, đã có một số công trình khoa học nghiên cứu về vấn đề thi hành án dân sự, cụ thể là: Đề
tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ "Những cơ sở lý luận và thực tiễn về chế định Thừa phát
lại", mã số 95-98-114/ĐT do Viện Nghiên cứu Khoa học Pháp lý - Bộ Tư pháp và Sở
Tư pháp Thành phố Hồ Chí Minh chủ trì thực hiện; Đề tài nghiên cứu cấp Bộ: "Mô hình
quản lý thống nhất công tác thi hành án", mã số 96-98- 027/ĐT do Cục Thi hành án dân sự
- Bộ Tư pháp chủ trì thực hiện; Đề tài cấp Nhà nước đang thực hiện: "Luận cứ khoa học
của việc đổi mới tổ chức và hoạt động thi hành án ở Việt Nam trong giai đoạn mới" do Bộ
Tư pháp chủ trì; Đề tài: "Thi hành án dân sự, thực trạng và hướng hoàn thiện của Dự án
VIE/98/001" do Bộ Tư pháp chủ trì thực hiện dự án. Một số luận án và công trình
nghiên cứu khác như: Luận văn thạc sĩ luật học: "Các biện pháp cưỡng chế thi hành án
dân sự, thực tiễn áp dụng và hướng hoàn thiện" của tác giả Nguyễn Công Long; Luận
văn thạc sĩ luật học "Hoàn thiện pháp luật thi hành án dân sự" của tác giả Nguyễn Thanh
Thủy; Luận văn thạc sĩ luật học của tác giả Lê Xuân Hồng về "Xã hội hóa thi hành án dân
sự ở Việt Nam"; Luận văn thạc sĩ luật học của tác giả Nguyễn Quang Thái về "Đổi mới tổ
chức và hoạt động thi hành án dân sự ở Việt Nam"; Luận văn thạc sĩ luật học của tác giả Lê
Anh Tuấn về "Đổi mới thủ tục thi hành án dân sự ở Việt Nam"... Bên cạnh đó là Giáo trình
môn Luật tố tụng dân sự của trường Đại học luật Hà Nội và các trường Đại học có chuyên
ngành luật; một số bài viết đăng trên các tạp chí Dân chủ và pháp luật, Tạp chí Luật học,
Tạp chí Nhà nước và pháp luật…
Các công trình nêu trên đã có nội dung nghiên cứu về thi hành án dân sự ở
những góc độ, khía cạnh và mức độ khác nhau. ở một số công trình cũng đã đề cập đến
vấn đề thực trạng và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thi hành án dân sự, nhưng chưa
có công trình nào nghiên cứu vấn đề đó một cách toàn diện, chuyên sâu.
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
3.1. Mục tiêu
Mục tiêu tổng quát của đề tài là tìm ra các luận cứ khoa học và thực tiễn cho
việc đưa ra các giải pháp nhằm năng cao hiệu quả công tác thi hành án dân sự ở nước ta
trong giai đoạn hiện nay. Để đạt được mục tiêu lớn đó cần phải thực hiện các nhiệm vụ
cụ thể sau:
3.2. Nhiệm vụ
- Làm rõ những cơ sở lý luận về thi hành án và thi hành án dân sự.
- Đánh giá đúng đắn và toàn diện về thực trạng pháp luật về thi hành án dân sự,
thực tiễn thi hành án dân sự.
- Phân tích nguyên nhân của thực trạng đó.
- Đưa ra những giải pháp trước mắt và lâu dài nhằm nâng cao hiệu quả thi hành
án dân sự.
4. Phạm vi nghiên cứu
"Thực trạng và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thi hành án dân sự ở Việt
Nam" là một đề tài có tính khái quát cao, nội dung rất rộng, phong phú và phức tạp. Vì
vậy, trong khuân khổ luận văn thạc sĩ luật học, tác giả tập trung nghiên cứu cơ sở lý
luận và thực tiễn về thi hành án và thi hành án dân sự; đánh giá thực trạng thi hành án
dân sự và từ đó rút ra những giải pháp hoàn thiện pháp luật thi hành án dân sự nhằm
nâng cao hiệu quả thi hành án dân sự trong điều kiện mới của đất nước ta.
5. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp luận của việc nghiên cứu đề tài là chủ nghĩa duy vật biện chứng,
duy vật lịch sử và phép biện chứng của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
về nhà nước và pháp luật.
- Các phương pháp cụ thể được sử dụng kết hợp, đó là: Phương pháp nghiên
cứu lịch sử, phương pháp phân tích, phương pháp so sánh, phương pháp thống kê, tổng
hợp.
6. ý nghĩa và những điểm mới của luận văn
- Luận văn đã đưa ra và luận giải được một số quan điểm cơ bản về khái niệm
thi hành án và thi hành án dân sự, tìm hiểu đặc điểm, bản chất của thi hành án và thi
hành án dân sự, góp phần bổ sung, làm phong phú thêm cho hoạt động nghiên cứu khoa
học về pháp luật thi hành án.
- Từ việc đánh giá thực trạng pháp luật thi hành án dân sự, tác giả đã đưa ra
được những điểm bất cập cần sửa đổi, bổ sung nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật thi
hành án dân sự.
- Từ việc đánh giá thực tiễn thi hành án dân sự, tác giả đã phân tích những
nguyên nhân và đưa ra những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thi hành án dân sự.
7. Kết cấu của luận văn
ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3
chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về thi hành án dân sự.
Chương 2: Thực trạng pháp luật thi hành án dân sự và thực tiễn thi hành án dân
sự.
Chương 3: Những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thi hành án dân sự.
Chương 1
Cơ sở lý luận về thi hành án dân sự
1.1. Khái niệm, bản chất thi hành án dân sự
1.1.1. Khái niệm, bản chất thi hành án
Kể từ khi hoạt động thi hành án dân sự được chuyển giao từ Tòa án nhân dân
các cấp sang các cơ quan của Chính phủ thì khái niệm thi hành án (nhất là thi hành án
dân sự) trở thành đề tài tranh luận sôi nổi trên diễn đàn khoa học pháp lý. Có nhiều quan
điểm khác nhau dựa trên những lập luận và cách tiếp cận khác nhau về thi hành án
nhưng trong đó nổi lên hai quan điểm cơ bản, đó là quan điểm coi thi hành án là giai
đoạn tố tụng và quan điểm coi thi hành án là hoạt động hành chính - tư pháp [27].
Quan điểm thứ nhất cho rằng, thi hành án là giai đoạn cuối cùng của quá trình
tố tụng. Theo quan điểm này thì thi hành án là giai đoạn nằm trong quá trình giải quyết
vụ án, theo đó giai đoạn tố tụng trước của giai đoạn xét xử là giai đoạn chuẩn bị xét xử,
còn thi hành án là giai đoạn kế tiếp của giai đoạn xét xử, giai đoạn thực thi các phán
quyết của Tòa án trên thực tế. Căn cứ duy nhất để thi hành án là bản án, quyết định của
Tòa án nhân dân đã có hiệu lực pháp luật. Tính lệ thuộc của thi hành án vào công tác xét
xử được thể hiện ở việc khẳng định xét xử là tiền để của thi hành án. Trong quá trình thi
hành án, vai trò và trách nhiệm của Tòa án gắn chặt với hoạt động thi hành án, thể hiện
ở trách nhiệm của Tòa án trong việc "giải thích những điểm chưa rõ, có sai sót hoặc sai
lầm về số liệu" trong bản án, quyết định khi cơ quan thi hành án yêu cầu, hoặc thẩm
quyền của Tòa án trong việc hoãn thi hành án theo thời gian luật định, hay "xem xét,
kháng nghị để xét xử theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm đối với bản án quyết định có
vi phạm thủ tục tố tụng" khi cơ quan thi hành án kiến nghị. Hậu quả pháp lý của việc
xem xét theo trình tự này có thể làm thay đổi kết quả thi hành án hay cách thức tiến
hành thi hành án của cơ quan thi hành án.
Với quan điểm này, thi hành án được hiểu là giai đoạn kết thúc trình tự tố tụng,
là khâu cuối cùng kết thúc một vụ án được xét xử làm cho phán quyết của Tòa án có
hiệu lực pháp luật.
Quan điểm thứ hai, coi thi hành án là hoạt động hành chính - tư pháp. Theo
quan điểm này, quá trình tố tụng mà trọng tâm là việc xét xử của Tòa án chấm dứt khi
Tòa án ra phán quyết nhân danh Nhà nước, trong đó Tòa án đã xác định quyền, nghĩa vụ
các bên, còn việc thi hành phán quyết đó là giai đoạn khác, không thuộc quá trình tố
tụng. Thi hành án không phải là giai đoạn tố tụng, bởi vì "thi hành án có mục đích khác
với mục đích tố tụng, tố tụng là quá trình đi tìm sự thật của các vụ việc đã diễn ra trên
thực tế, trên cơ sở đó đưa ra phương án giải quyết vụ việc theo đúng quy định của pháp
luật, còn thi hành án là quá trình tiến hành các hoạt động nhằm thực hiện các bản án,
quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật" [34, tr.21].
Ngoài hai quan điểm cơ bản nêu trên, còn có quan điểm khác về thi hành án:
Quan điểm thứ ba khẳng định, thi hành án là hoạt động tư pháp [39, tr. 8]. Bởi vì,
gốc của hoạt động thi hành án là bản án, quyết định của Tòa án và các quyết định theo
quy định của pháp luật. Khi thực hiện nhiệm vụ, Cơ quan thi hành án phải thi hành theo
đúng quyết định của Tòa án chứ không phải theo mệnh lệnh hành chính. Thi hành án
phần lớn thông qua vai trò hoạt động của các cá nhân những người được Nhà nước giao
trách nhiệm thi hành các bản án, quyết định như Chấp hành viên, Giám thị viên hoặc
các cơ quan tổ chức và người có thẩm quyền khác. Hoạt động hành chính trong lĩnh vực
thi hành án chẳng qua cũng chỉ để đảm bảo phục vụ cho chức năng chính của cơ quan
thi hành án là tổ chức thi hành án theo quy định của pháp luật. Nếu cho rằng thi hành án
(nhất là thi hành án dân sự) là giai đoạn độc lập có tính hành chính - tư pháp vì hoạt
động thi hành án được thực hiện chủ yếu bởi các cơ quan của Chính phủ là không hợp
lý vì một hoạt động mang bản chất như thế nào không thể phụ thuộc nhiều vào chủ thể
thực hiện nó.
Quan điểm thứ tư, coi thi hành án là thủ tục tố tụng tư pháp [38, tr. 11]. Theo tác
giả thì không nên hiểu "tố tụng" chỉ là "thưa kiện tại Tòa án nói chung", là hoạt động của
cơ quan Tòa án xét xử để đi tìm "chân lý", mà cần xem xét đến bản chất của tố tụng. Đó
là việc thực hiện các quy định của pháp luật hình thức theo thủ tục nhất định để giải
quyết các quan hệ xã hội theo đúng sự điều chỉnh của pháp luật nội dung nhằm đảm bảo
lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Tố tụng được thực hiện
bởi nhiều cơ quan, hoạt động nào tuân theo thủ tục do pháp luật hình thức quy định là
hoạt động tố tụng. Do đó có nhiều loại tố tụng: tố tụng dân sự, tố tụng hình sự, tố tụng
hành chính, tố tụng thi hành án. Ngoài ra, khi xem xét về tính chất của việc thi hành án,
thì tất cả các bản án, quyết định của Tòa án và của Trọng tài đều có tính chất tư pháp
hiểu theo nghĩa rộng, tức không chỉ là việc xét xử mà bao gồm cả lĩnh vực bổ trợ tư
pháp. Vì tất cả những lý do nêu trên thi hành án được hiểu theo nghĩa rộng là thủ tục tố
tụng tư pháp.
Mỗi quan điểm trên đều có những lập luận và cơ sở khoa học riêng. Tuy nhiên,
theo chúng tôi, quan điểm thứ hai coi thi hành án là hoạt động hành chính- tư pháp là có
nhiều điểm hợp lý hơn cả. Bởi vì, thi hành án không chỉ đơn thuần là hoạt động mang tính
tư pháp, hay là giai đoạn cuối cùng của hoạt động tố tụng, cũng không nên hiểu tố tụng
theo một nghĩa không truyền thống như quan điểm thứ tư để coi thi hành án là hoạt động tố
tụng tư pháp. Mà bản chất thi hành án thể hiện cả hai đặc điểm rất rõ đó là tính hành chính
và tính tư pháp trong hoạt động của mình. Vì thế nên coi thi hành án là hoạt động hành
chính - tư pháp.
* Thi hành án với những đặc điểm của hoạt động quản lý hành chính
- Thi hành án là một hoạt động diễn ra sau quá trình xét xử của Tòa án. Các bản
án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật là cơ sở để tiến hành các hoạt động
thi hành án. Do đó, không có kết quả của hoạt động xét xử thì không có hoạt động thi
hành án. Là một dạng hoạt động hành chính nhà nước, thi hành án thể hiện tính chấp
hành, quản lý rất rõ "bởi toàn bộ quá trình thi thành án với những hoạt động, biện pháp,
cách thức khác nhau đều nhằm thực hiện những nội dung đã được thể hiện trong các
bản án, quyết định của Tòa án và theo các quy định cụ thể của pháp luật" [34].
- Trong quá trình thi hành án, Cơ quan thi hành án tác động tới đối tượng phải
thi hành án để họ tự giác thi hành hoặc cơ quan thi hành án áp dụng các biện pháp buộc
họ phải thực hiện nghĩa vụ đã được xác định trong bản án, quyết định của Tòa án, quyết
định khác theo quy định của pháp luật. Qua đó, giáo dục họ và những người xung quanh
về ý thức tôn trọng pháp luật, tôn trọng lợi ích của tập thể và cá nhân, kỷ cương của Nhà
nước. Để thực hiện được điều đó, yêu cầu của hoạt động thi hành án phải có tính kế
hoạch, tổ chức, đôn đốc, kiểm tra... đó là những tính chất của hoạt động quản lý.
- Đối với thi hành án, phương pháp giáo dục, thuyết phục là cần thiết nhưng
phương pháp mệnh lệnh, bắt buộc phải thực hiện lại mang tính đặc trưng (đặc biệt là
trong thi hành án hình sự).
Tuy nhiên, thi hành án không chỉ mang tính hành chính đơn thuần mà nó còn
thể hiện tính hành pháp.
* Thi hành án với những đặc điểm của hoạt động tư pháp
- Thi hành án chủ yếu do cơ quan tư pháp (theo nghĩa rộng) tiến hành.
Có nhiều cơ quan tham gia vào quá trình thi hành án, nhất là trong việc tổ chức
thi hành án các bản án và quyết định phức tạp. Nhưng thực tế đã chứng minh vai trò của
các cơ quan tư pháp là hết sức quan trọng. Trong hoạt động thi hành án dân sự, cơ quan
thi hành án là Phòng Thi hành án thuộc Sở Tư pháp, Đội Thi hành án thuộc phòng Tư
pháp..... Ngoài ra còn có sự phối hợp của các cơ quan, tổ chức khác như Công an, tài
chính...
- Hoạt động của cơ quan thi hành án phần lớn thông qua vai trò của các cá nhân
như Chấp hành viên, Giám thị viên... những người được Nhà nước giao trách nhiệm thi
hành các bản án, quyết định của Tòa án. Khi thi hành nhiệm vụ họ chỉ tuân theo pháp
luật, chịu trách nhiệm trước pháp luật và được pháp luật bảo vệ. Điều đó thể hiện tính
độc lập rất cao trong hoạt động nghiệp vụ thi hành án.
- Cơ sở để tiến hành các hoạt động thi hành án. Bao gồm các quy định của pháp
luật (được thể hiện trong các văn bản qui phạm pháp luật) và các bản án, quyết định của
Tòa án và các quyết định khác theo quy định của pháp luật (văn bản áp dụng pháp luật).
- Mục đích của hoạt động thi hành án là đảm bảo cho nội dung của các bản án,
quyết định nói trên được thực thi trên thực tế.
Xuất phát từ những đặc điểm nêu trên của thi hành án, có thể hiểu thi hành án
là hoạt động hành chính - tư pháp của Nhà nước, do các cơ quan Nhà nước, người có
thẩm quyền tiến hành theo trình tự, thủ tục luật định, nhằm đảm bảo thi hành các bản
án, quyết định của Tòa án hoặc quyết định khác của cơ quan có thẩm quyền.
1.1.2. Khái niệm, bản chất thi hành án dân sự
Vì thi hành án dân sự là một loại hình của thi hành án, nên cũng có thể hiểu thi
hành án dân sự là hoạt động hành chính - tư pháp của Nhà nước, do cơ quan thi hành
án tiến hành theo một trình tự, thủ tục luật định, nhằm đảm bảo thi hành các bản án,
quyết định về dân sự của Tòa án hoặc quyết định khác của cơ quan có thẩm quyền.
Trong khái niệm này, vấn đề cần tiếp tục làm rõ là phải hiểu như thế nào về
"dân sự" trong thi hành án?
Theo ý kiến thứ nhất thì "dân sự" được hiểu theo nghĩa hẹp. Cơ sở để đưa ra ý
kiến này xuất phát từ quy định của Điều 1 Bộ luật dân sự năm 1995 cho rằng, quan hệ
dân sự bao gồm quan hệ về tài sản và nhân thân phi tài sản phát sinh trong giao lưu dân
sự. Vì vậy, những bản án, quyết định dân sự trong thi hành án bao gồm bản án, quyết
định liên quan đến quan hệ tài sản và nhân thân phi tài sản (như bản án, quyết định về
tranh chấp các loại hợp đồng dân sự, về hôn nhân gia đình và một số loại bản án, quyết
định có tính chất dân sự).
ý kiến thứ hai hiểu "dân sự" theo nghĩa rộng. Theo pháp luật của nhiều nước trên
thế giới, việc tổ chức thi hành các bản án có nguồn gốc pháp luật về nội dung là luật tư
(luật dân sự, luật kinh doanh, thương mại, lao động) được thực hiện theo một thủ tục
chung qui định trọng bộ luật tố tụng dân sự [24].
Chúng tôi đồng ý với quan điểm thứ hai. Tuy nhiên, theo pháp luật Việt Nam
thì "dân sự" trong thi hành án cần được hiểu một cách cụ thể. Đó là: Những bản án,
quyết định về dân sự, hôn nhân gia đình, lao động, kinh tế; bản án, quyết định dân sự
của Tòa án nước ngoài; quyết định của Trọng tài nước ngoài được Tòa án Việt Nam
công nhận và cho thi hành tại Việt Nam; quyết định về dân sự, phạt tiền, tịch thu tài sản,
xử lý vật chứng, tài sản, truy thu tiền, tài sản, thu lợi bất chính, án phí trong bản án,
quyết định của Tòa án về hình sự; quyết định về phần tài sản trong bản án, quyết định
của Tòa án về hành chính; quyết định tuyên bố phá sản, quyết định của Trọng tài
thương mại Việt Nam (Điều 1 Pháp lệnh thi hành án dân sự năm 2004).
1.2. Vai trò, ý nghĩa của thi hành án dân sự
* Thi hành án dân sự góp