Trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế cùng với sự phát triển
mạnh mẽ của khoa học kỹ thuật và kinh tế tri thức, giáo dục đào tạo trở thành nền
tảng của sự phát triển khoa học công nghệ, tạo nguồn nhân lực chất lượng cao đáp
ứng nhu cầu phát triển của xã hội hiện đại và đóng vai trò chủ yếu trong việc nâng
cao ý thức dân tộc, tinh thần trách nhiệm của các thế hệ tương lai.
Giáo dục Việt Nam đang trong quá trình phát triển và hội nhập, cơ chế hệ
thống quản lý giáo dục ngày càng được tăng cường phân cấp, phân quyền nhằm nâng
cao hiệu quả quản lý nhà nước trong giáo dục. Trước áp lực phải đáp ứng tốt hơn
những yêu cầu ngày càng cao về chất lượng giáo dục, đào tạo nguồn nhân lực trong
thời kỳ công nghiệp hóa - hiện đại hóa. Cán bộ quản lý (CBQL) trường trung học phổ
thông (THPT) phải là người năng động, sáng tạo và đổi mới, nắm vững các lý thuyết
về quản lý, lãnh đạo, nhận thức được các thế mạnh và các mặt hạn chế, tạo ra sự thay
đổi trong nhà trường, huy động được mọi nguồn lực và sử dụng nó một cách hiệu quả
nhất để phát triển giáo dục đào tạo của nhà trường
96 trang |
Chia sẻ: duongneo | Lượt xem: 2278 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Thực trạng và giải pháp phát triển đội ngũ cán bộ quản lý trường trung học phổ thông tại thành phố Cần Thơ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH
_________________________________
Nguyễn Hữu Phi
THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN
ĐỘI NGŨ CÁN BỘ QUẢN LÝ
TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
TẠI THÀNH PHỐ CẦN THƠ
Chuyên ngành : Quản lý Giáo dục
Mã số : 60 14 05
LUẬN VĂN THẠC SĨ GIÁO DỤC HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. NGUYỄN THỊ BÍCH HẠNH
Thành phố Hồ Chí Minh - 2009
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế cùng với sự phát triển
mạnh mẽ của khoa học kỹ thuật và kinh tế tri thức, giáo dục đào tạo trở thành nền
tảng của sự phát triển khoa học công nghệ, tạo nguồn nhân lực chất lượng cao đáp
ứng nhu cầu phát triển của xã hội hiện đại và đóng vai trò chủ yếu trong việc nâng
cao ý thức dân tộc, tinh thần trách nhiệm của các thế hệ tương lai.
Giáo dục Việt Nam đang trong quá trình phát triển và hội nhập, cơ chế hệ
thống quản lý giáo dục ngày càng được tăng cường phân cấp, phân quyền nhằm nâng
cao hiệu quả quản lý nhà nước trong giáo dục. Trước áp lực phải đáp ứng tốt hơn
những yêu cầu ngày càng cao về chất lượng giáo dục, đào tạo nguồn nhân lực trong
thời kỳ công nghiệp hóa - hiện đại hóa. Cán bộ quản lý (CBQL) trường trung học phổ
thông (THPT) phải là người năng động, sáng tạo và đổi mới, nắm vững các lý thuyết
về quản lý, lãnh đạo, nhận thức được các thế mạnh và các mặt hạn chế, tạo ra sự thay
đổi trong nhà trường, huy động được mọi nguồn lực và sử dụng nó một cách hiệu quả
nhất để phát triển giáo dục đào tạo của nhà trường.
Cũng như cả nước, đội ngũ CBQL trường THPT của thành phố (TP) Cần Thơ
được bổ nhiệm từ lực lượng giáo viên nên có mặt tích cực là hiểu biết rất tốt thực
trạng hoạt động của nhà trường. Tuy nhiên, việc chuyển đổi từ vai trò giáo viên sang
vai trò quản lý trong khi chưa được đào tạo, bồi dưỡng những tri thức mới về quản lý
trường học, còn thiếu kiến thức về pháp luật, yếu kém về ngoại ngữ, tin học đã gây
ra nhiều khó khăn, hạn chế trong thực thi trách nhiệm và quyền hạn, đặc biệt khi
được Nhà nước tăng cường quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm. Bên cạnh đó, công tác
phát triển đội ngũ CBQL trường THPT của thành phố Cần Thơ vẫn còn nhiều bất
cập, chưa giải quyết hết những mâu thuẫn mới nảy sinh giữa yêu cầu tiếp cận và đổi
mới theo phương thức quản lý trường học hiện đại trên thế giới trong khi trình độ,
năng lực của đội ngũ CBQL còn hạn chế.
Xuất phát từ tình hình thực tiễn trên với mong muốn góp phần vào sự nghiệp
phát triển giáo dục bậc THPT của thành phố Cần Thơ trong thời kỳ đổi mới và hội
nhập với giáo dục thế giới, chúng tôi chọn đề tài "Thực trạng và giải pháp phát
triển đội ngũ CBQL trường THPT tại thành phố Cần Thơ” để nghiên cứu.
2. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở khảo sát thực trạng đội ngũ CBQL trường THPT tại TP Cần Thơ,
đề xuất một số giải pháp phát triển đội ngũ CBQL trường THPT góp phần nâng cao
chất lượng giáo dục bậc THPT của địa phương trong giai đoạn hiện nay.
3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
3.1. Khách thể nghiên cứu: Phát triển đội ngũ CBQL giáo dục.
3.2. Đối tượng nghiên cứu: Thực trạng và giải pháp phát triển đội ngũ CBQL
trường THPT.
4. Giả thuyết khoa học
Đội ngũ cán bộ quản lý trường THPT tại thành phố Cần Thơ còn hạn chế về cơ
cấu và chất lượng. Các giải pháp phát triển đội ngũ này còn nhiều bất cập trong giai
đoạn đổi mới giáo dục THPT. Cần đề xuất các giải pháp phát triển đội ngũ CBQL
trường THPT góp phần nâng cao chất lượng và hiệu quả giáo dục của bậc học này.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
5.1. Nghiên cứu cơ sở lý luận về phát triển đội ngũ CBQL trường học.
5.2. Khảo sát thực trạng và các biện pháp phát triển đội ngũ CBQL trường
THPT tại thành phố Cần Thơ.
5.3. Đề xuất một số giải pháp phát triển đội ngũ CBQL trường THPT trong giai
đoạn hiện nay và sắp tới.
6. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài chỉ nghiên cứu thực trạng phát triển đội ngũ CBQL (gồm Hiệu trưởng,
phó Hiệu trưởng) của 24 trường THPT trên địa bàn TP Cần Thơ.
7. Phương pháp nghiên cứu
7.1. Phương pháp luận
- Quan điểm hệ thống - cấu trúc.
- Quan điểm lịch sử.
- Quan điểm thực tiễn.
7.2. Phương pháp nghiên cứu
- Các phương pháp nghiên cứu lý luận: Phân tích, so sánh, trừu tượng hóa, khái
quát hóa và tổng hợp các công trình nghiên cứu, văn kiện, văn bản, các nghị quyết,
tài liệu, sách, báo, thông tin trên mạng internet có liên quan đến đề tài.
- Các phương pháp nghiên cứu thực tiễn:
Phương pháp điều tra bằng phiếu: Xây dựng bảng hỏi cho đội ngũ CBQL và
giáo viên trường THPT.
Phương pháp trò chuyện và phỏng vấn: Trao đổi, phỏng vấn CBQL của Sở
Giáo dục và Đào tạo, CBQL trường THPT.
Phương pháp quan sát: Quan sát CBQL trong công việc đang đảm nhận, ghi
nhận những biểu hiện về năng lực quản lý ở CBQL.
Phương pháp lấy ý kiến chuyên gia.
- Phương pháp toán thống kê: Sử dụng phần mềm SPSS for window để xử lý
số liệu thu thập được từ các điều tra bằng bảng hỏi.
8. Những đóng góp của đề tài
- Nhận xét, đánh giá đúng thực trạng đội ngũ CBQL và phát triển CBQL
trường THPT tại TP Cần Thơ.
- Đề xuất các giải pháp phát triển đội ngũ CBQL trường THPT tại TP Cần Thơ
trong giai đoạn hiện nay và những năm tiếp theo, góp phần nâng cao chất lượng và
hiệu quả giáo dục của bậc học này.
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI
1.1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Quá trình hội nhập và đổi mới phát triển giáo dục đang diễn ra ở quy mô toàn
cầu tạo cơ hội tốt cho giáo dục Việt Nam nhanh chóng tiếp cận với các xu thế mới, tri
thức mới. Phát triển giáo dục đào tạo nói chung và phát triển đội ngũ CBQL giáo dục
đáp ứng theo của từng giai đoạn phát triển của đất nước luôn là vấn đề được Đảng và
Chính phủ quan tâm chỉ đạo thực hiện thông qua các văn bản chỉ đạo, nghị quyết,
thông tư, quyết định
Chiến lược phát triển giáo dục 2001-2010 của Chính phủ đã khẳng định “Xây
dựng và thực hiện chuẩn hoá đội ngũ CBQL giáo dục. Đào tạo và bồi dưỡng thường
xuyên đội ngũ CBQL giáo dục các cấp về kiến thức, kỹ năng quản lý và rèn luyện
phẩm chất đạo đức; đồng thời điều chỉnh, sắp xếp lại cán bộ theo yêu cầu mới phù
hợp với năng lực và phẩm chất của từng người”.[10]
Chỉ thị số 40-CT/TW ngày 15 tháng 6 năm 2004 của Ban Bí thư TW Đảng về
việc xây dựng và nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo và CBQL giáo dục cũng nêu
rõ tăng cường xây dựng đội ngũ nhà giáo và CBQL giáo dục một cách toàn diện là
nhiệm vụ vừa đáp ứng yêu cầu trước mắt, vừa mang tính chiến lược lâu dài, nhằm
thực hiện thành công Chiến lược phát triển giáo dục 2001-2010 và chấn hưng đất
nước. [1]
Dự án hỗ trợ đổi mới quản lý giáo dục (SREM) được bắt đầu thực hiện vào
tháng 4 năm 2006, theo kết quả của Hiệp định tài chính AIDCO/VNM/2004/016-841
giữa Cộng đồng Châu Âu và Chính phủ nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam,
được ký kết tại Brussel ngày 18/07/2005 và ký kết tại Hà Nội ngày 01/09/2005. Mục
tiêu tổng thể của dự án nhằm hỗ trợ Bộ giáo dục và Đào tạo thực hiện các mục tiêu đề
ra trong Chiến lược phát triển giáo dục của Việt Nam giai đoạn 2001- 2010, trong đó
một trong các hoạt động chính của Dự án là đào tạo về quản lý cho hiệu trưởng
trường phổ thông đã cho thấy tầm quan trọng của đội ngũ CBQL nhà trường trong sự
nghiệp phát triển giáo dục đào tạo nước nhà.
Đối với khu vực đồng bằng sông Cửu Long, công tác phát triển đội ngũ CBQL
giáo dục cũng được Chính phủ quan tâm chỉ đạo thể hiện qua việc ban hành Quyết
định số 20/2006/QĐ-TTg với trọng tâm “Xây dựng quy hoạch tổng thể phát triển đội
ngũ giáo viên, giảng viên và cán bộ quản lý giáo dục các cấp, bảo đảm đủ về số
lượng, đồng bộ về cơ cấu và đạt các tiêu chuẩn chất lượng về trình độ chuyên môn,
nghiệp vụ”. [12]
Trong những năm gần đây, trước nhiệm vụ đổi mới và phát triển giáo dục đào
tạo nước nhà, đã có nhiều tác giả nghiên cứu về quản lý và phát triển đội ngũ CBQL
giáo dục, CBQL trường học theo hướng xây dựng các tiêu chuẩn cần thiết về năng
lực thực tiễn, kỹ năng thực hành theo yêu cầu công việc, nâng cao tính chủ động, hiện
đại, gắn khoa học với thực tiễn trong quản lý như: PGS.TS Nguyễn Đức Trí đã nêu
lên một số vấn đề cần quan tâm trong công tác bồi dưỡng năng lực cho CBQL trường
học; ThS. Nguyễn Thị Tuyết Hạnh viết về các kỹ năng quản lý then chốt, cần thiết để
giúp người Hiệu trưởng thành công [19]; ThS. Thân Văn Quân nghiên cứu về bồi
dưỡng, phát triển đội ngũ nhà giáo và CBQL trong thời kỳ hội nhập [33]; TS. Cao
Duy Bình nghiên cứu về tiêu chí đánh giá người Hiệu trưởng trường phổ thông [9].
Ngoài ra, còn có một số luận văn thạc sĩ về thực trạng và giải pháp phát triển đội ngũ
CBQL giáo dục trường THPT của học viên trường Đại học Sư phạm thành phố Hồ
Chí Minh như: “Các giải pháp xây dựng, phát triển giáo viên và đội ngũ CBQL
trường THPT tỉnh Quảng Nam giai đoạn 2006-2010” của tác giả Phạm Đình Ly [25];
“Một số biện pháp nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ quản lý trường THPT tỉnh
Bình Dương” của tác giả Nguyễn Hồng Sáng [38]. Các tác giả đã dựa trên thực trạng
kinh tế xã hội của từng địa phương đã đi sâu nghiên cứu, phân tích vai trò, vị trí của
CBQL trường THPT và đề xuất các giải pháp phù hợp, đóng góp đáng kể về lý luận
và thực tiễn cho công tác quản lý trong nhà trường.
Đối với Cần Thơ, UBND TP và Sở Giáo dục và Đào tạo đã chủ động triển
khai thực hiện Chỉ thị số 40/CT-TW ngày 15/6/2004 của Ban Bí thư Trung ương
Đảng về xây dựng, nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục
thông qua Đề án “Quy hoạch phát triển giáo dục và đào tạo TP Cần Thơ giai đoạn
2006-2010 và định hướng đến năm 2020” với mục tiêu nghiên cứu thực trạng nhu
cầu sử dụng nguồn nhân lực giáo dục của TP Cần Thơ, từ đó xây dựng kế hoạch dự
báo và quy hoạch phát triển đội ngũ CBQL, giáo viên cho hệ thống giáo dục đào tạo
của địa phương.
Trước những yêu cầu cấp đổi mới mang tính cấp bách để nâng cao chất lượng
giáo dục đào tạo trong bối cảnh giáo dục Việt Nam hội nhập với giáo dục thế giới,
chúng tôi nhận thấy cần tiếp tục nghiên cứu thêm về thực trạng đội ngũ CBQL trường
THPT tại TP Cần Thơ trong giai đoạn hiện nay, từ đó đề xuất các giải pháp phát triển
toàn diện đội ngũ này, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục đào tạo của địa
phương, hoàn thành chiến lược giáo dục giai đoạn II (2006-2010) và các năm tiếp
sau.
1.2. Một số khái niệm cơ bản của đề tài
1.2.1. Quản lý giáo dục
Quản lý Giáo dục (QLGD) được hiểu ở nhiều cấp độ vĩ mô hay vi mô nên khái
niệm quản lý giáo dục cũng được hiểu theo nhiều cấp độ rộng, hẹp.
Theo Từ điển giáo dục học “QLGD gồm hai mặt lớn là quản lý nhà nước về
giáo dục và quản lý nhà trường và các cơ sở giáo dục khác. QLGD là việc thực hiện
và giám sát những chính sách giáo dục, đào tạo trên cấp độ quốc gia, vùng, địa
phương và cơ sở”. [42, tr.327]
Theo GS. Nguyễn Ngọc Quang thì “QLGD là hệ thống tác động có mục đích
có kế hoạch của chủ thể quản lý (hệ giáo dục) nhằm làm cho hệ vận hành theo đường
lối và nguyên lý giáo dục của Đảng, thực hiện được các tính chất của nhà trường Xã
hội Chủ nghĩa Việt Nam, mà tiêu điểm hội tụ là quá trình dạy học - giáo dục thế hệ
trẻ, đưa hệ giáo dục tới mục tiêu dự kiến, tiến lên trạng thái mới về chất”. [32]
Tác giả Trần Kiểm định nghĩa: “QLGD được hiểu là những tác động tự giác
(có ý thức, có mục đích, có kế hoạch, có hệ thống, hợp quy luật) của chủ thể quản lý
đến tất cả các mắt xích của hệ thống (từ cấp cao nhất đến các cơ sở giáo dục là nhà
trường) nhằm thực hiện có chất lượng và hiệu quả mục tiêu phát triển GD và ĐT thế
hệ trẻ mà xã hội đặt ra cho ngành GD”. [24, tr.36-37]
Quản lý hệ thống giáo dục có thể xác định là tác động của hệ thống có kế
hoạch, có ý thức và hướng đích của chủ thể quản lý ở các cấp khác nhau đến tất cả
các mắt xích của hệ thống (từ Bộ đến trường) nhằm mục đích đảm bảo việc hình
thành nhân cách cho thế hệ trẻ trên cơ sở nhận thức và vận dụng những quy luật
chung của xã hội cũng như các quy luật của quá trình giáo dục, của sự phát triển thể
lực và tâm lý.
Theo nghĩa rộng, QLGD là hoạt động điều hành phối hợp các lực lượng giáo
dục nhằm đẩy mạnh công tác GD-ĐT thế hệ trẻ theo yêu cầu phát triển của xã hội.
Theo nghĩa hẹp, QLGD thực chất là những tác động của chủ thể quản lý vào
quá trình giáo dục (được tiến hành bởi tập thể giáo viên và học sinh với sự hỗ trợ đắc
lực của các lực lượng xã hội) nhằm hình thành và phát triển toàn diện nhân cách học
sinh theo mục tiêu đào tạo của nhà trường.
Có thể thấy các khái niệm về QLGD đều thống nhất với nhau về nội dung và
bản chất của quản lý là tác động của nhà quản lý giáo dục đến tập thể giáo viên, học
sinh và các lượng khác trong xã hội nhằm thực hiện có hệ thống các mục tiêu giáo
dục. Nói một cách khác, bản chất của QLGD là sự phối hợp, nỗ lực của các chủ thể
giáo dục thông qua các chức năng quản lý.
1.2.2. Chức năng của quản lý giáo dục
Các tác giả nghiên cứu về QLGD đưa ra các ý kiến khác nhau về chức năng
của QLGD, nhưng hầu hết đều đề cập đến bốn chức năng sau:
- Kế hoạch hóa trong QLGD;
- Tổ chức thực hiện kế hoạch giáo dục và phát triển giáo dục;
- Điều khiển (chỉ đạo) các lực lượng tham gia quản lý và thực hiện công tác
giáo dục;
- Kiểm tra, đánh giá kết quả các hoạt động giáo dục nhằm nâng cao chất lượng
và hiệu quả giáo dục.
Mỗi chức năng QLGD được thể hiện trong nhà trường dưới hình thức là một
loại hoạt động bao gồm một hệ thống các công việc khác nhau và có tính chuyên môn
hóa.
a. Chức năng kế hoạch hóa
Người CBQL trường học cần xác định được các mục tiêu phát triển của nhà
trường và chương trình hành động phải được cụ thể hóa trước khi tiến hành thực hiện.
Kế hoạch GD trong nhà trường bao gồm:
- Kế hoạch chiến lược dài hạn thực hiện trong một nhiệm kỳ 5 năm (những
định hướng lớn, thể hiện hình ảnh hiện thực trong tương lai mà nhà trường mong
muốn đạt tới và các giải pháp chiến lược để đạt được trên cơ sở khả năng hiện tại);
- Kế hoạch năm học (định ra cho toàn bộ các mặt công tác, các hoạt động của
nhà trường trong một năm học);
- Kế hoạch tác nghiệp cho một thời kỳ ngắn (kế hoạch ngày, tuần, tháng, quý).
Tập trung vào những hoạt động nâng cao chất lượng giảng dạy và giáo dục, xây dựng
cơ sở vật chất nhà trường, trang thiết bị phục vụ cho hoạt động dạy và học; quản lý
tài chính, thanh tra, kiểm tra nội bộ; tổ chức các hoạt động đoàn thể trong nhà trường
và tạo mối quan hệ gắn bó nhà trường với chính quyền địa phương và cha mẹ học
sinh, xác định các công việc chi tiết để thực hiện, thời gian bắt đầu và thời gian hoàn
thành, các nguồn lực, người thực hiện và kết quả cụ thể [13].
• Yêu cầu lập kế hoạch
- Kế hoạch lập ra phải đáp ứng mục tiêu giáo dục, phù hợp với tình hình của cơ
sở giáo dục, có nội dung, định mức, hạn mức và nguồn lực, vật thực thực hiện để kế
hoạch mang tính khả thi, tính hiệu quả.
- Nghiên cứu kỹ mục tiêu giáo dục, chỉ thị, nghị quyết về giáo dục của cấp
trên, khảo sát, nắm vững thực tế của nhà trường từ đó nội dung quan trọng, cấp bách
đưa vào kế hoạch để kế hoạch vừa mang tính lý thuyết vừa mang tính thực tiễn.
b. Chức năng tổ chức trong quản lý trường học
Là sắp xếp những yếu tố, những con người và những hoạt động trong nhà
trường một cách khoa học, hợp tình, hợp lý. Trên cơ sở phân tích để hình dung toàn
bộ khối lượng công việc, lựa chọn những việc cần thiết và quan trọng nhất, ví dụ
công tác bố trí, sử dụng cán bộ, giáo viên, và việc kiểm tra và giao trách nhiệm, ủy
quyền cho cấp phó quản lý các mặt công tác còn lại. Đồng thời phân công, giao trách
nhiệm cụ thể, rõ ràng trong toàn bộ hệ thống quản lý theo nguyên tắc mỗi người được
giao một công việc cụ thể, với trách nhiệm cá nhân rõ ràng và quyền hạn cụ thể. [14,
tr.129]
c. Chức năng điều khiển (chỉ đạo)
Người CBQL thực hiện chức năng điều khiển với vai trò là người thủ lĩnh của
tập thể sư phạm và của hoạt động giáo dục trong nhà trường thông qua các hình thức:
- Các chỉ thị, quyết định thông qua hệ thống pháp quy được xây dựng trên cơ
sở kế hoạch. Trước khi ra quyết định cần tạo điều kiện cho tập thể cán bộ, giáo viên
thảo luận, góp ý và tìm ra giải pháp thực hiện tốt nhất nhiệm vụ được giao, động viên
mọi thành viên cùng tham gia thực hiện kế hoạch.
- Giám sát các hoạt động sao cho các trạng thái vận hành thực hiện theo đúng
kế hoạch và không làm thay đổi mục tiêu chiến lược đã được đề ra. Ví dụ, chỉ đạo
xây dựng nền nếp dạy và học, chỉ đạo tổ chức sinh hoạt tổ (nhóm) chuyên môn, thực
hiện nghiêm túc kế hoạch giảng dạy, về thực hiện chương trình, kế hoạch dạy học các
bộ môn, về hồ sơ chuyên môn, hồ sơ cá nhân để đạt mục tiêu đề ra tốt nhất.
Khi thực hiện chức năng điều khiển cần bám sát quá trình thực hiện kế hoạch,
thu thập thông tin chính xác, biết phân tích, xử lý các nguồn thông tin và đưa ra kết
luận đúng đắn để kịp thời điều chỉnh, sửa chữa kế hoạch để đạt hiệu quả tối ưu cho
hoạt động giáo dục từ đó nâng cao uy tín của người lãnh đạo nhà trường. Chú ý đảm
bảo nguyên tắc phù hợp pháp luật của Nhà nước, thực hiện nghiêm túc các văn bản
pháp quy, quy chế của ngành giáo dục và đào tạo.
Người CBQL trường THPT không nên ôm đồm bao biện, không quá tập trung
những việc có thể chuyển giao trách nhiệm giải quyết cho cấp dưới, đồng thời kiên
quyết khắc phục tình trạng chung chung, đại khái, không đi sâu vào nghiên cứu giải
quyết những vấn đề then chốt, khoán trắng, buông trôi, không tự xác định cho mình
trách nhiệm kiểm tra việc thực hiện các quyết định đã đề ra. [14]
d. Chức năng kiểm tra
- Kiểm tra, đánh giá là chức năng không thể thiếu của người quản lý. Kiểm tra
là xem xét, đánh giá các hoạt động cá nhân và các tổ chức thuộc quyền quản lý so với
kế hoạch và mục tiêu đã đề. Từ đó, điều chỉnh, uốn nắn những sai lệch kịp thời trong
quá trình thực hiện.
- Kiểm tra còn là một trong những điều kiện cơ bản để nâng cao hiệu quả quản
lý quá trình giáo dục trong nhà trường. Việc kiểm tra, đánh giá phải dựa trên các tiêu
chuẩn được xây dựng từ mục tiêu. Nhờ vậy, việc kiểm tra, đánh giá mới chính xác,
khách quan. Kết quả của việc kiểm tra là khẳng định điều làm được hoặc chưa làm
được theo kế hoạch. Từ đó, CBQL có các quyết định chỉ đạo tiếp để đạt được mục
tiêu.
Khi tiến hành kiểm tra, người CBQL cần phối hợp nhiều cách thức khác nhau
như thông qua hồ sơ, sổ sách, trao đổi với giáo viên, cha mẹ học sinh, bản thân học
sinh, với các tổ chức trong nhà trường để thu được thông tin khách quan, đáng tin
cậy, toàn diện, đầy đủ và kịp thời. Việc kiểm tra phải hướng vào mục tiêu là nâng cao
chất lượng giáo dục học sinh; Không nên quá chú trọng vào kết quả thu được của sự
việc mà cần chú ý phân tích nguyên nhân sinh ra nó. Hình thức kiểm tra cần đa dạng
như kiểm tra đột xuất, kiểm tra định kỳ và kiểm tra thường xuyên, kiểm tra theo
chuyên đề [34, tr.212]
1.2.3. Quản lý trường học
a. Khái niệm
Trường học là tổ chức giáo dục cơ sở mang tính chất Nhà nước - xã hội, trực
tiếp làm công tác giáo dục, đào tạo thế hệ trẻ, trực tiếp tham gia vào quá trình thực
hiện mục tiêu nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài cho đất nước.
Nhà trường được thành lập theo qui hoạch, kế hoạch của Nhà nước nhằm phát triển
sự nghiệp giáo dục. Trường học là cơ quan hành chính Nhà nước đồng thời là một tổ
chức mang tính xã hội. Do đó quản lý trường học vừa có tính Nhà nước vừa có tính
chất xã hội. Nhà nước và xã hội cùng chăm lo xây dựng và quản lý nhà trường. Quản
lý Nhà nước các cấp phải nhằm mục đích tạo mọi điều kiện tối ưu cho sự phát triển
của trường học, nâng cao chất lượng và hiệu quả giáo dục, đào tạo học sinh.
Quản lý trường học chính là quản lý giáo dục ở cấp vi mô, là những tác động
tự giác (có ý thức, có mục đích, có kế hoạch, có hệ thống, hợp quy luật) của chủ thể
quản lý đến tập thể cán bộ, giáo viên, tập thể học sinh, cha mẹ học sinh, các tổ chức,
các lực lượng xã hội trong và ngoài nhà trường nhằm thực hiện có chất lượng và hiệu
q