Luận văn Thực trạng và những giải pháp chủ yếu nhằm hoàn thiện cơ chế, chính sách đối với các lâm trường quốc doanh trong giai đoạn đến 2010

Lâm trường quốc doanh là tổ chức kinh tế có vị trí quan trọng nhất trong hệ thống tổ chức sản xuất của ngành lâm nghiệp, được giao quản lý và sử dụng đại bộ phận tài nguyên rừng tự nhiên hiện còn của nước ta. Lâm trường quốc doanh đã từng giữ vai trò chủ lực trong việc thực hiện nhiệm vụ của ngành lâm nghiệp: khai thác, cung ứng lâm sản đáp ứng nhu cầu của nền kinh tế quốc dân, trồng rừng mới, bảo vệ rừng và góp phần phát triển kinh tế xã hội trên địa bàn, miền núi, vùng dân tộc. Trong những năm qua thực hiện đường lối đổi mới kinh tế của Đảng và Nhà nước, Lâm trường quốc doanh đã có những chuyển biến quan trọng cả về tổ chức và cơ chế quản lý nhằm góp phần tích cực vào sự nghiệp phát triển nghề rừng bền vững. Tuy nhiên với đặc thù của loại hình doanh nghiệp lâm nghiệp, hoạt động sản xuất kinh doanh liên quan chặt chẽ đến tư liệu sản xuất là rừng và đất rừng, bảo vệ và phát triển môi trường sinh thái, giữ vững an ninh quốc phòng và phát triển kinh tế xã hội nông thôn miền núi. Việc đổi mới tổ chức và quản lý Lâm trường quốc doanh vừa qua vẫn còn nhiều vấn đề chưa rõ dẫn đến tình trạng khó khăn trong hoạt động và phát triển của nhiều lâm trường, hiệu quả khai thác toàn diện tiềm năng tài nguyên rừng và đất lâm nghiệp còn thấp , đời sống của người lao động đang gặp nhiều khó khăn. Lâm trường chưa làm tốt vai trò nòng cốt trong quản sản xuất, trung tâm dịch vụ khoa học kỹ thuật trên địa bàn. Tiếp tục thực hiện các nghiên cứu về đổi mới tổ chức, cơ chế quản lý, chính sách đối với Lâm trường quốc doanh nhằm phát hiện những vấn đề vướng mắc và đề xuất những giải pháp, chính sách nhằm hoàn thiện đổi mới hệ thống Lâm trường quốc doanh là vấn đề cần thiết góp phần thúc đẩy quá trình thực hiện công cuộc cải cách doanh nghiệp Nhà nước trong lĩnh vực lâm nghiệp. Vì vậy, tôi lựa chọn đề tài: “Thực trạng và những giải pháp chủ yếu nhằm hoàn thiện cơ chế, chính sách đối với các Lâm trường quốc doanh trong giai đoạn đến 2010” làm đề tài cho luận văn tốt nghiệp của mình. Ngoài phần lời nói đầu và kết luận, kết cấu luận văn bao gồm: Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn về đổi mới Lâm trường quốc doanh trong nền kinh tế nhiều thành phần. Chương 2: Thực trạng các Lâm trường quốc doanh trong thời gian qua. Chương 3: Những giải pháp chủ yếu nhằm hoàn thiện cơ chế, chính sách đối với các Lâm trường quốc doanh trong giai đoạn đến 2010.

doc100 trang | Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 1960 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Thực trạng và những giải pháp chủ yếu nhằm hoàn thiện cơ chế, chính sách đối với các lâm trường quốc doanh trong giai đoạn đến 2010, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI NÓI ĐẦU Lâm trường quốc doanh là tổ chức kinh tế có vị trí quan trọng nhất trong hệ thống tổ chức sản xuất của ngành lâm nghiệp, được giao quản lý và sử dụng đại bộ phận tài nguyên rừng tự nhiên hiện còn của nước ta. Lâm trường quốc doanh đã từng giữ vai trò chủ lực trong việc thực hiện nhiệm vụ của ngành lâm nghiệp: khai thác, cung ứng lâm sản đáp ứng nhu cầu của nền kinh tế quốc dân, trồng rừng mới, bảo vệ rừng và góp phần phát triển kinh tế xã hội trên địa bàn, miền núi, vùng dân tộc. Trong những năm qua thực hiện đường lối đổi mới kinh tế của Đảng và Nhà nước, Lâm trường quốc doanh đã có những chuyển biến quan trọng cả về tổ chức và cơ chế quản lý nhằm góp phần tích cực vào sự nghiệp phát triển nghề rừng bền vững. Tuy nhiên với đặc thù của loại hình doanh nghiệp lâm nghiệp, hoạt động sản xuất kinh doanh liên quan chặt chẽ đến tư liệu sản xuất là rừng và đất rừng, bảo vệ và phát triển môi trường sinh thái, giữ vững an ninh quốc phòng và phát triển kinh tế xã hội nông thôn miền núi. Việc đổi mới tổ chức và quản lý Lâm trường quốc doanh vừa qua vẫn còn nhiều vấn đề chưa rõ dẫn đến tình trạng khó khăn trong hoạt động và phát triển của nhiều lâm trường, hiệu quả khai thác toàn diện tiềm năng tài nguyên rừng và đất lâm nghiệp còn thấp , đời sống của người lao động đang gặp nhiều khó khăn. Lâm trường chưa làm tốt vai trò nòng cốt trong quản sản xuất, trung tâm dịch vụ khoa học kỹ thuật trên địa bàn. Tiếp tục thực hiện các nghiên cứu về đổi mới tổ chức, cơ chế quản lý, chính sách đối với Lâm trường quốc doanh nhằm phát hiện những vấn đề vướng mắc và đề xuất những giải pháp, chính sách nhằm hoàn thiện đổi mới hệ thống Lâm trường quốc doanh là vấn đề cần thiết góp phần thúc đẩy quá trình thực hiện công cuộc cải cách doanh nghiệp Nhà nước trong lĩnh vực lâm nghiệp. Vì vậy, tôi lựa chọn đề tài: “Thực trạng và những giải pháp chủ yếu nhằm hoàn thiện cơ chế, chính sách đối với các Lâm trường quốc doanh trong giai đoạn đến 2010” làm đề tài cho luận văn tốt nghiệp của mình. Ngoài phần lời nói đầu và kết luận, kết cấu luận văn bao gồm: Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn về đổi mới Lâm trường quốc doanh trong nền kinh tế nhiều thành phần. Chương 2: Thực trạng các Lâm trường quốc doanh trong thời gian qua. Chương 3: Những giải pháp chủ yếu nhằm hoàn thiện cơ chế, chính sách đối với các Lâm trường quốc doanh trong giai đoạn đến 2010. Mục đích nghiên cứu luận văn: Làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn về đổi mới Lâm trường quốc doanh trong nền kinh tế nhiều thành phần, nêu rõ vị trí, vai trò tầm quan trọng của Lâm trường quốc doanh trong hệ thống lâm nghiệp; Nêu rõ thực trạng của Lâm trường quốc doanh trong giai đoạn đầu thực hiện đổi mới từ đó thấy được sự cần thiết phải thực hiện đổi mới và đề xuất một số giải pháp chủ yếu để hoàn thiện cơ chế, chính sách đối với các lâm trường quốc doanh trong giai đoạn đến 2010. Trong thời gian qua, em đã cố gắng vận dụng những kiến thức của mình để đi sâu nghiên cứu vào việc hoàn thiện về cơ chế chính sách đối với các Lâm trường quốc doanh. Vì thời gian nghiên cứu và tài liệu tham khảo có hạn, bài viết không thể tránh khỏi những thiếu sót. Vì vậy, em rất mong được sự thông cảm và chỉ bảo tận tình các thầy, cô và các cán bộ trong Vụ Kinh tế Nông nghiệp để em có thể khắc phục những thiếu sót của mình. Em xin chân thành cảm ơn sự chỉ bảo tận tình của thầy- TS. Nguyễn Thanh Hà và chuyên viên Đinh Ngọc Minh- người đã hướng dẫn em trong quá trình thực tập cùng các cán bộ trong Vụ Kinh tế Nông nghiệp thuộc Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã giúp đỡ em hoàn thành bản luận văn này. Em rất mong nhận được sự góp ý của các thầy cô giáo và bạn đọc để bài viết được hoàn thiện hơn. CHUƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ ĐỔI MỚI LÂM TRƯỜNG QUỐC DOANH TRONG NỀN KINH TẾ NHIỀU THÀNH PHẦN. Khái niệm và vai trò của nền Kinh tế nhiều thành phần. Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội có nhiều đặc điểm, nhưng đặc điểm nổi bật là cơ cấu kinh tế nhiều thành phần. Theo quan điểm chính trị học, thành phần kinh tế là khu vực kinh tế, kiểu quan hệ kinh tế dựa trên cơ sở chế độ sở hữu về tư liệu sản xuất . Cơ cấu kinh tế nhiều thành phần tồn tại không phải do ý muốn chủ quan của Nhà nước, nó xuất hiện, tồn tại và phát triển phụ thuộc vào những tiền đề kinh tế và chính trị khách quan của nền kinh tế. Trong cơ cấu này, mỗi thành phần kinh tế luôn có vai trò, vị trí và vận động, phát triển theo một xu hướng nhất định. Xuất phát từ tính quy luật vốn có của nền kinh tế thị trường, có thể thấy, các thành phần kinh tế đều vận động hướng đến mục tiêu lợi ích. Sự vận động này cũng có thể khác hướng, thậm chí ngược chiều nhau tuỳ theo mục tiêu ấy là gì, ai là chủ thể của những lợi ích được tạo ra, việc phân chia và sử dụng lợi ích đó như thế nào. Cơ sở khách quan của sự tồn tại nhiều thành phần kinh tế là do có nhiều hình thức sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất. Đại hội Đảng IX(2001), đã khẳng định từ các hình thức sở hữu cơ bản như: sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân đã hình thành nhiều thành phần kinh tế với các hình thức tổ chức kinh doanh đa dạng đan xen, hỗn hợp; đó là: Kinh tế Nhà nước, Kinh tế tập thể, Kinh tế cá thể, tiểu chủ, Kinh tế tư bản tư nhân, Kinh tế tư bản Nhà nước, Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài . Nền kinh tế nhiều thành phần trong sự vận động của cơ chế thị trường ở nước ta là nguồn lực tổng hợp to lớn để đưa nền kinh tế vượt khỏi thực trạng thấp kém đưa nền kinh tế hàng hoá phát triển kể cả trong điều kiện ngân sách Nhà nước hạn hẹp. Nền kinh tế nhiều thành phần vừa phản ánh tính đa dạng phong phú trong việc đáp ứng nhu cầu xã hội, vừa phản ánh tính chất phức tạp trong việc quản lý thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Do đó việc “phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần phải đi đôi với tăng cường quản lý Nhà nước về kinh tế- xã hội”. Để hạn chế và khắc phục những hậu quả do nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường mang lại, giữ cho công cuộc đổi mới đi đúng hướng và phát huy bản chất tốt đẹp của chủ nghĩa xã hội, Nhà nước phải thực hiện tốt vai trò quản lý kinh tế- xã hội bằng pháp luật, kế hoạch, chính sách, thông tin, tuyên truyền, giáo dục và các công cụ khác. Trong suốt những năm qua, nhất là từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI (12-1986) đến nay, trên cơ sở tư duy ngày càng rõ hơn về thực tiễn của đất nước và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, Đảng ta đã không ngừng đổi mới quan điểm, tư duy về chế độ sở hữu và thành phần kinh tế. Trên cơ sở đó, Nhà nước thực hiện nhất quán chính sách phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, các thành phần kinh tế đều kinh doanh theo pháp luật, đều là bộ phận quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh; trong đó Kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo, Kinh tế Nhà nước cùng với Kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân. Những đổi mới quan trọng trong đường lối của Đảng mang tính đột phá về chế độ sở hữu và thành phần kinh tế có đặc điểm như : ( Thực hiện phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, mỗi thành phần có vị trí quan trọng trong cơ cấu nền kinh tế; mỗi doanh nghiệp cũng đan xen nhiều hình thức sở hữu; thực hiện bình đẳng và cạnh tranh để phát triển. ( Sở hữu nhà nước có thể tồn tại ở nhiều hình thức tổ chức kinh tế, kinh tế nhà nước có vai trò chủ đạo trong nền kinh tế vì chiếm lĩnh một số ngành và một số lĩnh vực cơ bản. ( Hợp tác là tổ chức kinh tế được hình thành trên cơ sở người lao động tự nguyện góp sức, góp vốn và quản lý dân chủ, với mọi qui mô và mức độ tập thể hoá tư liệu sản xuất khác nhau; phát huy vai trò tự chủ của xã hội viên. Hợp tác xã chủ yếu là dịch vụ, hỗ trợ và hướng dẫn, giúp đỡ xã viên; đồng thời phát triển nhiều hình thức kinh tế hợp tác đa dạng. ( Kinh tế cá thể có vai trò quan trọng; có thể tham gia nhiều hình thức liên kết, hợp tác khác nhau để có thể tiếp tục phát triển lớn hơn. ( Kinh tế tư bản tư nhân là một bộ phận quan trọng trong cơ cấu kinh tế của nền kinh tế quốc dân, có khả năng góp phần xây dựng đất nước, được phát triển không hạn chế trong những ngành, lĩnh vực mà pháp luật không cấm, được khuyến khích như mọi thành phần kinh tế khác. ( Thực hiện nhiều hình thức phân phối, lấy phân phối theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế, phân phối dựa trên mức độ đóng góp của các nguồn lực vào sản xuất kinh doanh và phân phối thông qua phúc lợi xã hội. Tuy nhiên việc phát triển nền kinh tế nhiều thành phần ở nước ta hiện nay không phải là bằng bất cứ cách nào, mà Đảng ta chủ trương phát triển nền kinh tế nhiều thành phần phải dựa theo định hướng xã hội chủ nghĩa. “Nền kinh tế nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa là một nền kinh tế vận động theo hướng Kinh tế Nhà nước thực hiện tốt vai trò chủ đạo và cùng với Kinh tế hợp tác xã trở thành nền tảng”. Nền kinh tế nhiều thành phần được hình thành ở nước ta là nền kinh tế dựa trên nhiều hình thức sở hữu. Yêu cầu khách quan của nền kinh tế nhiều thành phần đặt ra cho tất cả các hình thức sở hữu là phải xác định và xác nhận rõ quyền sở hữu đối với tài sản, tiền vốn, chất xám; làm rõ quyền sở hữu thuộc về ai và xác định ai đó có bao nhiêu quyền sở hữu dưới dạng tiền tệ nhằm mục đích định lượng hoá quyền sở hữu của từng người. Không có sở hữu chung chung, vô chủ và cũng không có quyền sở hữu như nhau cho tất cả mọi người. Nền kinh tế nhiều thành phần ở nước ta vừa chịu sự điều tiết theo cơ chế thị trường vừa chịu sự điều tiết của Nhà nước. Thị trường và Nhà nước đều đóng vai trò là người phân bổ nguồn lực cho sự phát triển của nền kinh tế. Đề cao quá mức vai trò của thị trường và coi nhẹ hay phủ nhận vai trò của Nhà nước hoặc ngược lại đều không thể đạt được sự tăng trưởng và phát triển của nền kinh tế. Phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa là một chủ trương chiến lược của Đảng và Nhà nước ta. Từ khi được khẳng định, chủ trương này đã đi vào cuộc sống, góp phần giải phóng sức sản xuất, tạo ra sự chuyển biến mạnh mẽ trong nền kinh tế nước ta, khắc phục căn bản khủng hoảng kinh tế, thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng và phát triển nhanh, cải thiện đời sống nhân dân. Tuy nhiên bên cạnh mặt được, tích cực, trong sự vận động, phát triển các thành phần kinh tế đã bộc lộ hạn chế. Kinh tế Nhà nước chưa phát huy hết vai trò chủ đạo của mình, vấn đề cổ phần hoá doanh nghiệp còn nhiều lúng túng trong quá trình triển khai. Kinh tế hợp tác chậm đổi mới và phát triển, Kinh tế tư nhân, cá thể, liên doanh chưa được quản lý chặt chẽ. Vấn đề đặt ra là cần phải làm rõ vai trò vị trí, thực trạng và xu thế vận động của mỗi thành phần kinh tế. Trên cơ sở đó lựa chọn những hình thức kinh tế thích hợp, những giải pháp thoả đáng thúc đẩy các thành phần kinh tế tiếp tục phát triển. Khái niệm và vai trò của Kinh tế Nhà nước, Doanh nghiệp Nhà nước. 1.1.1.1 Khái niệm Kinh tế Nhà nước, Doanh nghiệp Nhà nước Kinh tế Nhà nước là khu vực kinh tế do nhà nước nắm giữ, dựa trên cơ sở quan trọng là sở hữu Nhà nước. Hay nói cách khác Kinh tế Nhà nước là toàn bộ hoạt động kinh tế thuộc sở hữu của Nhà nước, trên cơ sở đó Nhà nước có quyền quản lý, sử dụng hiệu quả kinh tế do lực lượng kinh tế của Nhà nước mang lại. Kinh tế Nhà nước phải là và bao gồm những hoạt động kinh tế mà Nhà nước là chủ thể, có quyền tổ chức, chi phối hoạt động theo hướng đã định. Kinh tế Nhà nước được thể hiện dưới nhiều hình thức hoạt động khác nhau với các hình thức tổ chức tương ứng, như hoạt động trong các lĩnh vực sản xuất, dịch vụ, các hoạt động đảm bảo cho quá trình tái sản xuất xã hội mà ở đó Nhà nước biểu hiện như một chủ sở hữu, chủ thể kinh doanh, người tham gia. Nghĩa là kinh tế Nhà nước có nhiều bộ phận hợp thành, mỗi bộ phận hợp thành kinh tế Nhà nước có chức năng và nhiệm vụ khác nhau. Nếu xét theo lĩnh vực hoạt động, thì khu vực kinh tế Nhà nước bao gồm các hoạt động kinh tế của Nhà nước trong: - Hoạt động trực tiếp sản xuất- kinh doanh hàng hoá, dịch vụ. - Hoạt động kinh tế nhằm đảm bảo cho quá trình tái sản xuất xã hội. Về hình thức tổ chức, khu vực kinh tế Nhà nước bao gồm nhiều bộ phận hoạt động trong các lĩnh vực then chốt, thiết yếu của nền kinh tế quốc dân. Cụ thể: - Ngân sách Nhà nước. - Ngân hàng Nhà nước. - Kho bạc Nhà nước. - Các quỹ dự trữ quốc gia. - Các tổ chức sự nghiệp có thu. - Hệ thống doanh nghiệp Nhà nước. Theo Luật Doanh nghiệp Nhà nước năm 1995, thì “Doanh nghiệp Nhà nước là tổ chức kinh tế do Nhà nước đầu tư vốn, thành lập và tổ chức quản lý, hoạt động kinh doanh hoặc công ích, nhằm thực hiện các mục tiêu kinh tế- xã hội do Nhà nước giao. Doanh nghiệp Nhà nước có tư cách pháp nhân, có các quyền và nghĩa vụ dân sự, tự chịu trách nhiệm về toàn bộ hoạt động, kinh doanh trong phạm vi do doanh nghiệp quản lý”  . Tuy nhiên, theo cách hiểu hiện nay của Luật Doanh nghiệp Nhà nước được Quốc hội nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá XI, kỳ họp thứ 4 thông qua ngày 26 tháng 11 năm 2003, và có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 7 năm 2004; thì “Doanh nghiệp Nhà nước là tổ chức kinh tế do Nhà nước sở hữu toàn bộ vốn điều lệ hoặc có cổ phần, vốn góp chi phối, được tổ chức dưới hình thức công ty nhà nước, công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn” . Doanh nghiệp Nhà nước là bộ phận chính yếu của khu vực kinh tế Nhà nước- một lực lượng vật chất cơ bản, đảm bảo cho việc thực hiện các mục tiêu kinh tế- xã hội của Nhà nước. Một doanh nghiệp được coi là Doanh nghiệp Nhà nước khi có đủ 3 điều kiện: ( Nhà nước là cổ đông chính. ( Doanh nghiệp có nhiệm sản xuất ra hàng hoá dịch vụ để bán. ( Có hạch toán lãi lỗ. Nếu xét theo mục tiêu hoạt động thì các doanh nghiệp Nhà nước chia làm 3 nhóm: ( Nhóm các doanh nghiệp Nhà nước hoạt động công ích. Theo Luật Doanh nghiệp Nhà nước sửa đổi đã loại bỏ loại hình thức doanh nghiệp công ích và thay bằng hoạt động công ích, các sản phẩm, dịch vụ công ích được Nhà nước thực hiện bằng cách “đặt hàng, giao kế hoạch, đấu thầu theo giá hoặc phí do Nhà nước quy định”. ( Nhóm các doanh nghiệp Nhà nước bán công ích- sản xuất kinh doanh hàng hoá công ích. ( Nhóm các doanh nghiệp Nhà nước thuần tuý kinh tế. 1.1.1.2 Vai trò của Kinh tế Nhà nước, Doanh nghiệp Nhà nước. Kinh tế Nhà nước là bộ phận quan trọng, có tác động thiết thực trong cơ cấu kinh tế của mỗi nước. Trong quá trình đổi mới, Đảng ta luôn chủ trương phát triển nền kinh tế nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa và thành phần kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân tức là nó phải có khả năng chi phối xu thế phát triển kinh tế- xã hội của đất nước. Vai trò đó được thể hiện trên các mặt: ( Kinh tế Nhà nước trở thành lực lượng vật chất và công cụ sắc bén để Nhà nước thực hiện chức năng định hướng, điều tiết và quản lý vĩ mô nền kinh tế. ( Hoạt động của khu vực kinh tế Nhà nước là nhằm mở đường, hướng dẫn, hỗ trợ, thúc đẩy sự phát triển của các thành phần kinh tế khác. ( Kinh tế Nhà nước là lực lượng xung kích chủ yếu thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. ( Kinh tế Nhà nước nắm giữ các vị trí then chốt trong nền kinh tế nhằm đảm bảo các cân đối vĩ mô của nền kinh tế cũng như tạo đà tăng trưởng lâu dài, bền vững và hiệu quả cho nền kinh tế. ( Kinh tế Nhà nước trực tiếp tham gia khắc phục mặt trái của cơ chế thị trường và điều chỉnh nó. ( Kinh tế Nhà nước phải là hình mẫu về ứng dụng tiến bộ khoa học- công nghệ, về năng suất, chất lượng, hiệu quả kinh tế- xã hội và chấp hành pháp luật. ( Thực hiện dự trữ quốc gia nhằm đảm bảo hành lang an toàn cho nền kinh tế. ( Giải quyết các vấn đề xã hội. ( Kinh tế nhà nước là nền tảng cho chế độ xã hội mới. Vai trò của hệ thống doanh nghiệp Nhà nước gắn liền với việc tham gia vào hoạt động kinh tế của Nhà nước. Các doanh nghiệp Nhà nước vừa là chủ thể kinh doanh, vừa là lực lượng trực tiếp tạo cơ sở vật chất cho xã hội, vừa là lực lượng nòng cốt để Nhà nước dẫn dắt, mở đường cho các thành phần kinh tế khác cùng phát triển. Vai trò này được thể hiện trên 3 khía cạnh: kinh tế, chính trị, xã hội. Cụ thể là: ( Là công cụ chủ yếu tạo ra sức mạnh vật chất để Nhà nước giữ vững sự ổn định xã hội, điều tiết và hướng dẫn nền kinh tế phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa. ( Mở đường dẫn dắt các thành phần kinh tế khác phát triển, thúc đẩy sự tăng trưởng nhanh và lâu bền của toàn bộ nền kinh tế. ( Đảm nhận các lĩnh vực hoạt động có tính chiến lược đối với sự phát triển kinh tế- xã hội: cung ứng các hàng hoá, dịch vụ thiết yếu (giao thông, thuỷ lợi, điện, nước…, an ninh quốc phòng, xã hội (giáo dục, y tế,…) ( Góp phần quan trọng khắc phục những khiếm khuyết của cơ chế thị trường. ( Là lực lượng xung kích tạo ra sự thay đổi cơ cấu kinh tế, thúc đẩy nhanh ứng dụng tiến bộ khoa học- công nghệ nhằm thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. ( Là lực lượng đối trọng cạnh tranh trên thị trường trong và ngoài nước, chống sự lệ thuộc vào nước ngoài về kinh tế. ( Thực hiện một số chính sách xã hội. ( Là lực lượng tạo nền tảng cho xã hội mới. Tóm lại, khu vực kinh tế Nhà nước và hệ thống doanh nghiệp Nhà nước là những phạm trù kinh tế có cùng bản chất tuy khác nhau về cấp độ. Vai trò của khu vực kinh tế Nhà nước rộng hơn và bao hàm cả vai trò quan trọng cả hệ thống doanh nghiệp Nhà nước. Nói đến vai trò chủ đạo là nói đến vai trò của cả hệ thống kinh tế Nhà nước trong đó các doanh nghiệp Nhà nước là bộ phận chính yếu, là phương tiện, công cụ, lực lượng đi đầu mở đường cho sự phát triển kinh tế. Sự cần thiết phải đổi mới các Doanh nghiệp Nhà nước Trong điều kiện cơ chế kế hoạch hoá tập trung, doanh nghiệp Nhà nước (trước đây là xí nghiệp quốc doanh) chiếm vị trí độc tôn trong nền kinh tế. Đó là những doanh nghiệp hạch toán kinh tế theo nguyên tắc thu đủ chi đủ được bao cấp. Về mặt sở hữu, đó là những doanh nghiệp do Nhà nước đầu tư vốn 100% và trực tiếp quản lý. Khi chuyển sang cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, việc đổi mới cơ chế quản lý luôn là vấn đề được Đảng và Nhà nước quan tâm. Việc đổi mới các doanh nghiệp Nhà nước là sự vận dụng của Đảng và Nhà nước Việt Nam, là quy luật tất yếu và cũng xuất phát từ thực trạng hoạt động không hiệu quả của các doanh nghiệp nhà nước hoạt động trong cơ chế thị trường, được nuôi dưỡng bằng chế độ bao cấp nên nhiều xí nghiệp quốc doanh rơi vào tình trạng trì trệ, lãng phí nguồn tài lực xã hội, làm ăn thua lỗ kéo dài, tình trạng chiếm dụng vốn lẫn nhau, chậm trễ trong các khoản nộp ngân sách Nhà nước,… đã làm cho khu vực kinh tế này kém hiệu quả trở thành gánh nặng cho nền kinh tế quốc dân. Một trong những nguyên nhân quan trọng dẫn tới tình trạng Kinh tế Nhà nước hoạt động chưa hiệu quả là do chậm tháo gỡ các vướng mắc về cơ chế, chính sách để tạo động lực và điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp Nhà nước nâng cao hiệu quả hoạt động, phát huy vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân. Từ thực tế đó, mà Nhà nước ta đã tiến hành cải cách các doanh nghiệp Nhà nước, chuyển đổi sở hữu nhằm khắc phục từng bước tình trạng yếu kém. Vấn đề quan trọng để các doanh nghiệp tiếp tục phát triển và đổi mới là người lao động phải được đảm bảo lợi ích, khắc phục tình trạng doanh nghiệp Nhà nước, tài sản Nhà nước không có người làm chủ cụ thể, làm chủ trực tiếp, làm chủ một cách có trách nhiệm. Các giải pháp chung nhất là chuyển đổi sở hữu làm tăng quyền tự chủ cho các doanh nghiệp như cổ phần hoá, bán, khoán, cho thuê doanh nghiệp Nhà nước, giảm sự can thiệp của Nhà nước, cải cách cơ cấu tổ chức của doanh nghiệp, hình thành các tổng công ty, … Muốn vậy, Nhà nước phải kiên quyết sắp xếp lại các doanh nghiệp Nhà nước, xử lý đúng đắn những xí nghiệp làm ăn thua lỗ kéo dài, xây dựng một số mô hình doanh nghiệp Nhà nước mới năng động và có hiệu quả. Khái niệm, đặc điểm và vai trò của các Lâm trường quốc doanh. Khái niệm và đặc điểm của Lâm trường quốc doanh. 1.2.1.1 Khái niệm Lâm trường quốc doanh. Thuật ngữ “Lâm trường quốc doanh” xuất hiện ở nước ta vào những năm cuối cùng của thập kỷ 50
Luận văn liên quan