Luận văn Thực trạng vận động xây dựng chính quyền

Thể chế chính trị ở nước ta là Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ. Đây là cơ chế chung trong quản lý xã hội. Trong đó, “Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân. Mặt trận phát huy truyền thống đoàn kết toàn dân, tăng cường sự nhất trí về chính trị và tinh thần trong nhân dân, tham gia xây dựng và củng cố chính quyền nhân dân ” . Đảng lãnh đạo xã hội thông qua Nhà nước và Mặt trận Tổ quốc, qua đó nhằm nâng cao hơn nữa công tác chính trị, tư tưởng, lấy tuyên truyền, thuyết phục, vận động làm phương thức quan trọng để thực hiện sự lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị và xã hội. Mặt trận Tổ quốc là ngôi nhà chung của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, Mặt trận tập hợp, vận động, đoàn kết rộng rãi các tầng lớp nhân dân, các dân tộc, các tôn giáo và người Việt Nam ở nước ngoài; Mặt trận tuyên truyền sâu rộng quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của nhà nước trên các lĩnh vực kinh tế, văn hoá, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại, về các hoạt động của Mặt trận, các đoàn thể để cán bộ, đảng viên và nhân dân có nhận thức đầy đủ về tinh thần và nhiệm vụ của đất nước, tạo sự đồng thuận xã hội, đoàn kết dân tộc, đẩy mạnh phong trào cách mạng của quần chúng, thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ, mục tiêu do Đảng đề ra.

doc116 trang | Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 2422 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Thực trạng vận động xây dựng chính quyền, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN "Thực trạng vận động xây dựng chính quyền PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài: Thể chế chính trị ở nước ta là Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ. Đây là cơ chế chung trong quản lý xã hội. Trong đó, “Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân. Mặt trận phát huy truyền thống đoàn kết toàn dân, tăng cường sự nhất trí về chính trị và tinh thần trong nhân dân, tham gia xây dựng và củng cố chính quyền nhân dân…” Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992, NXB Pháp lý-NXB Sự thật, Hà Nội 1992, trang 15 . Đảng lãnh đạo xã hội thông qua Nhà nước và Mặt trận Tổ quốc, qua đó nhằm nâng cao hơn nữa công tác chính trị, tư tưởng, lấy tuyên truyền, thuyết phục, vận động làm phương thức quan trọng để thực hiện sự lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị và xã hội. Mặt trận Tổ quốc là ngôi nhà chung của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, Mặt trận tập hợp, vận động, đoàn kết rộng rãi các tầng lớp nhân dân, các dân tộc, các tôn giáo và người Việt Nam ở nước ngoài; Mặt trận tuyên truyền sâu rộng quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của nhà nước trên các lĩnh vực kinh tế, văn hoá, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại, về các hoạt động của Mặt trận, các đoàn thể để cán bộ, đảng viên và nhân dân có nhận thức đầy đủ về tinh thần và nhiệm vụ của đất nước, tạo sự đồng thuận xã hội, đoàn kết dân tộc, đẩy mạnh phong trào cách mạng của quần chúng, thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ, mục tiêu do Đảng đề ra. Quan hệ giữa Mặt trận với chính quyền là quan hệ hợp tác, bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau, phối hợp cùng thực hiện nhiệm vụ chung của đất nước. Theo Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, trong suốt chiều dài lịch sử, cho đến giai đoạn hiện nay, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam luôn là một tổ chức không thể thiếu trong sự nghiệp cách mạng, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đại diện cho quyền lợi hợp pháp và nguyện vọng chính đáng của nhân dân, là cầu nối bền chặt giữa nhân dân với Đảng và Nhà nước, luôn song hành cùng nhà nước hoàn thành sứ mệnh lịch sử vẻ vang của Đảng. Sự phối hợp giữa Nhà nước và MTTQ Việt Nam trong công tác vận động nhân dân tham gia xây dựng chính quyền đã được xác định trong nhiều văn kiện quan trọng của Đảng cộng sản Việt Nam. Bên cạnh đó, một trong những nội dung quan trọng của cải cách bộ máy Nhà nước hiện nay là tăng cường mối quan hệ mật thiết giữa Nhà nước với Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân. Tuy nhiên, trên thực tế, vị trí, vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam nói chung và việc phối hợp với Nhà nước trong việc vận động nhân dân xây dựng chính quyền nói riêng chưa được đánh giá đúng và đầy đủ, từ đó dẫn đến những hạn chế trong sự nghiệp xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Mặt khác, với tình hình quốc tế và trong nước hiện nay, trong chiến lược tăng cường phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, xây dựng đất nước Việt Nam thực sự của dân, do dân, vì dân, việc vận động nhân dân xây dựng chính quyền đang trở thành nhiệm vụ thường xuyên, quan trọng và cấp bách của Đảng, Nhà nước và Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Do vậy, tôi chọn đề tài “THỰC TRẠNG VẬN ĐỘNG XÂY DỰNG CHÍNH QUYỀN” làm luận văn thạc sĩ khoa học Hành chính công để khẳng định sự phối hợp giữa Nhà nước và Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong việc vận động nhân dân tham gia xây dựng chính quyền là một công tác rất quan trọng của Nhà nước và Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, đặc biệt trong giai đoạn hiện nay. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Cho đến nay, các công trình lớn, tiêu biểu viết về vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong tình hình mới nói chung và Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tham gia xây dựng chính quyền nhân dân nói riêng chủ yếu là: Lịch sử Mặt trận Dân tộc Thống nhất Việt Nam, quyển III (1975-2004) (Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2007); Đại đoàn kết dân tộc vì sự nghiệp dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh (Đỗ Mười-Lê Quang Đạo, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996); Đại đoàn kết dân tộc phát huy nội lực nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế thực hiện công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước (Vũ Oanh, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998); Đại đoàn kết dân tộc - động lực chủ yếu đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc (Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Kỷ yếu Hội thảo khoa học-thực tiễn, Hà Nội, 2002); Phát huy sức mạnh Đại đoàn kết toàn dân tộc, xây dựng Mặt trận Tổ quốc Việt Nam theo tư tưởng Hồ Chí Minh (Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Kỷ yếu Hội thảo khoa học-thực tiễn, Hà Nội, 2005); Tư tưởng Hồ Chí Minh về Đại đoàn kết dân tộc và Mặt trận Dân tộc thống nhất (Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1996); Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết với vấn đề phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc trong thời kỳ mới (Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội 2004); Một số vấn đề lý luận và thực tiễn công tác Mặt trận (Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội 2009)… Ngoài ra, trên các sách, tạp chí khoa học, báo cũng có một số bài viết, nghiên cứu về Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tham gia xây dựng chính quyền nhân dân. Nhìn chung, các công trình nghiên cứu trên đã khái quát, đề cập tương đối rộng và phản ánh được nhiều khía cạnh về Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tham gia xây dựng chính quyền nhân dân góp phần làm sáng tỏ nhiều vấn đề lý luận trong thời kỳ mới. Song, chưa có một công trình chuyên khảo trực tiếp nào về Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tham gia phối hợp với Nhà nước trong việc vận động nhân dân xây dựng chính quyền. 3. Mục đích, nhiệm vụ, đối tượng nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Từ những vấn đề lý luận và thực tiễn của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong việc tham gia xây dựng chính quyền nhân dân, đề xuất những giải pháp nhằm nâng cao sự phối hợp giữa Nhà nước và Mặt Trận Tổ quốc Việt Nam trong việc vận động nhân dân xây dựng chính quyền, đặc biệt trong giai đoạn hiện nay. 3.2 Nhiệm vụ nghiên cứu - Nêu lên những nội dung công tác phối hợp giữa Nhà nước và Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong việc vận động nhân dân xây dựng chính quyền. - Phân tích, đánh giá những kết quả đạt được cũng như những mặt hạn chế trong công tác phối hợp giữa Nhà nước và Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong việc vận động nhân dân xây dựng chính quyền thời gian qua, đồng thời nêu lên những nguyên nhân của tồn tại, hạn chế. - Đề xuất các giải pháp, kiến nghị có tính khả thi nhằm tăng cường công tác tham gia xây dựng và củng cố chính quyền của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. 3.3. Đối tượng nghiên cứu Sự phối hợp giữa Nhà nước và Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong việc vận động nhân dân xây dựng chính quyền. 4. Phương pháp nghiên cứu và tư liệu 4.1. Phương pháp nghiên cứu: Phương pháp nghiên cứu dựa trên phương pháp luận của Chủ nghĩa duy vật biện chứng và các phương pháp khác như khảo cứu, phân tích, so sánh, tổng hợp… các tài liệu liên quan. 4.2. Nguồn tư liệu Nguồn tài liệu chủ yếu: Các văn kiện Đại hội Đảng, các Nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam; các văn bản pháp luật của Nhà nước gần đây đến Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Các bài phát biểu của các vị lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam các thời kỳ; Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc nhiệm kỳ Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (các khoá III, IV, V, VI, VII); các văn kiện các Hội nghị Đoàn Chủ tịch, Hội nghị Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam hàng năm (các khoá III, IV, V, VI, VI, VII). Ngoài ra, nguồn tài liệu là các Báo cáo công tác hàng tháng, 6 tháng, hàng năm và các báo cáo chuyên đề của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (1986-2010) được lưu trữ tại cơ quan Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam; một số công trình nghiên cứu về Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. 5. Đóng góp mới: Đề tài sau khi được hoàn thành sẽ có ý nghĩa về mặt lý luận và thực tiễn trên các nội dung cụ thể sau: - Về mặt lý luận: đề cập tới mối quan hệ giữa Mặt trận và chính quyền, đặc biệt là vấn đề sự phối hợp vận động nhân dân tham gia xây dựng chính quyền. - Về mặt thực tiễn: Luận văn sẽ đưa ra các giải pháp nhằm tăng cường hơn nữa sự phối hợp giữa Nhà nước và Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong việc vận động nhân dân tham gia xây dựng chính quyền, từ đó nâng cao vị trí, vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong sự nghiệp xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, phát huy hơn nữa quyền làm chủ của nhân dân, đặc biệt trong giai đoạn hiện nay. 6. Kết cấu luận văn Luận văn gồm 3 chương: - Chương 1: Cơ sở lý luận, cơ sở pháp lý của công tác phối hợp giữa Nhà nước và Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong việc vận động nhân dân xây dựng chính quyền. - Chương 2: Thực trạng của công tác phối hợp giữa Nhà nước và Mặt trận Tổ quốc trong việc vận động nhân dân xây dựng chính quyền. - Chương 3: Một số giải pháp nhằm tăng cường sự phối hợp giữa Nhà nước và Mặt trận Tổ quốc trong việc vận động nhân dân xây dựng chính quyền. CHƯƠNG I CƠ SỞ LÝ LUẬN, CƠ SỞ PHÁP LÝ CỦA CÔNG TÁC PHỐI HỢP GIỮA NHÀ NƯỚC VÀ MẶT TRẬN TỔ QUỐC VIỆT NAM TRONG VIỆC VẬN ĐỘNG NHÂN DÂN XÂY DỰNG CHÍNH QUYỀN 1.1. Cơ sở lý luận 1.1.1. Khái niệm, chức năng, đặc trưng, của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong công tác phối hợp với Nhà nước vận động nhân dân xây dựng chính quyền Mặt trận Tổ quốc Việt Nam - một hình thức cụ thể, hiện thân của Mặt trận dân tộc Thống nhất Việt Nam là tổ chức liên minh chính trị rộng lớn, một bộ phận của hệ thống chính trị nước Công hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, do Đảng cộng sản Việt Nam lãnh đạo, từ khi ra đời đến nay đã không ngừng lớn mạnh, trở thành một trong những nhân tố quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Theo Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam: “Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là tổ chức liên minh chính trị, liên hiệp tự nguyện của tổ chức chính trị, các tổ chức chính trị-xã hội, tổ chức xã hội và các cá nhân tiêu biểu trong các giai cấp, các tầng lớp xã hội, các dân tộc, các tôn giáo và người Việt Nam định cư ở nước ngoài. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là bộ phận của hệ thống chính trị của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân, nơi thể hiện ý chí, nguyện vọng, tập hợp khối đại đoàn kết toàn dân, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, nơi hiệp thương, phối hợp, thống nhất hành động của các thành viên, góp phần giữ vững độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ, thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh”. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, tiền thân là Hội phản đế đồng minh được thành lập ngày 18/11/1930. Trải qua các giai đoạn lịch sử khác nhau, Mặt trận đã thay đổi nhiều tên gọi khác nhau cho phù hợp với yêu cầu của cách mạng. Đó là: - Mặt trận dân chủ (tháng 8/1937) - Mặt trận Việt Minh năm 1945, Hội Liên hiệp Quốc dân (29/5/1945), thống nhất Việt Minh - Liên Việt thành Mặt trận Liên Việt (3/3/1951), đến Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (tháng 9/1955), - Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam (1960), Liên minh các lực lượng dân tộc, dân chủ và hoà bình Việt Nam (1968). - Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (Tháng 1/1977, Đại hội thống nhất các tổ chức Mặt trận ở hai miền thành một Mặt trận dân tộc thống nhất duy nhất lấy tên là Mặt trận Tổ quốc Việt Nam). Hơn nửa thế kỷ qua, trong cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân đấu tranh giành độc lập, tự do, thống nhất cho Tổ quốc cũng như trong sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ đất nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam vẫn luôn tỏ rõ là một liên minh chính trị có vị trí, vai trò rất quan trọng trong việc tập hợp, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, tạo động lực, góp phần tích cực vào sự nghiệp đổi mới, công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”. Cũng giống như tất cả các tổ chức chính trị- xã hội khác, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam có những chức năng cơ bản sau đây: - Chức năng phản ánh yêu cầu, nguyện vọng và bảo vệ quyền lợi hợp pháp của quần chúng nhân dân: Mặt trận Tổ quốc Việt Nam ra đời nhằm tập hợp tất cả các lực lượng yêu nước, tiến bộ, thể hiện ý chí, nguyện vọng đấu tranh vì độc lập tự do và hạnh phúc của các tầng lớp nhân dân, các dân tộc, các tôn giáo ở Việt Nam. Trong Mặt trận dân tộc thống nhất do Đảng lãnh đạo có sự tham gia đông đảo của các tầng lớp công nhân, nông dân, thợ thủ công, những nhà buôn, những nhà tư sản dân tộc, các điền chủ, những nhà trí thức yêu nước, những quan lại cũ, những chức sắc tôn giáo và đồng bào có đạo, các dân tộc và người Việt Nam định cư tại nước ngoài… Ở họ có điểm tương đồng là lợi ích quốc gia, truyền thống quý báu, bản sắc văn hoá, lòng yêu nước và tinh thần dân tộc. Do vậy, chức năng phản ánh yêu cầu, nguyện vọng và bảo vệ quyền lợi hợp pháp của quần chúng nhân dân cần phải được nhận thức đúng đắn và đầy đủ. - Chức năng tuyên truyền, thuyết phục, tổ chức và vận động nhân dân thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc: Mặt trận Tổ quốc Việt Nam có chức năng tuyên truyền, thuyết phục, tổ chức và vận động nhân dân thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước thông qua các tổ chức thành viên và các cuộc vận động, các phong trào cách mạng mang tính toàn dân để tập hợp và đoàn kết mọi tầng lớp nhân dân. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam chịu trách nhiệm hiệp thương danh sách bầu cử và tham gia các hoạt động bầu cử đại biểu vào cơ quan dân cử các cấp. Chức năng tuyên truyền, thuyết phục, tổ chức và vận động nhân dân thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước thể hiện trên các nội dung là: + Tuyên truyền và vận động quần chúng nhân dân thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách pháp luật của Đảng và Nhà nước. + Tuyên truyền và vận động quần chúng nhân dân thực hiện nghĩa vụ, trách nhiệm công dân đối với Tổ quốc, đối với nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. + Tuyên truyền và vận động quần chúng nhân dân, các hội viên và thành viên của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam thực hiện theo đúng tôn chỉ, mục đích hoạt động của tổ chức. + Tuyên truyền và vận động quần chúng nhân dân tham gia xây dựng và bảo vệ Đảng, bảo vệ các cơ quan Nhà nước, xây dựng và bảo vệ nền dân chủ xã hội chủ nghĩa. + Động viên các thành viên và mọi tầng lớp nhân dân phát huy quyền làm chủ của mình trong đời sống chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, trong thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, an ninh, phấn đấu vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. - Chức năng giám sát, phản biện xã hội đối với các cơ quan, cán bộ Nhà nước và hệ thống chính trị Giám sát và phản biện việc xây dựng và thực hiện chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước là một chức năng rất cơ bản, là một nhiệm vụ rất quan trọng của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, phản ánh sâu sắc bản chất của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa. Trong hệ thống chính trị nước ta, quyền giám sát được quy định trong những văn kiện của Đảng, cơ quan quyền lực Nhà nước và Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Ngoài quyền giám sát của Quốc hội đối với Chính phủ, Hội đồng nhân dân đối với Uỷ ban nhân dân, Nhà nước còn cần được giám sát bởi Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân, để Nhà nước ta thực sự là Nhà nước của dân, do dân, vì dân. Thực chất và mục tiêu cơ bản của việc thực hiện ba chức năng đó là tạo nên một cơ chế giám sát quyền lực trong xã hội, làm cho sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của Nhà nước bảo đảm thực hiện yêu cầu dân chủ hoá, chống quan liêu và chủ quan duy ý chí trong mọi hoạt động. Một số đặc trưng cơ bản của công tác phối hợp với Nhà nước trong công tác vận động nhân dân xây dựng chính quyền của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam: - Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là một tổ chức liên minh chính trị, liên hiệp tự nguyện rộng rãi nhất của các tổ chức và các cá nhân tiêu biểu trong các giai cấp, các tầng lớp, các dân tộc, các tôn giáo và người Việt Nam định cư ở nước ngoài. Do đặc điểm này mà Mặt trận có những điều kiện để phối hợp với Nhà nước tập hợp, vận động đông đảo các tầng lớp nhân dân, tạo thành sức mạnh to lớn, tham gia xây dựng và củng cố chính quyền. - Mặt trận Tổ quốc Việt Nam còn là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân. Mặt trận giới thiệu những người có đủ tiêu chuẩn và điều kiện để nhân dân bầu vào Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp; vận động nhân dân tham gia xây dựng pháp luật, giám sát hoạt động của cơ quan Nhà nước, đại biểu dân cử, cán bộ, công chức Nhà nước. Theo quan điểm của Đảng ta, cải cách bộ máy Nhà nước còn bao hàm một nội dung quan trọng là tăng cường mối quan hệ mật thiết giữa Nhà nước với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân dân. Mặt trận và các đoàn thể nhân dân tham gia xây dựng, quản lý, giám sát và bảo vệ Nhà nước. Nhà nước dựa vào Mặt trận và các đoàn thể để phát huy quyền làm chủ và sức mạnh có tổ chức của nhân dân. Đó cũng chính là sức mạnh của bản thân Nhà nước. Trong quá trình ra quyết định và quản lý, điều hành, Quốc hội và Hội đồng nhân dân, Chính phủ và Uỷ ban nhân dân các cấp cần lắng nghe những kiến nghị của Mặt trận và các đoàn thể. Nhà nước cần có quy chế tổ chức và cơ chế hoạt động giải quyết tốt mối quan hệ giữa Nhà nước với Mặt trận và các đoàn thể nhân dân. Đảng Cộng sản Việt Nam vừa là tổ chức lãnh đạo vừa là thành viên của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Đây là một nét độc đáo trong lý luận cách mạng nước ta. Đảng là thành viên Mặt trận nhưng với tư cách thành viên lãnh đạo, thông qua Mặt trận để tập hợp các lực lượng quần chúng nhân dân theo Đảng làm cách mạng. Trong sự nghiệp xây dựng đất nước ngày nay, quan điểm của Đảng là phải phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc; xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân gắn với việc phát huy dân chủ trong đời sống xã hội dưới sự lãnh đạo của Đảng. Thực hiện dân chủ trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội ở các cấp, các ngành để thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. 1.1.2. Đặc trưng của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam và quyền làm chủ của nhân dân trong xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam * Đặc trưng của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam: Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) đã chỉ rõ: Nhà nước ta là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Quyền lực Nhà nước là thống nhất; có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Nhà nước ban hành pháp luật; tổ chức, quản lý xã hội bằng pháp luật và không ngừng tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa. Một số đặc trưng cơ bản của Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam: - Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước của dân, do dân, vì dân, các cơ quan quyền lực nhà nước được lập nên thông qua các cuộc bầu cử phổ thông, dân chủ, tự do, bình đẳng. Quyền lực của nhà nước là quyền lực của nhân dân, do nhân dân uỷ nhiệm thông qua lá phiếu của mình; tổ chức, cơ chế vận hành của bộ máy nhà nước do nhân dân quyết định; các vấn đề trọng đại của đất nước đều phải hỏi ý kiến nhân dân. Những góp ý, khiếu nại, tố cáo của nhân dân đối với Nhà nước đều được tôn trọng, xem xét, tiếp thu, giải quyết. - Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện ba quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Nguyên tắc thống nhất quyền lực này xuất phát từ chỗ tất cả quyền lực này thuộc về nhân dân, nhân dân là chủ thể duy nhất của quyền lực nhà nước. Mỗi cơ quan có chức năng và nhiệm vụ nhất định trong việc thực thi các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp, không có cơ quan nào đứng một cách biệt lập mà có sự phối hợp chặt chẽ với nhau trong việc thực hiện quyền lực. - Nhà nước được tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân chủ. Nguyên tắc này đảm bảo sự thống nhất trong tổ chức và hoạt động, kết hợp trách nhiệm của tập thể lãnh đạo và cá nhân phụ trách, cấp dưới phục tùng cấp trên, thiểu số phục tùng đa số. - Nhà nước quản lý mọi mặt đời sống xã hội theo pháp luật và bằng
Luận văn liên quan