Trong thế giới loài người là muôn hình vạn trạng, không ở đâu trong sự phát triển
xã hội của học sinh bậc trung học cơ sở hay còn gọi là ở lứa tuổi vị thành niên lại có
những thay đổi rất lớn trong những năm gần đây là lĩnh vực giới tính. Trong khi tình
dục ám chỉ khía cạnh sinh lý thì giới tính là khía cạnh xã hội của phái nam và phái
nữ. Một vài góc độ của trẻ vị thành niên xoáy sâu vào chân giá trị và vào mối quan hệ
xã hội hơn giới tính và một trong những góc độ mà giới tính đặc biệt nhắc tới đó là:
Vai trò của giới tính-niềm mong chờ mà ấn định phái nam hay phái nữ nên phải suy
nghỉ, hành động và cảm xúc như thế nào. Để giúp học sinh nhận thức đúng được cái
hay, cái đẹp của cuộc sống, ngoài việc cung cấp những tri thức khoa học qua những
môn học chính khóa, nhà trường phổ thông còn phải tạo mọi điều kiện cung cấp cho
các em các tri thức về những ảnh hưởng của sinh lý, xã hội và nhận thức đối với giới
tính.
Giáo dục giới tính là một loại hình giáo dục hết sức phức tạp nhằm giáo dục con
người ở thế hệ trẻ vươn lên làm người bao hàm những giá trị của “Chân, Thiện, Mỹ”.
Là một bộ phận góp phần giáo dục con người hình thành nhân cách ở mọi cá nhân.
Trong thời kỳ mở cửa giao lưu văn hóa như hiện nay giữa các dân tộc, các quốc gia
với nền khoa học hiện đại đang phát triển mạnh. Việc giáo dục giới tính góp phần xây
dựng nhân cách con người là một vấn đề rất quan trọng. Để giúp con người phát triển
bình thường và phát triển toàn diện về nhân cách, chúng ta cần đưa nội dung giáo dục
giới tính vào trong hoạt động giáo dục của xã hội. Giáo dục cho học sinh có năng lực
hiểu được người khác giới với mình, có tình cảm tôn trọng đối với họ không chỉ là
con người nói chung, mà còn là đại diện của nam giới, có năng lực, tính đức và tôn
trọng những đặc điểm giới tính của nhau trong quá trình hoạt động cùng nhau
80 trang |
Chia sẻ: duongneo | Lượt xem: 4993 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Thực trạng việc quản lý giáo dục giới tính cho học sinh ở các trường THCS tại huyện Thuận An, tỉnh Bình Dương và một số giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH
ĐỖ HÀ THẾ BÌNH
THỰC TRẠNG VIỆC QUẢN LÝ GIÁO DỤC GIỚI
TÍNH CHO HỌC SINH Ở CÁC TRƯỜNG THCS TẠI
HUYỆN THUẬN AN, TỈNH BÌNH DƯƠNG VÀ MỘT
SỐ GIẢI PHÁP
LUẬN VĂN THẠC SĨ GIÁO DỤC HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS-TS. BÙI NGỌC OÁNH
Thành phố Hồ Chí Minh - 2007
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Trong thế giới loài người là muôn hình vạn trạng, không ở đâu trong sự phát triển
xã hội của học sinh bậc trung học cơ sở hay còn gọi là ở lứa tuổi vị thành niên lại có
những thay đổi rất lớn trong những năm gần đây là lĩnh vực giới tính. Trong khi tình
dục ám chỉ khía cạnh sinh lý thì giới tính là khía cạnh xã hội của phái nam và phái
nữ. Một vài góc độ của trẻ vị thành niên xoáy sâu vào chân giá trị và vào mối quan hệ
xã hội hơn giới tính và một trong những góc độ mà giới tính đặc biệt nhắc tới đó là:
Vai trò của giới tính-niềm mong chờ mà ấn định phái nam hay phái nữ nên phải suy
nghỉ, hành động và cảm xúc như thế nào. Để giúp học sinh nhận thức đúng được cái
hay, cái đẹp của cuộc sống, ngoài việc cung cấp những tri thức khoa học qua những
môn học chính khóa, nhà trường phổ thông còn phải tạo mọi điều kiện cung cấp cho
các em các tri thức về những ảnh hưởng của sinh lý, xã hội và nhận thức đối với giới
tính.
Giáo dục giới tính là một loại hình giáo dục hết sức phức tạp nhằm giáo dục con
người ở thế hệ trẻ vươn lên làm người bao hàm những giá trị của “Chân, Thiện, Mỹ”.
Là một bộ phận góp phần giáo dục con người hình thành nhân cách ở mọi cá nhân.
Trong thời kỳ mở cửa giao lưu văn hóa như hiện nay giữa các dân tộc, các quốc gia
với nền khoa học hiện đại đang phát triển mạnh. Việc giáo dục giới tính góp phần xây
dựng nhân cách con người là một vấn đề rất quan trọng. Để giúp con người phát triển
bình thường và phát triển toàn diện về nhân cách, chúng ta cần đưa nội dung giáo dục
giới tính vào trong hoạt động giáo dục của xã hội. Giáo dục cho học sinh có năng lực
hiểu được người khác giới với mình, có tình cảm tôn trọng đối với họ không chỉ là
con người nói chung, mà còn là đại diện của nam giới, có năng lực, tính đức và tôn
trọng những đặc điểm giới tính của nhau trong quá trình hoạt động cùng nhau.
Song trong thực tế bên cạnh các bộ môn khoa học khác thì việc giáo dục giới tính
ở bậc trung học cơ sở còn bị xem nhẹ, đặc biệt là trong công tác giáo dục, sử dụng
đội ngũ giáo viên tham gia dục chuyên đề này hầu như không có đa số do giáo viên
chủ nhiệm và các bộ môn như: Giáo dục công dân và môn Sinh học kiêm nhiệm.
Vấn đề giáo dục giới tính có là vấn đề cần thiết tham gia vào quá trình giáo dục và
đào tạo vẫn đang còn nhiều ý kiến khác nhau. Thiết nghĩ bên cạnh việc học các bộ
môn văn hóa, học sinh vẫn có nhu cầu tìm hiểu, nhận thức đối với các vấn đề giới
tính. Chuyên đề này đang có sức hút nhất định và ảnh hưởng rất lớn đến việc hình
thành và phát triển nhân cách của học sinh bậc trung học cơ sở.
Xuất phát từ những lý do trên, chúng tôi chọn đề tài nghiên cứu: “Thực trạng việc
quản lý giáo dục giới tính cho học sinh ở các trường trung học cơ sở tại huyện
Thuận An, tỉnh Bình Dương và một số giải pháp”.
2. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và khảo sát thực tiễn nhằm đánh giá thực trạng
giáo dục giới tính, phát hiện nhu cầu bồi dưỡng, nhu cầu người học ở các trường
THCS trong huyện Thuận An - tỉnh Bình Dương và các kiến thức, kỹ năng, nghiệp
vụ quản lý và giáo dục giới tính. Từ đó đề nghị những biện pháp có tính khả thi góp
phần nâng cao hiệu quả của việc giáo dục giới tính các trường THCS trong huyện
Thuận An.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu một số vấn đề lý luận về giới tính và công tác tổ chức quản lý
giáo dục giới tính cho học sinh bậc THCS.
- Thực trạng hoạt việc quản lý giáo dục giới tính ở các trường trung học cơ sở
trên địa bàn huyện Thuận An.
- Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả tổ chức quản lý hoạt động
giáo dục giới tính ở các trường trung học cơ sở tại huyện Thuận An, tỉnh Bình
Dương.
4. Giả thuyết khoa học
Hoạt động giáo dục giới tính ở các trường THCS tại huyện Thuận An, tỉnh
Bình Dương chưa được tổ chức tốt về các mặt như: việc quản lý, tập huấn và bồi
dưỡng chuyên môn nghiệp vụ, chưa đủ về số lượng CB-GV tham gia giáo dục và
chưa đồng bộ về cơ cấu nên chưa mang lại hiệu quả cao trong việc giáo dục đạo đức
và văn hóa cho học sinh nhằm đáp ứng với yêu cầu chung của sự nghiệp giáo dục và
đào tạo của đất nước.
5. Đối tượng và khách thể nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu:
Thực trạng việc quản lý giáo dục giới tính ở các trường trung học cơ sở trong
huyện Thuận An.
- Khách thể nghiên cứu:
Cán bộ-giáo viên các trường trung học cơ sở, học sinh và phụ huynh trên địa
bàn huyện Thuận An tỉnh Bình Dương. Khi tiến hành nghiên cứu, chúng tôi đã chọn
mẫu và tiến hành khảo sát ngẫu nhiên trên 120 giáo viên, 275 học sinh, 50 cha mẹ
học sinh của 5 trường trung học cơ sở tại huyện Thuận An, tỉnh Bình Dương.
6. Giới hạn đề tài
Đề tài chỉ tập trung chủ yếu nghiên cứu thực trạng việc tổ chức hoạt động giáo
dục giới tính của 5 trường THCS tại huyện Thuận An, tỉnh Bình Dương :
- Trường THCS Trịnh Hoài Đức
- Trường THCS Nguyễn Văn Tiết
- Trường THCS Bình Chuẩn
- Trường THCS Tân Thới
- Trường THCS Phú Long.
7. Phương pháp nghiên cứu
7.1. Phương pháp nghiên cứu lý luận
Thu thập các tài liệu có liên quan đến đề tài nghiên cứu như: sách, báo, các tài
liệu, các công trình nghiên cứu khoa học.
7.2. Phương pháp quan sát
Dự một số tiết sinh hoạt chủ nhiệm, sinh học, giáo dục công dân, sinh hoạt
ngoại khóa có liên quan đến giáo dục giới tính ở các trường THCS trên địa bàn huyện
Thuận An nhằm quan sát tinh thần và thái độ học tập của học sinh về vấn đề này,
phương pháp giáo dục của giáo viên đối với chuyên đề giáo dục giới tính.
7.3. Phương pháp phỏng vấn
Tiến hành gặp gỡ chuyện trò và trao đổi với Ban giám hiệu, giáo viên đang
trực tiếp giảng dạy các môn học liên quan đến giáo dục giới tính ở các trường THCS
tại huyện Thuận An, cán bộ chuyên môn phòng Giáo dục Thuận An, một số cha mẹ
học sinh về các vấn đề có liên quan.
7.4. Phương pháp điều tra bằng phiếu thăm dò ý kiến
Sử dụng phiếu thăm dò ý kiến đối với một số cán bộ, giáo viên trực tiếp làm
công tác này, một số phụ huynh, học sinh học tại các trường trung học cơ sở thuộc
huyện Thuận An tỉnh Bình Dương về thực trạng của đội ngũ giáo viên đối với vấn đề
này và các giải pháp
7.5. Phương pháp tổng kết kinh nghiệm
Thông qua các kết quả điều tra để phân tích, tổng hợp, so sánh. Từ đó rút ra
những kết luận chủ yếu mang tính sự kiện có ý nghĩa.
8. Đóng góp của đề tài
Xác định những cơ sở có tính khoa học về việc cần thiết phải tổ chức quản lý
chặt chẽ việc giáo dục giới tính ở các trường THCS trong huyện Thuận An nhằm
nâng cao hiệu quả giáo dục.
Đưa ra biện pháp nhằm chấn chỉnh công tác giáo dục giới tính ở các trường
THCS trong huyện Thuận An và các huyện khác có điều kiện tương tự như tại huyện
Thuận An, tỉnh Bình Dương.
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VẤN ĐỀ GIÁO DỤC GIỚI
TÍNH Ở CÁC TRƯỜNG THCS
1.1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Ngay từ thời Cổ đại, giới tính đã dược quan tâm tìm hiểu, tuy rằng rất thô sơ và
mang màu sắc cảm tính, mê tín. Từ thời kỳ xa xưa của văn minh loài người, giới tính
đã được đề cập đến bằng một hệ thống thần thoại cổ đại và các khảo luận về tình yêu
như Kinh “Kama Sutra” của Ấn Độ, “Nghệ thuật yêu” của Ovidius, “Chuỗi ngọc của
người yêu” của Hazma, “Phaedr” và “Bữa tiệc” của Platon Trong đó các tác giả“
không những đặt cơ sở các chuẩn mực về đạo đức và tôn giáo cho tình yêu, mà còn
cung cấp những kiến thức về sinh học và tâm lí học tình dục”. IU.I. Kusniruk, Tính
dục học phổ thông, NXB Văn học, 1988-tr 10,11.
Vào cuối thế kỷ XVIII, đầu thế kỷ XIX, các đề tài nghiên cứu giới tính được mở
rộng hơn Cho đến cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, các nhà khoa học J. Bachocen
(Thuỵ Sỹ), J. Mac Lennan (Anh), E. Westermach (Phần Lan), Lewis Henry Morgan
(Mĩ), X.M. Kovalevxki (Nga) không những đã gắn sự phát triển quan hệ tính dục
với các dạng hôn nhân và gia đình, mà còn gắn cả với yếu tố khác của chế độ xã hội
và văn hoá.
Vấn đề tổ chức hoạt động giáo dục giới tính ở Việt Nam trong thời gian gần đây
đã được các nhà khoa học, các nhà quản lý, các tổ chức chính trị - xã hội quan tâm
nghiên cứu.
Trong Chỉ thị số 176A ngày 24/12/1974 do Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Phạm
Văn Đồng kí đã nêu rõ: “Bộ giáo dục, Bộ Đại học và Trung học chuyên nghiệp, Tổng
cục dạy nghề phối hợp với các tổ chức có liên quan xây dựng chương trình chính
khoá và ngoại khoá nhằm bồi dưỡng cho học sinh những kiến thức về khoa học giới
tính, về hôn nhân gia đình và nuôi dạy con cái.”. Bộ Giáo dục đã đưa ra Chỉ thị về
việc giáo dục dân số và giáo dục giới tính trong toàn bộ hệ thống trường học các cấp
và các ngành học của cả nước.
Từ năm 1985, những công trình nghiên cứu của các tác giả về giới tính, về tình
yêu, hôn nhân gia đình đã bắt đầu được công bố. Các tác giả Đặng Xuân Hoài, Trần
Trọng Thuỷ, Phạm Hoàng Gia, Nguyễn Thị Đoan, Nguyễn Thị Tho, Bùi Ngọc Oánh,
Lê Nguyên, Phạm Ngọc, Minh Đức đã nghiên cứu nhiều vấn đề, nhiều khía cạnh
chi tiết của giới tính và giáo dục giới tính. Những công trình này đã nêu lên nhiều vấn
đề rất phong phú đa dạng về vấn đề giới tính và giáo dục giới tính ở Việt Nam.
Công trình nghiên cứu các dự án VIE/88/P09, VIE 88/P11... cấp-quốc gia do tổ
chức PATH CANADA tài trợ cùng nhóm nghiên cứu là các nhà khoa học tầm cỡ của
Việt Nam đã xem xét việc giáo dục giới tính là vấn đề mấu chốt của đức dục đối với
tuổi vị thành niên nói chung và học sinh bậc trung học cơ sở nói riêng được triển khai
thực nghiệm từ thập niên 1980 và chính thức đưa vào thực hiện rộng rãi trong các
trường THCS từ năm học 1990-1991 đã mở ra một bước ngoặc quan trọng trong việc
nghiên cứu, quy hoạch, xây dựng và phát triển đội ngũ cán bộ quản lý, giáo viên ở
các cơ sở giáo dục trực tiếp làm công tác giáo dục giới tính có phẩm chất, có năng lực
trình độ chuyên môn nhất định, có tầm nhìn trong lĩnh vực này nhằm đáp ứng kịp
thời cho sự nghiệp ''trông người''. Giáo dục giới tính bao hàm những tri thức về mối
quan hệ giữa sự phát triển tình dục và nhân cách, thể chất và tinh thần của trẻ em và
thanh thiếu niên thông qua các hình thức: lồng ghép vào một số môn văn hóa, sinh
hoạt nội khóa, sinh hoạt ngoại khóa bằng phương pháp dạy học tích cực và việc trao
đổi kinh nghiệm giáo dục để tìm ra những giải pháp tốt nhất cho việc giáo dục giới
tính trong nhà trường phổ thông nói chung và ở bậc THCS nói riêng.
Các tác giả, các nhà nghiên cứu giáo dục, các chuyên gia đầu ngành trong và
ngoài nước đã có nhiều công trình nghiên cứu về vấn đề giáo dục giới tính trong nhà
trường, về vai trò của các nhà giáo dục nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục như :
- Tác giả J.P MA-SƠ-LÔ-VA (Tiệp Khắc) đã nghiên cứu các vấn đề về giới tính
cho rằng:''Nhiều người trong chúng ta biết rằng không nên để con cái phải tự lần mò
tìm hiểu lấy chuyện tình dục, song lại không biết hướng dẫn, tác động, không biết khi
nào cần nói và nói như thế nào. Thế hệ trẻ ngày nay khác rất xa thế hệ chúng ta. Vì
vậy phải dẫn dắt họ theo kiểu khác.”, “Mục đích của toàn bộ chương trình giáo dục
tình dục từ tuổi ấu thơ tới tuổi trưởng thành không chỉ là trang bị kiến thức, xây dựng
ý thức tình dục mà điều quan trọng là xây dựng những quan niệm đúng đắn về vai trò,
trách nhiệm của người đàn ông và phụ nữ trong cuộc sống vợ chồng, trong gia đình
và trong xã hội''.- Sách ''Giới tính tuổi hoa'' tr. 38,48.
- Tác giả Nguyễn Quang Dương cho rằng:'' Trở ngại lớn trong việc giáo dục giới
tính trẻ vị thành niên là do thầy cô và cha mẹ thường chỉ chú trọng việc giáo dục bằng
sức ép từ trên dội xuống và tác động một chiều, không cởi mở, thiếu lắng nghe. Điều
đó càng tạo thêm hố sâu, khoảng cách giữa thầy cô, cha mẹ và con cái, làm giảm
thiểu (có khi phản tác dụng) về hiệu quả giáo dục... Chính vì vậy, mà việc liên kết
giữa gia đình, nhà trường và xã hội trong vấn đề này là vô cùng quan trọng.”- Tạp chí
phát triển giáo dục số 165, tr. 56,57.
- Tác giả Võ Hưng, tại hội thảo khoa học ''Đề xuất và thử nghiệm giải pháp đưa
giáo dục giới tính vào trường trung học tại Tp. HCM'' khẳng định:''Các bậc cha mẹ
cần hiểu rõ mục đích giáo dục giới tính là giúp con em biết tự tin, tự trọng và tự bảo
vệ để sau này trở thành người có trách nhiệm với xã hội, biết tôn trọng nhau trong
quan hệ nam nữ, tạo điều kiện để xây dựng cuộc sống hạnh phúc''.- Báo Giáo dục và
Thời đại số 37/2004, tr.41.
- Dự án VIE/97/P12 đã nghiên cứu về giáo dục SKSS-VTN cho rằng: ''Vị thành
niên và thanh niên là một giai đoạn trong cuộc đời con người. Lớp thanh niên này
được thông tri giáo dục về SKSS -VTN sẽ trưởng thành lên người lớn. Lại có một lớp
VTN mới cần được thông tri giáo dục về SKSS - VTN. Và vì vậy, nhu cầu về thông
tin giáo dục SKSS-VTN cho vị thành niên là một nhu cầu thường xuyên, liên tục''
tr.192.
- Dự án VIE/88/P10 đã nghiên cứu về kiến thức y học liên quan đến giới tính. Đặc
biệt là giáo dục sức khỏe sinh sản trong thanh niên.
- Đặc biệt từ năm 1988, một đề án với quy mô lớn nghiên cứu về giáo dục đời
sống gia đình và giới tính cho học sinh (gọi tắt là Giáo dục đời sống gia đình) có kí
hiệu VIE/88/P09 (gọi tắt là đề án P09) đã được Hội đồng Chính phủ, Bộ Giáo dục và
Đào tạo, Viện Khoa học Giáo dục Việt Nam thông qua và cho phép thực hiện với sự
tài trợ của UNFPA và UNESCO khu vực. Dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Giáo sư Trần
Trọng Thuỷ và Giáo sư Đặng Xuân Hoài, Đề án đã được tiến hành rất thận trọng và
khoa học, nghiên cứu khá sâu rộng nhiều vấn đề như: quan niệm về tình bạn, tình
yêu, hôn nhân, nhận thức về giới tính và giáo dục giới tính của giáo viên, học sinh,
phụ huynh ở nhiều nơi trong cả nước, để chuẩn bị tiến hành giáo dục giới tính cho
học sinh phổ thông từ lớp 9 đến lớp 12.
Ngoài ra, còn nhiều tác giả, nhiều công trình nghiên cứu được công bố trên các
tập san chuyên nghành như: nghiên cứu giáo dục, giáo dục phổ thông,... Những công
trình này thực sự nghiên cứu những mảng đề tài hết sức thiết thực, cụ thể trong công
tác quản lý, xây dựng đội ngũ làm công tác giáo dục giới tính trong các trường phổ
thông. Riêng ở huyện Thuận An, tỉnh Bình Dương, vấn đề xây dựng đội ngũ cán bộ -
giáo viên tham gia làm công tác giáo dục giới tính trong nhà trường nói chung và ở
bậc THCS nói riêng chưa được quan tâm đúng mức của các cấp Chính quyền và của
ngành Giáo dục. Do đó, đối tượng này cần được nghiên cứu khách quan từ thực trạng
giáo dục giới tính hiện nay, để từng bước củng cố, đào tạo bồi dưỡng đội ngũ làm
công tác này trở thành lực lượng chủ yếu, quyết định sự phát triển nhân cách của học
sinh theo đúng hướng phát triển sự nghiệp giáo dục ở tỉnh Bình Dương nói chung và
huyện Thuận An nói riêng trong thời gian tới.
1.2. Một số khái niệm cơ bản
1.2.1. Giới
- Giới xuất phát từ '' từ Gender '' trong tiếng Anh.
- Giới là một khái niệm rất phức tạp, được hiểu theo nhiều nghĩa:
+ Theo góc độ sinh học, giới được hiểu là một tập hợp những đặc điểm sinh lí
cơ thể đặc trưng ở con người (Ở động vật, giới ở đây có nghĩa là giống. Trong động
vật có giống đực và giống cái.). Những đặc điểm sinh lí cơ thể thường bao gồm
những đặc điểm di truyền, những hệ cơ quan sinh lí cơ thể, điển hình và quan trọng
nhất là hệ cơ quan sinh dục. Ở con người có hai hệ cơ quan sinh dục chính là hệ cơ
quan sinh dục nam và hệ cơ quan sinh dục nữ, vì vậy loài người có hai giới là giới
nam và giới nữ. Giới theo nghĩa này được hiểu là giới sinh học, giới di truyền.
+ Theo góc độ xã hội, giới là những đặc điểm mà xã hội tạo nên ở người nam
và người nữ, là quy định của xã hội về người nam và người nữ, là những đặc trưng xã
hội ở nam và nữ. Đó là giới xã hội. Giới xã hội thường bao gồm nhiều vấn đề như:
vai trò, vị trí của mỗi giới, đặc điểm và nhiệm vụ của mỗi giới trong xã hội Những
vấn đề này thường do xã hội quy định và biến đổi theo từng giai đoạn lịch sử, từng
quốc gia, tuỳ theo truyền thống, phong tục tập quán của mỗi dân tộc
+ Tổng quát hơn có thể định nghĩa giới như sau:
Giới là một tập hợp người trong xã hội có những đặc điểm sinh học cơ bản giống
nhau.
* Như vậy, giới bao gồm hai loại thuộc tính, thuộc tính sinh lí cơ thể và thuộc
tính xã hội.
+ Xét về mặt sinh lí cơ thể, giới là những đặc điểm bẩm sinh, có tính di truyền.
Yếu tố quan trọng và điển hình của giới ở đây là hệ cơ quan sinh dục. Và dưới ảnh
hưởng chủ yếu của hoạt động của hệ cơ quan sinh dục, cơ thể con ngưòi còn có
những biến đổi khác, tạo nên những đặc trưng của giới về hệ xương và hệ cơ, chiều
cao và cân nặng, tỉ lệ giữa cơ và mỡ, hình dáng đặc trưng của cơ thể nam và cơ thể
nữ, sức lực của từng giới và về nhiều đặc điểm sinh lí cơ thể khác. Do cấu tạo sinh lí
cơ thể khác nhau, ở mỗi giới có những chức nănh sinh lí khác nhau, như nữ giới có
khả năng thụ thai, sinh nở, có hiện tượng kinh nguyệt gới nam không có những
chức năng trên, nhưng thường cao lớn khoẻ mạnh hơn, có khả năng sản xuất tinh
trùng
+ Xét về mặt xã hội, giới là những đặc điểm do xã hội tạo ra, do những quy
định, luật lệ, đòi hỏi của xã hội đối với con người là nam hay nữ. Ban đầu dưới ảnh
hưởng của đặc tính về sinh lí cơ thể như chiều cao, tầm vóc, sức mạnh, người nam
và người nữ được phân công những công việc, những vai trò khác nhau trong đời
sống xã hội. Dần dần ở mỗi người, mỗi giới tạo nên những đặc tính về mặt xã hội như
vai trò của gia đình, địa vị xã hội, nhu cầu về đời sống tình cảm Những yếu tố trên
chịu sự tác động của xã hội, của lịch sử tạo nên những đặc điểm, chức năng, vai trò
xã hội khác nhau. Giới được thể hiện ở vai trò, chức năng, nghĩa vụ xã hội. Giới là
tập hợp người có những vai trò chức năng xã hội nhất định.
Như vậy, giới có thể được hiểu là giới sinh học hay giới xã hội.
Khi nói đến giới sinh học, người ta thường chú ý nhiều đến hệ cơ quan sinh dục
của con người. Khi em bé lọt lòng mẹ sinh ra, người ta chỉ dựa vào hệ cơ quan sinh
dục để xếp em bé đó thuộc về giới nam hay giới nữ (em trai hay em gái). Khi em bé
lớn lên, đặc biệt là khi bước vào thời kỳ dậy thì, người ta có thể xếp một người vào
giới thứ ba nếu hoạt động của hệ cơ quan sinh dục của người đó là không bình
thường.
Khi nói đến giới xã hội, có nhiều vấn đề được quan tâm như:
- Vai trò của người nam, người nữ trong xã hội.
- Sự phân công lao động trong xã hội cho người nam và người nữ.
- Sự bình đẳng giữa giới nam và giới nữ (vấn đề bình đẳng giới).
- Những quan điểm đánh giá về vai trò của người nam và của người nữ trong
xã hội.
- Sự phát triển, sự tiến bộ của con người ở mỗi giới trong xã hội.
- Mối quan hệ xã hội và sự cư xử giữa hai giới.
Ngày nay, trong xã hội ta, còn tồn tại nhiều vấn đề phức tạp về giới xã hội
như: vấn đề bình đẳng giới, vấn đề quan hệ giữa hai giới, vấn đề giới tính ở mỗi
giới
1.2.2. Giới tính
- Giới tính có thể được hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau và thường bị sử dụng
lẫn lộn với nhiều thuật ngữ khác như: giới, tính dục, tình dục, sinh dục Nhiều
người thường quan niệm giới tính đồng nghĩa với tình dục hoặc với tính dục. Đó là
quan niệm chưa thật sự đầy đủ, chỉ hiểu một cách đơn giản hoặc hiểu về một mặt nào
đó của giới tính.
- Giới tính cần được hiểu một cách toàn diện hơn:
+ Trước hết, theo từ ngữ, giới tính có thể được hiểu là những đặc điểm của
giới. Những đặc điểm này có thể rất phong phú và đa dạng. Vì giới vừa bao gồm
những thuộc tính về sinh học và những thuộc tính về tâm lí xã hội, nên giới tính cũng
bao gồm những đặc điểm về sinh lí cơ thể và tâm lí xã hội.
+ Giới tính cũng có thể được hiểu là những đặc điểm tạo nên những đặc trưng
của giới, giúp cho chúng ta phân biệt giới này với giới kia.
Những đặc điểm trên thường