Đề tài tập trung nghiên cứu đặc điểm sinh học sinh sản của cá Ngát ngoài tự
nhiên. Mẫu cá được thu tại 3 tỉnh An Giang, Cần Thơ, Sóc Trăng dọc theo
tuyến sông Hậu từ các ngư dân và các chợ địa phương.
Kết quả nghiên cứu cho thấy cá Ngát (Plotosus canius) có sự tương quan chặt
chẽ giữa sức sinh sản tuyệt đối và tọng lượng cá theo phương trình có dạng
y=2.3003x0.9514
với hệ số tương quan R2
=0.809. Độ béo của cá biến đổi trong
các tháng quan sát như sau: Độ béo Fulton thay đổi từ (0.16-3.52%) và độ béo
Clack thay đổi từ (0-3.34%). Độ béo tăng cao nhất vào khoảng tháng 11. Hệsố
thành thục (GSI) trung bình của cá thấp thay đổi từ (0.145-3.55%) thấp nhất
vào khoảng tháng 9. Sức sinh sản trung bình tuyệt đối của cá Ngát là 2125
trứng/cá thể và sức sinh sản tương đối là 1692 trứng/Kg. Đường kính trứng
trong bình của cá dao động từ 0.37-0.68 cm, lớn hơn nhiều so với các loài cá
khác.
33 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 2394 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Tiếp tục nghiên cứu đặc điểm sinh học sinh sản cá ngát (plotosus canius hamilton, 1822), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA THỦY SẢN
NGUYỄN VĂN VIẾNG ANH
TIẾP TỤC NGHIÊN CỨU ĐẶC ĐIỂM SINH HỌC
SINH SẢN CÁ NGÁT
(Plotosus canius Hamilton, 1822)
LUẬN VĂN ĐẠI HỌC
Cần thơ, 2009
LỜI CẢM TẠ
Xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành đến cô Nguyễn Bạch Loan đã hướng dẫn
tận tình và đóng góp ý kiến quý báo giúp em hoàn thành luận văn tốt nghiệp
này.
Xin được gửi lời cảm ơn đến:
Thầy Nguyễn Văn Thường, thầy Trần Đắc Định, thầy Vũ Ngọc Út đã tạo điều
kiện để thuận lợi để luận văn tốt nghiệp em được hoàn thành.
Qúy thầy cô, cán bộ Khoa Thủy sản đã tận tâm truyền đạt kiến thức trong suốt
thời gian học tập tại trường.
Cảm ơn sự giúp đỡ tận tình của anh Nguyễn Bá Quốc trong quá trình thực hiện
đề tài, cảm ơn những lời động viên tinh thần của các bạn cùng lớp trong suốt
quá trình học tập.
Cuối cùng xin cảm ơn Ba, Mẹ đã dạy dỗ, tạo mọi điều kiện để con có cơ hội
học tập và hoàn thành luận văn tốt nghiệp.
TÓM TẮT
Đề tài tập trung nghiên cứu đặc điểm sinh học sinh sản của cá Ngát ngoài tự
nhiên. Mẫu cá được thu tại 3 tỉnh An Giang, Cần Thơ, Sóc Trăng dọc theo
tuyến sông Hậu từ các ngư dân và các chợ địa phương.
Kết quả nghiên cứu cho thấy cá Ngát (Plotosus canius) có sự tương quan chặt
chẽ giữa sức sinh sản tuyệt đối và tọng lượng cá theo phương trình có dạng
y=2.3003x0.9514 với hệ số tương quan R2=0.809. Độ béo của cá biến đổi trong
các tháng quan sát như sau: Độ béo Fulton thay đổi từ (0.16-3.52%) và độ béo
Clack thay đổi từ (0-3.34%). Độ béo tăng cao nhất vào khoảng tháng 11. Hệ số
thành thục (GSI) trung bình của cá thấp thay đổi từ (0.145-3.55%) thấp nhất
vào khoảng tháng 9. Sức sinh sản trung bình tuyệt đối của cá Ngát là 2125
trứng/cá thể và sức sinh sản tương đối là 1692 trứng/Kg. Đường kính trứng
trong bình của cá dao động từ 0.37-0.68 cm, lớn hơn nhiều so với các loài cá
khác.
Phần I: ĐẶT VẤN ĐỀ
Việt Nam là một trong những nước có diện tích nuôi trồng thủy sản (NTTS)
lớn nhất Thế giới (Hanafi và Admad, 1999). Theo Bộ thủy sản Việt nam tính
đến 14/11/08 kim nghạch xuất nhập khẩu của Việt Nam xấp xỉ 4 tỷ USD, trong
10 tháng đầu năm xuất khẩu đat 1.054.600 tấn, tăng 24% so với cùng kỳ năm
ngoái. Qua đó, cho thấy được vai trò quan trọng của thủy sản đối với nền kinh
tế của đất nước. Hơn nữa sản phẩm thủy sản còn cung cấp nguồn đạm rất cần
thiết cho người nghèo và là sản phẩm tốt cho sức khỏe cộng đồng. Trên Thế
giới, tiêu thụ sản phẩm thủy sản 5-9.7 (Kg/người /năm) ở Việt Nam là 13-15
(Kg/người/năm), riêng ở ĐBSCL là 30 (Kg/người/năm). Thủy hải sản lại có hệ
số chuyển hóa thức ăn thấp hơn gia súc và gia cầm (Lê Xuân Sinh, 2005). Tuy
nhiên nguồn lợi thủy sản tự nhiên thì có hạn mà nhu cầu của con người thì tăng
lại càng tăng nhất là những loài cá có thịt thơm ngon như cá Trê vàng, cá
Chạch lấu, nhất là cá Ngát. Cá Ngát (Plotosus canius Hamilton, 1822), một
trong những loài cá da trơn có kích cỡ thương phẩm tương đối lớn, trung bình
cá 2 năm tuổi có trọng lượng từ 2- 3 kg/con. Cá ngát có giá trị thịt thơm ngon.
Hiện nay trên thị trường, cá có trọng lượng trên 1kg được bán với giá từ 40.000
- 50.000 đồng.(Google, 2008)
Do có giá trị kinh tế cao nên nhiều ngư dân đã khai thác tích cực đối tượng này
dẫn đến sự cạn kiệt dần nguồn cá ngoài nhiên. Trên cơ sở điều tra của Trung
Tâm Nghiên cứu và Sản xuất giống thủy sản An Giang, bước đầu có thể nhận
định cá Ngát hoàn toàn có thể nuôi được trong các lồng bè đặt nơi có dòng
chảy tốt và đây có thể được xem là một đối tượng nuôi mới rất hiệu quả trong
tương lai. Nhưng những nghiên cứu về đối tượng này còn rất ít và qui trình sản
xuất giống chưa ổn định để đáp ứng nhu cầu trong tương lai. Chính vì vậy Lê
Thái Nguyên (2008) đã tìm hiểu một số chỉ tiêu sinh học sinh sản của cá Ngát
nhưng thời gian thực hiện chỉ mới từ tháng 1-5. Xuất phát từ tình hình trên
được sự phân công của Khoa thủy sản, Bộ môn Thủy sinh học ứng dụng, đề tài
“Tiếp tục nghiên cứu đặc điểm sinh học sinh sản của cá Ngát (Plotsus canius)
được tiến hành.
1.1 Mục tiêu của đề tài
Góp phần hoàn chỉnh những dẫn liệu về sinh học sinh sản nhằm cung cấp cơ sở
khoa học cho những nghiên cứu tiếp về sản xuất giống nhân tạo loài cá Ngát
(Plotosus canius Hamilton, 1822)
1.2 Nội dung
1.2.1. Tiếp tục khảo sát hình thái các giai đoạn phát triển của tuyến sinh dục
qua các tháng còn lại trong năm.
1.2.2. Biến động độ béo qua các tháng thu mẫu.
Clark
Fulton
1.2.3. Tiếp tục theo dõi biến động hệ số thành thục của cá Ngát ngoài tự nhiên.
1.2.4. Đường kính trứng của cá Ngát.
1.2.5. Sức sinh sản tuyệt đối và tương đối.
1.2.6. Tiếp tục nghiên cứu về mối quan hệ giữa sức sinh sản và kích cỡ cá
Ngát thành thục sinh dục.
PHẦN II: LƯỢC KHẢO TÀI LIỆU
Họ cá Plotosidae được phát hiện đầu tiên trong thủy vực thuộc vùng cửa sông,
vùng đầm phá, thỉnh thoảng bắt gặp trong các con sông ở các quốc gia phụ cận
khu vực hạ lưu Ấn Độ - Tây Thái Bình Dương và sự đa dạng thành phần loài
của họ cá này cũng tập trung chủ yếu ở khu vực này: từ bờ biển phía tây và
phía nam Ấn Độ, chạy về phía đông Sri Lanka đến bờ biển Bangladesh and
Myanmar, xuyên qua Châu Úc (Indo-Australian Archipelago) and Philippines.
(Fishbase, 2008)
Hình 1: Bản đồ phân bố của cá Ngát trên Thế giới
2.1 Đặc điểm hình thái phân loại cá Ngát
2.1.1 Vị trí phân loại
Theo dẫn liệu từ Fishbase (2008) và Itis (2008) hệ thống phân loại của cá Ngát
được xác định như sau:
Giới: Animalia Linnaeus, 1758 - animals
Ngành: Chordata Bateson, 1885 - chordates
Lớp: Osteichthyes Huxley, 1880 - bony fishes
Bộ: Siluriformes - catfishes
Họ: Plotosidae - eeltail catfishes
Giống: Plotosus La Cepède, 1803
Loài: Plotosus canius Hamilton, 1822
Cá Ngát Plotosus canius còn có các đồng danh sau (Fishbase ,2008):
+ Plotosus canius Hamilton, 1822
+ Plotosus horridus Bleeker, 1846
+ Plotosus multiradiatus Bleeker, 1846
+ Plotosus unicolor Valenciennes, 1840
+ Potosus viviparus Bleeker, 1846
Hiện nay tên Plotosus canius Hamilton, 1822 của cá Ngát được nhiều tác giả sử
dụng phổ biến trên thế giới (Fishbase, 2008 và Itis, 2008).
Theo Trương Thủ Khoa và Trần Thị Thu Hương (1993) và Rainboth (1996) họ
Plotosidae chỉ có một giống Plotosus. Theo Itis (2008) và Fishbase (2008) họ
Plotosidae có 10 giống cá với tên khoa học như sau:
+ Anodontiglanis Rendahl, 1922
+ Cnidoglanis Günther, 1864
+ Euristhmus Ogilby, 1899
+ Neosiluroides Allen and Feinberg, 1998
+ Neosilurus Steindachner, 1867
+ Oloplotosus Weber, 1913
+ Paraplotosus Bleeker, 1862
+ Plotosus Lacepède, 1803
+ Porochilus Weber, 1913
+ Tandanus Mitchell, 1838
2.1.2 Đặc điểm hình thái:
Do có giá trị kinh tế cao, thịt ngon, kích thước lớn nên loài cá Ngát Nanh hay
cá Ngát Chó (Plotosus canius) được nhiều người nghiên cứu. Theo Trương Thủ
Khoa và Trần Thị Thu Hương, 1993, ở ĐBSCL chỉ có một loài Plotosus canius
Hamilton, 1822, được mô tả như sau:
D. I, 4 P. I, 12 V. 12 – 13
Dài chuẩn / Dài đầu = 5,2 (4,8 - 5,5)
Dài đầu / Khoảng cách hai mắt = 2,9 (2,6 – 3,3)
Dài chuẩn / Cao thân = 6,5 (5,9 – 7,6)
Dài đầu / Đường kính mắt = 10,9 (9,5 – 11,9)
Hình2: Hình dạng ngoài cá Ngát
Đầu to, rộng, dẹp bằng. Miệng dưới nằm trên mặt phẳng nằm ngang, không co
duỗi được. Môi dày, mềm, có viền rua. Răng hình quạt, cứng chắc. Răng vòm
miệng xếp thành một đám có dạng hình lưỡi liềm, răng xếp thành 4 hàng
ngang, các hàng sau thô hơn các hàng trước. Có 4 đôi râu to: Một đôi râu mũi
(kéo dài qua khỏi mắt), một đôi râu mép nhưng hơi lệch về phía hàm trên, hai
đôi râu hàm dưới. Mắt cá nhỏ, hoàn toàn nằm ở mặt lưng của đầu, gần chót
mõm hơn gần cuối nắp mang. Phần trán giữa hai mắt rộng. Mấu xương chẩm
nhỏ, hình tam giác đều. Hai màng mang dính nhau một phần và dính với eo
mang.
Thân dài, phần trước tròn, phần sau dẹp bên, mỏng và mềm mại. Đường bên
hoàn toàn chạy từ mép trên lỗ mang đến điểm giữa gốc vi đuôi. Cá có hai vi
lưng, gốc vi lưng thứ nhất ngắn, có gai độc, gốc vi lưng thứ hai và vi hậu môn
nối liền với vi đuôi nhỏ. Vi đuôi không chẻ hai. Vi ngực có gai độc. Gai độc
trước các vi ngực và vi lưng rất nhọn, cạnh trước và sau có răng cưa sắc. Cơ ở
gốc vi phát triển và da ở vi dày.
Mặt lưng của thân và đầu có màu nâu đen đến nâu đỏ nhạt dần xuống bụng.
Bụng cá và mặt dưới của đầu có màu trắng sữa. Mặt trên của vi ngực, vi bụng
màu xám, mặt dưới màu trắng sữa. Râu mép và râu mũi sậm hơn râu hàm dưới.
2.2 Phân bố và môi trường sống
2.1.1 Thế giới
Bộ Siluriformes phân bố rất rộng người ta đã tìm thấy chúng ở Bắc, Trung,
Nam Phi, Châu Mỹ, Châu Âu, Đông Nam Á…Ngoại trừ 2 họ (Aridae và
Plotosidae) phân bố ở nước lợ nhưng di cư vào nước ngọt để tìm mồi. (Google,
2008)
Cá Ngát phân bố rộng ở vùng nhiệt đới, vùng Ấn Độ - Tây Thái Bình Dương
(Fishbase, 2008; Trần Ngọc Hải và Nguyễn Thanh Phương, 2006), xuất hiện
nhiều ở các cửa sông, hồ, vịnh, đầm phá nước lợ, biển, chúng cũng có thể sống
ở cả những vùng nước ngọt sâu trong nội địa (Fishbase, 2008). Chúng được tìm
thấy ở các nước: Úc, Bangladesh, Brunei Darsm, Campuchia, Ấn Độ,
Indonesia, Lào , Malaysia, Papua Guin, Myanmar, Philippines, Singapore, Sri
Lanka, Thái Lan, và Việt Nam (Fishbase, 2008).
Loài cá Ngát chó (Plotosus canius) sống đáy, vùng nước ngọt, nước lợ và nước
mặn, phân bố chủ yếu ở: vùng ven biển các nước Bangladesh, Myanmar, Thái
Lan, Sundaland, Sulawesi, Moluccas, Ấn Độ, và bên trong hạ lưu sông
Mekong.
2.1.2 Việt Nam
Ở nước ta có 2 loài cá thuộc giống Plotsus là:
Loài Plotosus canius tìm thấy ở Nam Bộ và sông MêKông (Nguyễn Hữu
Phụng và Nguyễn Nhật Thi, 2004; Google, 2008)
Loài Plotosus linaetus được tìm thấy ở Vịnh Bắc Bộ và Miền Trung Việt Nam;
kích thước trung bình 15-20 cm, lớn nhất 90 cm. Trên thế giới cá Ngát sọc
phân bố ở biển và cửa sông, Đông Phi, Mandagascar, Hồng Hải, Ấn Độ, Úc,
Malaysia, Philippines, Nhật Bản, Trung Quốc, Việt Nam.
Theo kết quả khảo sát của Lâm Văn Minh, 2000 cho biết cá Ngát có thể sống
nơi có các chỉ tiêu môi trường như sau:
Trung bình các điểm thu
Yếu tố môi trường
Ba Tri Tiệm Tôm Vàm Nao
Oxy (ppm) 6.8 6.4 7.5
Nhiệt độ nước (0C) 28 28 2
Nhiệt độ không khí(0C) 29 28 30
pH 6 6 6.5
Độ trong (cm) 15 30 25
Nồng độ muối (%0) 10.3 14.5 0
Bảng 2.1 Các chỉ tiêu môi trường tại các điểm thu của Lâm Văn Minh. 2000
2.3 Đặc điểm dinh dưỡng và sinh sản
2.3.1 Đặc điểm đinh dưỡng
Cấu tạo và chức phận của các cơ quan bắt mồi và tiêu hóa có liên hệ chặt chẽ
với sự khác biệt về thức ăn của cá. Theo (Nikolxki, 1964) cá ăn thịt với đặc
điểm là miệng rộng, răng sắc trên các xương hàm, xương lá mía và xương khẩu
cái. Chiều dài của ruột có liên quan chặt chẽ đến đặc điểm dinh dưỡng của cá,
những loài cá có tính ăn thiên về động vật sẽ có chỉ số Li/LO (tỷ lệ chiều dài
ống tiêu hóa và chiều dài thân) ≤1, cá ăn tạp có Li/LO =1-3 và cá ăn tạp có Li/LO
≥ 3.
Ngoài ra, để xác định tính ăn của cá người ta còn căn cứ trên lược mang, cấu
tạo của dạ dày, răng hầu, …Theo Nikolxki, 1964 cá ăn thịt có lược mang ngắn,
thưa, dạ dày to, manh tràng và răng hầu phát triển .
Tính ăn của cá thay đổi theo kích thước cơ thể. Lúc còn nhỏ (1-3 ngày tuổi) cá
dinh dưỡng chủ yếu bằng noãn hoàng, khi cá hấp thu hết chuyến sang ăn thức
ăn bên ngoài nhưng chủ yếu là động vật phù du cỡ nhỏ. Theo Vahta; Nguyễn
Văn Kiểm, (1997) cá Trơn ở giai đoạn cá con thức ăn gồm: giáp xác nhỏ,
rotifer, phytoplankton,… Số ngày tuổi càng tăng thì tỉ lệ giáp xác nhỏ càng
giảm trong khi giáp xác lớn càng tăng. Ngoài ra cá Trơn cũng có thể ăn thức ăn
đáy như giun ít tơ, ấu trùng Chironomus.
Theo Nguyễn Bạch Loan (2000), cá Ngát là loài ăn tạp thiên về động vật với
phổ thức ăn rộng (Mùn bã hữu cơ, động vật phù du, cá con, thực vật thủy sinh,
thực vật phù du, giáp xác, nhuyễn thể, giun).
Hầu hết các loài cá Ngát ăn động vật thân mềm, giáp xác, cá có vẩy, động vật
đáy, mùn bã hữu cơ, giun nhiều tơ và một số loại thức ăn khác (Fishbase,
2008).
Theo Lâm Văn Minh (2000), phân tích theo phương pháp tần suất xuất hiện
cho thấy thức ăn trong ruột cá Ngát có 6 loại là: Mùn bã hữu cơ; phiêu sinh
thực vật; Giáp xác; Động vật hai mãnh vỏ; thực vật thượng đẳng và cá con.
Trong đó, mùn bã hữu cơ và thực vật thủy sinh xuất hiện với tần số cao nhất là
(100%) kế đến là cá con (72%). Còn thực vật thượng đẳng; giáp xác và động
vật hai mãnh vỏ xuất hiện với tần số lần lượt là: 28%; 32%; 32%.
Như vậy, trong 6 nhóm thức ăn thì giáp xác và động vật hai mãnh vỏ có cùng
tần số xuất hiện (32%). Mùn bã hữu cơ và thực vật thủy sinh tuy bắt gặp ở đoạn
đầu ống tiêu hóa của cá nhưng cũng hiện diện ở ruột sau, với lược mang của cá
Ngát ngắn, thưa, ruột cá lại ngắn, các cấu tạo này hoàn toàn không thích hợp
cho các loài cá ăn mùn bã hữu cơ và phiêu sinh thực vật. Bên cạnh đó các loài
thức ăn ở đáy như: động vật hai mãnh vỏ, giáp xác cao cho thấy mùn bã hữu cơ
bị cá Ngát ăn vào cùng với các loại thức ăn ở đáy. Các loại thức ăn như: sò,
cua, tép xuất hiện ở đoạn đầu ống tiêu hóa với tần số khá cao nhưng ở đoạn sau
chỉ thấy còn lại phần vỏ. Điều đó cho thấy các loại thức ăn này được cá thường
ăn và tiêu hóa tốt.
Tương tự, thực vật thượng đẳng xuất hiện ở đoạn đầu của ống tiêu hóa không
cao và ở phần ruột sau lại không thấy. Điều đó cũng cho thấy loại thức ăn này
cá không ăn thường xuyên nhưng cũng được cá tiêu thụ tốt. Kết quả này dự
đoán cá Ngát là loài ăn tạp.
Theo kết quả phân tích phổ thức ăn của Lâm Văn Minh (2000) cho thấy: Cá
con vẫn chiếm ưu thế nhất, giáp xác chiếm thứ hai, động vật hai mãnh vỏ đứng
thứ ba, thấp nhất là mùn bã hữu cơ và thực vật thượng đẳng. Cho thấy phổ thức
ăn của cá phong phú phù hợp với hình thái cấu tạo ống tiêu hóa của cá.
2.3.2 Đặc điểm sinh sản
2.3.2.1 Phương pháp xác định giai đoạn thành thục cá theo bậc thang
thành thục
Phương pháp thông thường để đánh giá giai đoạn thành thục của cá là xác định
giai đoạn thành thục của từng cá thể theo bậc thang thành thục trong đó có
những đặc điểm khác biệt có thể nhận biết được bằng mắt thường. Bậc thang
thành thục cho phép đánh giá nhanh mức độ thành thục và khả năng sinh sản
của một số lượng lớn cá thể.
Rất nhiều tác giả đã đưa ra các bậc thang thành thục của cá (Qasim, 1957;
Kesteven, 1960; Nikoxki, 1963; Laevastu, 1965; Crosland, 1977; Beumer,
1979). Các tác giả này đã chia bậc thang thành thục ra nhiều giai đoạn (4-5
giai đoạn thậm chí nhiều hơn: 7-8 giai đoạn). Sự phân chia bậc thang thành
thục ra nhiều giai đoạn cho phép phân chia khá chính xác mức độ thành thục
của các cá thể trong cùng một loài hay giữa các loài cá khác nhau. Tuy nhiên,
đánh giá nhanh bằng mắt chỉ có thể phân chia một cách tương đối số lượng
trung bình của mẫu vật quan sát. Cho nên không thể sử dụng bậc thang thành
thục có quá nhiều giai đoạn. Bậc thang thành thục có ít hơn 8 giai đoạn được
xem là thích hợp cho việc đánh giá hầu hết các loài cá (Holden và Raitt,
(1974) trích bởi: Phạm Thanh Liêm và Trần Đắc Định, 2004)
Các bậc thang thành thục còn được sử dụng để đánh giá nhanh tình trạng thành
thục của tuyến sinh dục trong điều kiện ít trang thiết bị khảo sát và cho phép
khảo sát một lượng lớn mẫu ngoài hiện trường. Nhìn chung, có 2 bậc thang
thành thục sinh dục thường được sử dụng:
Bậc thang thành thục 7 giai đoạn dành cho các loài cá đẻ trứng một lượt. Các
loài đẻ trứng một lượt có buồng trứng phát triển đồng nhất và tất cả các loài
trứng đều rụng cùng một thời điểm. Xác định giai đoạn thành thục các loài cá
này thường không khó, vì hầu hết các tế bào trứng đều phát triển với cùng một
giai đoạn trong cùng một thời điểm.
Bậc thang thành thục 5 giai đoạn dành cho các loài đẻ trứng nhiều đợt. Việc
xác định giai đoạn thành thục ở các loài cá này là vấn đề khá khó khăn vì thời
gian sinh sản của cá kéo dài và cá đẻ thành nhiều đợt. Buồng trứng của các
loài này có nhiều lứa trứng với các giai đoạn thành thục khác nhau.
Bảng 2.2: Bậc thang thành thục của cá đẻ trứng một lượt (theo Kesteven
(1960), trích bởi: Phạm Thanh Liêm và Trần Đắc Định, 2004)
Giai đoạn Mức độ thành thục Mô tả
I
Chưa thành thục
Tuyến sinh dục chưa phát triển, còn rất nhỏ
nằm sát vào cột sống. Tinh sào và noãn sào
là 2 sợi dây dài hẹp không màu hoặc màu
xám. Tế bào trứng không phân biệt được
II
III
IV
V
VI
VII
Trưởng thành
Sinh trưởng
Sinh trưởng & dinh
dưỡng
Thành thục
Rụng và đẻ trứng
Thoái hóa
bằng mắt thường.
Tuyến sinh dục bắt đầu phát triển và dài
thêm. Tinh sào có màu hơi đục, màu hơi
xám đến hồng. Chiều dài tuyến sinh dục
chiếm khoảng ½ hay hơn so với chiều dài
xoang bụng. Hạt trứng nhỏ và có thể quan
sát được bằng kính lúp. Các cá thể sau khi
đẻ trứng cũng được xếp vào giai đoạn này.
Tuyến sinh dục mờ đục, màu hơi đỏ với
nhiều mạch máu chiếm khoảng ½ thể tích
xoang bụng. Buồng trứng chứa đầy những
hạt trứng nhỏ, màu trắng đục và có thể
nhận biết được bằng mắt thường.
Tinh sào có màu đỏ nhạt đến trắng, không
có sẹ lỏng chảy ra khi ấn nhẹ vào. Buồng
trứng có màu vàng (cam) hơi đỏ. Các hạt
trứng có màu đục và có thể phân biệt rõ
từng hạt trứng. Tuyến sinh dục chiếm
khoảng 2/3 thể tích xoang bụng.
Tuyến sinh dục chiếm gần hết thể tích
xoang bụng. Tinh sào có màu trắng, có sẹ
trắng chảy ra khi ấn vào. Hạt trứng lớn,
tròn, một số trứng số trứng bắt đầu trong và
chín.
Trứng và sẹ chín muồi, khi ấn nhẹ vào
bụng các trứng và sẹ chảy ra từng tia. Nếu
nhấc ngược cá lên và lắc nhẹ, trứng và sẹ
chảy ra tự do. Tất cả trứng trở nên trong
suốt chỉ còn một vài trứng màu trắng đục
sót lại trong buồng trứng.
Tuyến sinh dục trở nên mềm nhũn, co lại
và có màu đỏ sẫm. Xoang bụng hầu như
trống rỗng, thường trong buồng trứng còn
sót lại một ít trứng nhỏ, các trứng này sẽ
chuyển biến và thoái hóa. Sau đó buồng
trứng trở về giai đoạn II .
Bảng 2.3 Bậc thang thành thục sinh dục theo Nikolxki (1963); trích bởi:
Phạm Thanh Liêm và Trần Đắc Định, 2004)
Giai đoạn Mô tả
I
II
III
IV
V
VI
Cá thể non chưa thành thục sinh dục
Tuyến sinh dục có kích thước rất nhỏ, mắt thường
không nhìn thấy hạt trứng.
Giai đoạn thành thục. Bằng mắt thường nhìn thấy
những hạt trứng. Khối lượng tuyến sinh dục tăng
lên rất nhanh, tinh sào có màu trắng trong, chuyển
sang màu hồng nhạt.
Giai đoạn chín muồi. Tuyến sinh dục có kích thướt
lớn nhất, nhưng khi ấn nhẹ các sản phẩm sinh dục
chưa chảy ra.
Giai đoạn đẻ trứng. Các sản phẩm sinh dục chảy ra
khi ấn nhẹ vào bụng cá. Khối lượng tuyến sinh dục
từ đầu đến cuối giảm đi rất nhanh.
Giai đoạn sau khi đẻ. Các sản phẩm sinh dục được
phóng thích hết, lỗ sinh dục phồng lên, tuyến sinh
dục trong dạng túi mềm nhão. Ở con cái thường có
những trứng nhỏ còn sót lại, ở con đực còn sót lại
một ít tinh trùng
2.3.2.2 Phương pháp xác định mức độ thành thục theo chiều dài cơ thể:
(trích bởi: Phạm Thanh Liêm và Trần Đắc Định, 2004)
Trong những trường hợp thực tế, việc thu mẫu để xác định mức độ thành thục
sinh dục rất khó thực hiện. Có một mối liên hệ khá chặt chẽ giữa giai đoạn
thành thục và chiều dài cơ thể và cá chỉ thành thục sinh dục sau khi đạt một
chiều dài nhất định. Do vậy, xác định thang thành thục theo chiều dài cơ thể sẽ
rất hữu ích trong việc đánh giá mức độ thành thục của một quần thể cá. Khi đã
xác định được thang thành thục theo chiều dài cơ thể, tỉ lệ thành thục (%) tại
một thời điểm nhất định có thể ước tính được dựa trên số đo chiều dài của cá.
Mối quan hệ giữa sức sinh sản và các chỉ tiêu sinh học khác (trích bởi: Phạm
thanh Liêm và Trần Đắc Định, 2004)
Nhiều tác giả (Bhatnagar, 1964; Rao, 1972; Varghese, 1973) cho rằng sức sinh
sản của cá có liên quan với lập phương của chiều dài cơ thể (chiều dài lũy thừa
3), một số tác giả khác thì quan sát thấy sức sinh sản của cá thì tăng theo tỉ lệ
của bình phương chiều dài cơ thể.
Tương tự, có sự tồn tại của tương quan giữa sức sinh sản và