Phê bình xã hội học (tiếng Pháp: Sociocritique, tiếng Anh: Sociocriticism)
nằm trong một lĩnh vực chung, có tên là xã hội học về văn học. Nó kế thừa,
điều chỉnhvà phát triển một số nguyên tắc nền tảng của triết học Mác- xít.
Khái niệm “socio-critique” được Claude Duchet khai sinh năm 1971, khi ông
đề nghị một cách đọc lịch sử -xã hội về văn bản. Tuy nhiên, xoay quanh khái
niệm này còn nhiều tên gọi khác nhau: “phê bình xã hội học” (sociocritique),
“xã hội học về văn học” (sociologie de la littérature), “xã hội học về văn bản”
(sociologie du text).
Trước hết, cần có một sự phân biệt giữa “phê bình xã hội học”
(sociocritique) và “xã hội học về văn học” (sociologie de la littérature). Mặc
dù phát xuất cùng niềm tin nhưng về mức độ và phạm vi quan tâm, “xã hội
học về văn học” lại tập trung vào toàn bộ yếu tố liên quan tới văn học; trong
khi điều đó được khu biệt lại ở văn bản- đối với “phê bình xã hội học”. Mặt
khác, Pierre V.Zima cho rằng “phê bình xã hội học” (sociocritique) và “xã
hội học văn bản” (sociologie du text) là đồng nghĩa và ông đề xuất cách gọi
“phê bình xã hội học” như một “sự lựa chọn theo hướng cập nhật” [64; 7].
Ngoài ra, cần phân biệt phương pháp phê bình xã hội học trong nghiên cứu
văn học- có khuynh hướng phát triển thành một lí thuyết phê bình xã hội (bao
gồm cả phê bình văn học) và những nghiên cứu xã hội học mang tính thực
nghiệm về văn học (sociologie de la littérature empirique)- trong đó, khía
cạnh phê bình ít nhiều bị lược bỏ.
55 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 2952 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Tiểu thuyết của các nhà văn nữ Nam Bộ đầu thế kỉ XX, nhìn từ phê bình xã hội học, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Luận văn
Tiểu thuyết của các nhà văn
nữ Nam Bộ đầu thế kỉ XX,
nhìn từ phê bình xã hội học
MỤC LỤC
ĐỀ MỤC TRANG
DẪN NHẬP 1
1. Lý do chọn đề tài:............................................................................................................... 1
2. Lịch sử vấn đề: ................................................................................................................ 2
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:.................................................................................... 7
4. Phương pháp nghiên cứu:................................................................................................. 8
5. Kết cấu khóa luận:............................................................................................................. 8
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG............................................................................. 10
1.1 Phê bình Xã hội học- quan niệm và phương pháp..................................................... 10
1.1.1. Phê bình Xã hội học, các quan niệm chính...................................................................... 10
1.1.2. Phê bình Xã hội học, các phương pháp tiếp cận.............................................................. 12
1.1 Đặc điểm xã hội và đặc điểm văn học Việt Nam đầu thế kỉ XX................................ 14
1.1.1 Đặc điểm xã hội............................................................................................................... 14
1.1.2 Đặc điểm văn học............................................................................................................ 16
1.2 Nhà văn nữ Nam Bộ đầu thế kỉ XX- Một hiện tượng xã hội đáng chú ý................. 18
1.2.1 Những thức tỉnh buổi giao thời....................................................................................... 18
1.2.2 Những đóa hoa vươn mình.............................................................................................. 19
CHƯƠNG 2: TIỂU THUYẾT CỦA CÁC NHÀ VĂN NỮ NAM BỘ ĐẦU THẾ KỈ XX: TỪ CẤU
TRÚC XÃ HỘI ĐẾN CẤU TRÚC Ý
NGHĨA....................................................................................... 22
2.1 Đời sống Nam Bộ trong sự chuyển động từ truyền thống sang hiện đại.................. 22
2.1.1 Những khuôn khổ truyền thống...................................................................................... 22
2.1.2 Những tín hiệu hiện đại................................................................................................... 26
2.2 Thông điệp về khả năng gắn kết của con người......................................................... 32
2.2.1 Sự thay đổi các giá trị đạo đức xã hội.............................................................................. 32
2.2.2 Nguy cơ “lung lay” các chuẩn mực gia đình................................................................... 37
2.3 Ý thức nữ quyền và cuộc kiếm tìm vị thế người nữ.................................................... 43
2.3.1 Ý thức nữ quyền.............................................................................................................. 43
2.3.2 Cuộc kiếm tìm vị thế người nữ........................................................................................ 46
CHƯƠNG 3: TIỂU THUYẾT CỦA CÁC NHÀ VĂN NỮ NAM BỘ ĐẦU THẾ KỈ XX: NHỮNG
CẤU TRÚC NGHỆ THUẬT TƯƠNG
ỨNG................................................................................... 53
3.1 Cấu trúc cốt truyện........................................................................................................ 53
3.1.1 Cốt truyện đa dạng, phong phú....................................................................................... 53
3.1.2 Cốt truyện mang đậm tính công thức.............................................................................. 57
3.2 Cấu trúc nhân vật.......................................................................................................... 60
3.2.1 Nhân vật đời thường....................................................................................................... 61
3.2.2 Nhân vật có tính khuôn mẫu............................................................................................ 65
3.3 Cấu trúc diễn ngôn........................................................................................................ 70
3.3.1 Ngôn ngữ đậm sắc thái Nam Bộ...................................................................................... 71
3.3.2 Giọng điệu mang đậm dấu ấn của tiểu thuyết buổi giao thời.......................................... 75
KẾT LUẬN................................................................................................................................ 82
TÀI LIỆU THAM KHẢO........................................................................................................ 84
1.1 Phê bình Xã hội học- quan niệm và phương pháp
1.1.1 Phê bình Xã hội học, các quan niệm chính
Trong thế kỉ XX, một cách cơ bản nhất, có thể tạm chia lí luận phê bình
phương Tây theo ba khuynh hướng chính: Tâm lí học văn học, Ngôn ngữ học
văn học, Xã hội học văn học. Nếu khuynh hướng tâm lí học văn học và ngôn
ngữ học văn học xuất hiện tương đối gần đây và còn nhiều biến đổi cho đến
hôm nay; thì xã hội học văn học có nguồn gốc xa hơn với dòng chảy lâu đời
và những dịch chuyển khác nhau.
Mối quan hệ giữa xã hội và văn học đã được quan tâm ngay từ buổi đầu của
lí luận phê bình văn học. Tuy nhiên, từ thế kỉ XVIII trở về trước, vấn đề này
chưa được xem xét một cách hệ thống. Đến thế kỉ XIX, thuật ngữ “xã hội”
không chỉ được nhìn nhận trong tương quan với văn học mà đã trở thành một
hướng tiếp cận, một con đường để khám phá nghệ thuật. Trong những bước
phát triển khác nhau vào giai đoạn sau, có thể tạm chia xã hội học văn học
thành hai loại: xã hội học văn học vĩ mô và xã hội học văn học vi mô. Với xã
hội học văn học vĩ mô, văn học hiểu theo nghĩa rộng là một hoạt động xã hội.
Nó được đặt trong bối cảnh hiện thực lịch sử rộng lớn để phân tích, lí giải,
triển khai mối quan hệ cùng các hình thái hoạt động xã hội khác như kinh tế,
chính trị, tôn giáo; đồng thời, xác định vị trí, vai trò đặc thù trong toàn bộ đời
sống nói chung. Với xã hội học văn học vi mô, văn học được nhìn ở góc độ
tập trung hơn, tiếp cận không chỉ qua “từ khóa” xã hội mà còn dùng những
kiến thức và phương pháp xã hội học để nghiên cứu nó.
Phê bình xã hội học (tiếng Pháp: Sociocritique, tiếng Anh: Sociocriticism)
nằm trong một lĩnh vực chung, có tên là xã hội học về văn học. Nó kế thừa,
điều chỉnhvà phát triển một số nguyên tắc nền tảng của triết học Mác- xít.
Khái niệm “socio-critique” được Claude Duchet khai sinh năm 1971, khi ông
đề nghị một cách đọc lịch sử -xã hội về văn bản. Tuy nhiên, xoay quanh khái
niệm này còn nhiều tên gọi khác nhau: “phê bình xã hội học” (sociocritique),
“xã hội học về văn học” (sociologie de la littérature), “xã hội học về văn bản”
(sociologie du text).
Trước hết, cần có một sự phân biệt giữa “phê bình xã hội học”
(sociocritique) và “xã hội học về văn học” (sociologie de la littérature). Mặc
dù phát xuất cùng niềm tin nhưng về mức độ và phạm vi quan tâm, “xã hội
học về văn học” lại tập trung vào toàn bộ yếu tố liên quan tới văn học; trong
khi điều đó được khu biệt lại ở văn bản- đối với “phê bình xã hội học”. Mặt
khác, Pierre V.Zima cho rằng “phê bình xã hội học” (sociocritique) và “xã
hội học văn bản” (sociologie du text) là đồng nghĩa và ông đề xuất cách gọi
“phê bình xã hội học” như một “sự lựa chọn theo hướng cập nhật” [64; 7].
Ngoài ra, cần phân biệt phương pháp phê bình xã hội học trong nghiên cứu
văn học- có khuynh hướng phát triển thành một lí thuyết phê bình xã hội (bao
gồm cả phê bình văn học) và những nghiên cứu xã hội học mang tính thực
nghiệm về văn học (sociologie de la littérature empirique)- trong đó, khía
cạnh phê bình ít nhiều bị lược bỏ.
Một cách khái quát, khác với phê bình xã hội học truyền thống thường thiên
về các phương diện: phản ánh hiện thực, tính luận đề, tính tư tưởng của tác
phẩm; phê bình xã hội học hiện đại (xã hội học văn bản) quan tâm tới việc
tìm hiểu bằng những con đường nào mà các vấn đề xã hội, những lợi ích và
mối quan tâm của từng nhóm xã hội đã thẩm thấu vào trong cấp độ ngữ
nghĩa, cú pháp, trần thuật của văn bản. Do vậy, tiếp cận xã hội học hiện đại
tập trung tìm hiểu mối tương quan giữa các cấu trúc văn bản cũng như điều
kiện sinh ra văn bản với những cấu trúc siêu văn bản khác. Một cách cụ thể,
khi tiếp cận sự kiện văn học, các nhà phê bình xã hội học hiện đại cũng tập
trung khảo sát những yếu tố xã hội có mặt trong văn bản. Tuy nhiên, họ
không xem các yếu tố xã hội đó như là cái gì có sẵn, bất biến mà quan niệm
rằng chúng luôn vận động nằm trong mạch vận động của văn bản văn
chương. Do cái nhìn biện chứng và cởi mở như vậy, phê bình xã hội học hiện
đại có thể dung nạp nhiều phương pháp phê bình khác như cấu trúc, phân
tâm học, phát sinh, văn bản, mỹ học tiếp nhận, nữ quyền, hậu thực dân…và
ngày càng chứng tỏ ưu thế khoa học của mình trong việc phân tích lý giải
những vấn đề văn học.
Phêbình xã hội học hiện đại khẳng định, đối tượng theo đuổi đầu tiên của
trường phái này là văn chương. Nhưng văn chương phải gắn liền với xã hội,
con người. Tác phẩm là sự tượng trưng hóa và gọi tên trực tiếp hay gián tiếp
những thực tại lịch sử, xã hội và chính trị. Đọc phê bình xã hội học không chỉ
là sự tìm kiếm các vấn đề xã hội, phát hiện những bế tắc và mâu thuẫn mà
còn nói nhiều đến hệ tư tưởng. Đọc phê bình xã hội học cũng không đơn giản
là hành động phụ họa cho một khuynh hướng tiến bộ có sẵn, giản đơn và
ngây thơ. Việc đọc phải được xác tín như một cuộc phiêu lưu nhằm khám phá
những khía cạnh còn tiềm ẩn trong tác phẩm.
Trên lí thuyết người đọc, tất cả độc giả đều thuộc về một xã hội và đều mang
tính xã hội. Xã hội vừa quy định việc đọc của họ, vừa mở ra cho họ những
không gian cắt nghĩa, vừa đưa họ đến con đường tự do và sáng tạo. Toàn bộ
độc giả là một cái tôi, đến từ những quan hệ họ hàng và hệ thống biểu tượng.
Những quan hệ này vừa quy định cái tôi ấy, vừa mở ra cho nó những không
gian tìm tòi và giải thích. Viết văn và làm nghệ thuật là một cách để khám
phá, biểu hiện tính xã hội- lịch sử, nhận thức sự tái diễn và đổi mới của đời
sống và thân phận con người.
Phê bình xã hội học đã tìm kiếm trong văn bản và trong văn hoá những thể
nghiệm và dấu vết của quá trình phát triển lịch sử nhân loại. Trên dòng chảy
lí thuyết ấy, nền tảng về một cách đọc mang đầy đủ tính chất và đặc điểm của
hoạt động nghiên cứu văn chương được hình thành. Nó thường xuyên lựa
chọn và cập nhật, tiến gần hơn với thời cuộc. Phê bình xã hội học hiện đại đã
vượt qua nhãn quan của phê bình xã hội học truyền thống, hoàn thiện một
phương pháp mà con người đã xác lập gọi là phương pháp đọc xã hội học.
Cụ thể hơn, đọc xã hội học là dấn mình vào chuỗi những hệ thống tổ chức từ
ngữ, diễn ngôn và ký hiệu luôn vận động. Người đọc có thể thông qua chúng
hoặc thâm nhập vào trong từng lớp kết cấu ấy. Việc thừa nhận sự tồn tại của
văn bản cũng như đánh giá cao các thành tố tạo nên tác phẩm là minh chứng
rõ nét cho các loại cấu trúc luôn tiềm tàng và ẩn sâu dưới lớp thường thấy.
Mặt khác, phê bình xã hội học tiến hành đồng thời việc đọc liên hình thức và
liên thể loại nhằm tìm kiếm một cách viết đa dạng, thường náu mình trong
những văn bản kinh điển.
1.1.2 Phê bình Xã hội học, các phương pháp tiếp cận:
Nguyên tắc chính trong việc đọc phê bình xã hội học là nắm bắt sự vận động:
vận động trong chiều kích ý nghĩa và vận động trong cả những mối quan hệ
tương tác giữa các cấu trúc với nhau. Sự mới mẻ là chìa khóa để bắt đầu con
đường chinh phục và khám phá mạch ngầm văn bản. Do đó, độc giả cần có ý
thức tìm tòi, cố gắng thể nghiệm để phát hiện ra những diễn ngôn mới, luôn
đặt câu hỏi để tìm ra vấn đề mới. Không chỉ rút ra những yếu tố xã hội có mặt
trong văn bản, phương pháp đọc xã hội học luôn khuyến khích người tham
dự nhận ra sự biến chuyển trong cách nhìn, cách viết của nhà văn. Thay đổi
đó ít nhiều cũng phản ánh tinh thần thời đại.
Phương pháp đọc xã hội học vừa lay động lịch sử và xã hội, vừa xem lịch
sử và xã hội như những chất liệu có sẵn để sử dụng và bảo chứng. Văn
chương thường xuyên vận động. Nếu việc đọc phê bình xã hội học luôn luôn
có một chiều kích chính trị, nó cũng luôn luôn có một chiều kích hiện sinh.
Với đọc xã hội học phát sinh, nhà phê bình có điều kiện nhìn thấy các hiện
tượng tái diễn (sự lặp đi lặp lại có chủ ý hoặc không) và các hiện tượng trở
thành (nơi những con người có một ý thức về hành vi viết cũng như hành vi
đọc).
Những quan niệm và nguyên tắc chung nêu trên chỉ là định hướng. Thực tế,
có rất nhiều cách đọc xã hội học, tùy theo chủ thể (nhà phê bình) và tùy theo
đối tượng (văn bản). Trong phạm vi đề tài và trong khả năng hữu hạn cá
nhân, chúng tôi xin được trình bày về các bước tiến hành của mình nhằm
triển khai công trình.
Bước thứ nhất mà chúng tôi tiến hành, đó là khảo sát nhanh toàn bộ tiểu
thuyết của các nhà văn nữ Nam Bộ đầu thế kỉ XX sưu tầm được. Từ đó chọn
ra những văn bản thực sự gắn với đề tài, xem đó là những văn bản mẫu, cần
phải khảo sát sâu.
Bước thứ hai, chúng tôi đọc kỹ các văn bản mẫu, đi tìm và xác lập hệ
cấu trúc ý nghĩa, thông qua cốt truyện, hệ thống hình tượng, hệ thống nhân
vật…trong văn bản.
Bước thứ ba, thông qua hệ cấu trúc xã hội từ văn bản mẫu, chúng tôi đi
tìm và xác lập hệ cấu trúc ý nghĩa tương ứng, bằng cách quy chiếu với bối
cảnh xã hội thời đại và tiểu sử tác giả (trên những đường nét đã xác định ở
chương 1).
Bước thứ tư, phân tích và lý giải mối quan hệ thuận/ nghịch/ hỗ tương/ vận
động…giữa hệ cấu trúc ý nghĩa với hệ cấu trúc xã hội đã tìm thấy (nhất quán
hay có một độ chênh nhất định).
Bước thứ năm, trình bày, phân tích về cách viết của tác giả bằng hệ cấu
trúc nghệ thuật thể hiện qua tác phẩmnhư là một sản phẩm mang tính xã hội-
lịch sử và nhận định, lý giải mối quan hệ thuận/ nghịch của nó với hệ cấu trúc
ý nghĩa và hệ cấu trúc xã hội đã nêu trên.
Bước cuối cùng là rút ra nhận định tổng quan về những gì đã khảo sát,
gồm những kết luận và những câu hỏi còn để ngỏ.
Nhìn chung, ý thức tiếp cận văn bản bằng phương pháp phê bình xã hội
học hiện đại đã xuất hiện từ thế kỉ XIX và những quan niệm về cách đọc này
cho đến nay vẫn tiếp tục được hoàn thiện. Việc xác lập một phương pháp
riêng chỉ mang tính tương đối dựa trên các nguyên tắc chung nhằm cụ thể
hơn phương tiện nghiên cứu.
*
CHƯƠNG 3: TIỂU THUYẾT CỦA CÁC NHÀ VĂN NỮ NAM BỘ ĐẦU
THẾ KỈ XX: NHỮNG CẤU TRÚC NGHỆ THUẬT TƯƠNG ỨNG
Nếu mỗi cấu trúc xã hội vận động trong văn bản bằng từng cấu trúc ý
nghĩa là các thông điệp về mặt tư tưởng thì từ phương diện nối kết, nó cũng
có sự tương tác nhất định với cấu trúc nghệ thuật. Như những dòng chảy
cùng hòa ra biển lớn, mỗi loại cấu trúc là một hải lưu dịch chuyển theo từng
cách riêng, dù vậy, nó vẫn sóng sánh cùng nhau khi hướng đến cội nguồn
chung là chỉnh thể tác phẩm văn học. Nó tồn tại song song cùng cấu trúc tư
tưởng như lời lí giải cho câu hỏi vì sao và như thế nàonhững thông điệp này
có thể chuyển tải vào các cấp độ văn bản. Một cách cụ thể, trong tiểu thuyết
của các nhà văn nữ Nam Bộ đầu thế kỉ XX, ngoài sự vận động từ cấu trúc xã
hội sang cấu trúc ý nghĩa còn có các cấu trúc nghệ thuật tương ứng được thể
hiện trên ba phương diện: cốt truyện, nhân vật, diễn ngôn.
3.1 Cấu trúc cốt truyện
Theo Từ điển thuật ngữ văn học, cốt truyện là “hệ thống sự kiện cụ thể, được
tổ chức theo yêu cầu tư tưởng và nghệ thuật nhất định, tạo thành bộ phận cơ
bản, quan trọng nhất trong hình thức động của tác phẩm văn học” [29; 99].
Ảnh hưởng xu thế văn học giao thời, cốt truyện trong tiểu thuyết của các nhà
văn nữ Nam Bộ đầu thế kỉ XX vừa lưu giữ những nét truyền thống, vừa mang
hơi hướng hiện đại. Ngoài ra, dù chúng khá đa dạng, phong phú nhưng vẫn ít
nhiều mang tính công thức.
3.1.1 Cốt truyện đa dạng, phong phú
Trong thời kì mà tiểu thuyết vừa định hình và đang từng bước hoàn thiện, cốt
truyện vẫn còn khá đơn giản. Phần lớn, chúng bao quát cuộc sống bằng cái
nhìn toàn diện hơn là các góc quay cận cảnh. Những chuyển biến sâu sắc bên
trong, những khía cạnh tâm linh chưa được chú trọng khai thác ở văn học giai
đoạn này. Vì vậy, tính “đa đạng, phong phú” trước hết được hiểu như sự phản
ánh muôn mặt đời thường trong tác phẩm.
Khảo sát ba mươi cốt truyện tiểu thuyết được chọn làm mẫu nghiên cứu,
chúng tôi nhận thấy bức tranh Nam Bộ đa sắc màu được khắc họa khá rõ nét.
Đó là cuộc sống hằng ngày với mưu sinh và tồn tại, là chuyện tình duyên-
hôn nhân giữa ranh giới truyền thống và cách tân, là các mối quan hệ giai cấp
phức tạp đan xen sự phân biệt rạch ròi. Có thể nói, đời sống Nam Bộ đã mang
vào tiểu thuyết một thế giới hết sức chân thực, gần gũi. Hầu hết tác phẩm đều
có bối cảnh tại Sài Gòn và miền Tây. Chẳng hạn, cuộc gặp gỡ tình cờ trong
Duyên chàng nợ thiếp là do Tĩnh Cương đi ngang qua chợ Sài Gòn, thấy
chiếc xe màu vàng đụng phải Liêu Kim rồi bỏ chạy nên đến giúp đỡ. Hai
nhân vật chính trong Bạch công tử gặp Hắc công tử cũng xuất thân ở miền
Nam. Người là con nhà thế phiệt vang danh chốn Tiền Giang, kẻ giàu có sang
trọng nhất bậc Hậu Giang. Từ đây, câu chuyện về con người và cuộc đời cứ
thế chuyển động cùng bức tranh đời sống Nam Bộ. Nó có thể chỉ diễn ra ở
một địa danh nhất định: Mỹ Tho (Đám cưới lạ, Tấm gương trung hiếu), Rạch
Giá (Trách ai), Bạc Liêu (Ngọc chìm đáy biển) hoặc nhiều nơi khác nhau
nhưng đều tựu trung tại miền Nam: Sóc Trăng và Cần Thơ (Tại ai), An Giang
và Đồng Tháp (Một tấm lòng son). Nó có thể đơn giản như việc một người
mẹ động viên con trai gia nhập nghĩa binh (Tấm gương trung hiếu) hay phức
tạp và gay cấn qua nhiều sự kiện tiếp nối nhau (Nữ anh tài, Kiếp hoa thảm
sử). Dù vậy, các chi tiết, hoạt động của đời sống thường nhật luôn được đưa
vào tác phẩm in đậm dấu ấn văn hóa vùng miền. Hình ảnh những chiếc ghe
liền nhau đón dâu trong đám cưới, một cái nhà ngói ba căn vách ván cất theo
kiểu xưa, lũy tre bao quanh vườn cây ôm ấp bờ đê lối mòn đã đi vào tiểu
thuyết hết sức mộc mạc, chân phương.
Mặt khác, tương ứng với các cấu trúc ý nghĩa (thông điệp trong văn bản), cấu
trúc nghệ thuật mà cụ thể ở đây là cốt truyện cũng vận động theo quỹ đạo
chung của nó. Khi nói đến đời sống Nam Bộ trong sự chuyển động từ truyền
thống sang hiện đại, ta thấy xuất hiện những tình tiết bộc lộ rõ nét văn hóa
buổi giao thời. Đằng sau dấu ấn Tây phương, ta vẫn thấy thấp thoáng bóng
dáng của yếu tố xưa cũ tồn tại song song cùng sự mới mẻ. Đó là lí do vì sao
các tác giả nữ Nam Bộ dù đã để nhân vật mình tiếp xúc với “ánh sáng tân
thời” nhưng không quên “giữ” cho họ những đức tính truyền thống. Một Bích
Ngọc (Ngọc chìm đáy biển) đã quá quen với cách giao tiếp lịch sựphương
Tây vẫn không khỏi ngại ngùng, lúng túng khi thầy Minh Tâm bắt tay. Một
Liêu Kim dù mạnh dạn đến tìm Tĩnh Cương để tạ ơn nhưng lại hết sức băn
khoăn, e thẹn vì nỗi đường đột của mình. Tương tự, khi chuyển tải thông điệp
về sự gắn kết của con người, cốt truyện thường hướng trọng tâm vào các tình
huống gây xáo trộn tinh thần. Từ đó, dóng lên hồi trống cảnh báo những đổi
thay đạo đức và nguy cơ “lung lay” chuẩn mực gia đình. Trong Cô hai văn
minh, Cẩm Tâm đã tinh tế khi phát hiện rằng chính sự “tự do”, “bình đẳng”
mà ai cũng ngỡ là chìa khóa hạnh phúc lại trở thành con dao sắc nhọn ngăn
trở sự gắn kết đôi vợ chồng luôn hướng theo phương Tây. Từ đây, cốt truyện
được sắp xếp xoay quanh chi tiết ấy để bộc lộ những căng thẳng, rạn vỡ tất
yếu. Trong một tương quan khác, ý thức nữ quyền và cuộc tìm kiếm vị thế
người nữ chỉ thật sự có ý nghĩa khi xây dựng được những cốt truyện xác
đáng, tô đậm sắc thái tư tưởng. Với Nữ anh tài,