Văn học Việt Nam giai đoạn 1945 đến 1975 mang vẻ đẹp lãng mạn của những con
người sống vì lý tưởng mà những mất mát hy sinh chỉ góp phần làm cho ý chí, tinh thần
con người càng thêm rạng rỡ. Khi chiến tranh qua đi, con người mới kịp bình tâm nhìn lại
hiện thực khắc nghiệt mình đã trải qua với bao nhiêu nỗi niềm. Chiến tranh đã đi qua
nhưng vết thương về chiến tranh vẫn còn mãi.
Bước sang thời kỳ đổi mới, lịch sử dân tộc chuyển sang trang mới. Đất nước mở cửa
giao lưu với bạn bè thế giới và xây dựng cuộc sống hòa bình. Lúc này với tư tưởng nhìn
thẳng vào sự thật, đổi mới tư duy đã thúc đẩy nền văn học vốn đã chuyển mình nay nhanh
chóng đổi thay diện mạo. Cuộc chiến đấu cho quyền sống của cả dân tộc đạt những thành
tựu vĩ đại. Đất nước hoàn toàn được giải phóng. Nhiệm vụ của cuộc chiến tranh giành độc
lập đã hoàn thành. Giờ đây, cuộc chiến đấu cho quyền sống của từng con người được đặt lên
hàng đầu. Do vậy, nền văn học đứng trước nhu cầu mở rộng hơn nữa trong việc phản ánh
mọi mặt cuộc sống đa dạng và phức tạp. Tất cả những lý do trên chính là nguyên nhân của
khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn nhạt dần, được thay thế bởi cảm hứng đời tư
thế sự. Các vấn đề về cuộc sống, giá trị đạo đức, ý thức dân chủ, về cái tôi đã trở thành
chủ đề nổi bật khiến cho văn học càng đổi mới mạnh mẽ. Người ta hình dung lại con người,
thay đổi cách miêu tả, sử dụng ngôn ngữ, giọng điệu mới
103 trang |
Chia sẻ: duongneo | Lượt xem: 314487 | Lượt tải: 11
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Tiểu thuyết lê lựu thời kỳ đổi mới, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP.HỒ CHÍ MINH
------------------------------
NGUYỄN THỊ HIỀN
TIỂU THUYẾT LÊ LỰU
THỜI KỲ ĐỔI MỚI
Chuyên ngành: Văn Học Việt Nam
Mã số: : 60.22.34
LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS: TRẦN HỮU TÁ
Thành phố Hồ Chí Minh - 2007
MỤC LỤC
LỜI CẢM ƠN
Trong suốt quá trình học tập, tôi đã nhận được sự hỗ
trợ tích cực và những điều kiện thuận lợi từ Phòng Đào Tạo
Sau Đại Học - Trường Đại Học Sư Phạm Tp. Hồ Chí Minh. Vì
vậy, đầu tiên, cho phép tôi được nói lời cảm ơn chân thành
nhất gửi đến quý thầy cô giáo, các cán bộ của Phòng Đào Tạo
Sau Đại Học - Trường Đại Học Sư Phạm Tp. Hồ Chí Minh.
Đặc biệt, cho phép tôi gửi lời cảm ơn sâu sắc và chân
thành nhất đến PGS. TS Trần Hữu Tá. Thầy đã không quản
thời gian, công sức để tân tâm, tận tình, ân cần chỉ bảo, dẫn
dắt cho tôi trong suốt quá trình thực hiện và hoàn thành đề tài
luận án của mình.
Bên cạnh đó, tôi cũng xin được gửi lời cảm ơn đến
những bạn bè đồng nghiệp. Họ là những người luôn động viên
khích lệ tôi vững bước trên con đường mà mình đã lựa chọn.
Cuối cùng, tôi xin nói lời cảm ơn Cha - Mẹ, người đã
sinh ra tôi, nuôi tôi khôn lớn. Người đã hướng dẫn, chỉ cho tôi
con đường đi đến thành công.
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Văn học Việt Nam giai đoạn 1945 đến 1975 mang vẻ đẹp lãng mạn của những con
người sống vì lý tưởng mà những mất mát hy sinh chỉ góp phần làm cho ý chí, tinh thần
con người càng thêm rạng rỡ. Khi chiến tranh qua đi, con người mới kịp bình tâm nhìn lại
hiện thực khắc nghiệt mình đã trải qua với bao nhiêu nỗi niềm. Chiến tranh đã đi qua
nhưng vết thương về chiến tranh vẫn còn mãi.
Bước sang thời kỳ đổi mới, lịch sử dân tộc chuyển sang trang mới. Đất nước mở cửa
giao lưu với bạn bè thế giới và xây dựng cuộc sống hòa bình. Lúc này với tư tưởng nhìn
thẳng vào sự thật, đổi mới tư duy đã thúc đẩy nền văn học vốn đã chuyển mình nay nhanh
chóng đổi thay diện mạo. Cuộc chiến đấu cho quyền sống của cả dân tộc đạt những thành
tựu vĩ đại. Đất nước hoàn toàn được giải phóng. Nhiệm vụ của cuộc chiến tranh giành độc
lập đã hoàn thành. Giờ đây, cuộc chiến đấu cho quyền sống của từng con người được đặt lên
hàng đầu. Do vậy, nền văn học đứng trước nhu cầu mở rộng hơn nữa trong việc phản ánh
mọi mặt cuộc sống đa dạng và phức tạp. Tất cả những lý do trên chính là nguyên nhân của
khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn nhạt dần, được thay thế bởi cảm hứng đời tư
thế sự. Các vấn đề về cuộc sống, giá trị đạo đức, ý thức dân chủ, về cái tôi đã trở thành
chủ đề nổi bật khiến cho văn học càng đổi mới mạnh mẽ. Người ta hình dung lại con người,
thay đổi cách miêu tả, sử dụng ngôn ngữ, giọng điệu mới.
Tất cả những điều này chúng ta bắt gặp trên từng trang viết của các nhà văn. Họ trăn
trở tìm hướng đi mới cho con thuyền văn chương của mình. Có người lặng lẽ đối chứng lại
với những quan niệm sơ lược hoặc phiến diện một thời về thế sự, để từ đó nhằm đấu tranh
cho sự hoàn thiện của mỗi con người trong thời đại mới như Nguyễn Minh Châu. Có người
suy ngẫm về quá khứ để nắm bắt nhịp thở của hiện tại như Dương Thu Hương...Có người
tìm đề tài trong những cái bề bộn phức tạp của hiện thực cuộc sống, đối thoại cùng người
đọc để tìm ra biện pháp tháo gỡ như Nguyễn Khải, Nguyễn Mạnh Tuấn...Có người lại nhìn
nhận thực tại và đối chứng với quá khứ đau thương của một thời đạn bom khói lửa như Bảo
Ninh...Và cùng chung dòng chảy đó chúng ta bắt gặp Lê Lựu – một trong những cây bút đã
góp phần không nhỏ vào sự thay đổi nhanh chóng bộ mặt nền văn học Việt Nam lúc bấy
giờ.
Trước thực tế đầy biến động của lịch sử, những tiểu thuyết Thời xa vắng (1984),
Chuyện làng Cuội (1991), Sóng ở đáy sông (1995) lần lượt ra đời như những bức tranh sinh
động, khắc hoạ chân thực chủ yếu những tháng ngày đầu đất nước trong thời kỳ đổi mới.
Tìm hiểu những tiểu thuyết kể trên, ta sẽ hiểu thêm về thể loại tiểu thuyết của một thời kỳ
văn học sôi động. Đồng thời qua đó, người viết muốn tìm hiểu những đóng góp của nhà văn
cho nền tiểu thuyết Việt Nam giai đoạn này.
Tuy nhiên, trong phạm vi cho phép của đề tài, luận văn chỉ tập trung nghiên cứu những
đặc điểm tiểu thuyết Lê Lựu thời kỳ đổi mới để nhằm hiểu một cách thấu đáo hơn phương
thức xây dựng tác phẩm, những đặc sắc trong việc miêu tả, nội dung hiện thực được phản
ánh và những nét riêng biệt của nhà văn so với các tiểu thuyết gia cùng thời. Từ đó, nhằm
khẳng định sự đóng góp của ông cho sự phát triển nền văn xuôi Việt Nam trong những năm
đổi mới.
2. Lịch sử vấn đề
Nghiên cứu về Lê Lựu đã có không ít ý kiến nhận xét, đánh giá của các nhà văn, nhà
phê bình văn học. Họ tìm đến với những tác phẩm và nhận thấy ở đấy những chiều kích
khác nhau của cuộc sống. Qua những tác phẩm ấy, người đọc không chỉ hình dung được bộ
mặt xã hội Việt Nam lúc bấy giờ mà còn cảm nhận một cách sâu sắc những biến chuyển
tinh tế nhất của đời sống tư tưởng con người thời đại. Vì vậy, tác phẩm của nhà văn không
rơi vào khoảng không im lặng mà có thể nhận thấy, cùng với các cây bút văn xuôi lúc bấy
giờ như Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Huy Thiệp, Bảo Ninh... Lê Lựu đã làm cho đời sống
văn học nước ta thêm phần sôi động.
Lịch sử văn học cho thấy, những nhà văn nào càng được giới phê bình nghiên cứu
quan tâm, càng được bạn đọc chú ý. Và dù khen hay chê cũng đều khiến tác phẩm nổi tiếng
hơn, mọi người tìm đọc nó nhiều hơn mà thôi. Lê Lựu là một trường hợp như vậy. Từ một
cây bút truyện ngắn, ông tìm cho mình một lối đi riêng. Với tác phẩm Mở rừng, Lê Lựu
bước sang địa hạt tiểu thuyết nhưng thành công của ông không phải ở đấy. Lê Lựu khẳng
định vị trí, tạo cho mình một thế đứng vững vàng trên văn đàn nền tiểu thuyết hiện đại chính
là nhờ những tác phẩm về sau. Đặc biệt, người ta biết đến ông như một tiểu thuyết gia văn
xuôi hiện đại Việt Nam chính bởi Thời xa vắng và sau nữa là Chuyện làng Cuội, Sóng ở đáy
sông. Đã có hàng loạt bài nghiên cứu về tác phẩm Lê Lựu như: "Tiểu thuyết đầu tiên của
một cây bút viết truyện ngắn" của Phong Vũ, "Mỗi người phải chịu trách nhiệm về nhân
cách của mình" hay "Hỏi chuyện tác giả, tìm hiểu tác phẩm" trong báo Văn nghệ tháng 12-
1986, " Thời xa vắng - Một tâm sự nóng bỏng " của Lê Thành Nghị, "Chuyện phiếm với anh
Sài" của Hồng Vân, "Nghĩ về một Thời xa vắng" của Thiếu Mai, "Nhu cầu nhận thức lại
thực tại qua một Thời xa vắng" của Nguyễn Văn Lưu, "Đọc " Thời xa vắng" của Lê Lựu"
của Hoàng Ngọc Hiến, "Suy tư từ một "Thời xa vắng" của Nguyễn Hoà, "Một đóng góp vào
việc nhận diện con người hôm nay" của Vương Trí Nhàn, "Lê Lựu và Ranh giới" của Lê Tất
Cứ, "Khuynh hướng triết lý trong tiểu thuyết - Những tìm tòi và thể nghiệm" của Nguyễn
Ngọc Thiện, "Một giờ với nhà văn Lê Lựu" của Nguyễn Hữu Sơn, "Văn chương cũng như
vợ con - nhiều lúc chán lắm nhưng không bỏ được" của Bùi Việt Sĩ, "Hình tượng người
nông dân và nhà văn đô thị" của Nguyễn Thu Hằng, "Lê Lựu - Thời xa vắng " của Đinh
Quang Tốn, "Lê Lựu - Chân dung văn học" của Trần Đăng Khoa...Và tất cả những bài viết
này được chính Lê Lựu tập hợp lại trong cuốn Tạp văn của mình.
Thông qua những bài viết dành cho Lê Lựu, ta thấy các nhà nghiên cứu rất trân trọng
những thành công và phát hiện những đóng góp không nhỏ của ông trong việc đổi mới nền
văn học đương đại. Bên cạnh đó, họ cũng thẳng thắn đưa ra những nhận xét về nghệ thuật
viết văn của tác giả. Dư luận khen cũng nhiều nhưng chê cũng có. Nhà nghiên cứu Đinh
Quang Tốn từng cho rằng: “Nếu trong tổng số sáu trăm hội viên Hội nhà văn Việt Nam, cứ
mười người chọn lấy một người tiêu biểu thì Lê Lựu là một trong tổng số 60 nhà văn ấy.
Nếu về văn xuôi hiện đại, chọn lấy ba mươi tác phẩm, thì có mặt Thời xa vắng” [104, tr.
663].
Hay những nhận xét khá sắc sảo của Trần Đăng Khoa dành cho tác phẩm Thời xa vắng
chẳng hạn. Tác giả vừa khẳng định những thành tựu về nội dung, nghệ thuật đồng thời chỉ
ra những hạn chế. Ông cho rằng “Với ba trăm trang sách, tiểu thuyết "Thời xa vắng" đã ôm
chứa một dung lượng lớn. Đấy là một chặng đường lịch sử oai hùng. Chặng đường ba mươi
năm, từ buổi lập nước đến lúc giải phóng xong toàn bộ đất nước” [104, tr. 674]. Hay : “Thời
xa vắng" ra đời có tiếng vang lớn, vượt quá sức hình dung của người đẻ ra nó. Xét về mặt
nghệ thuật, cuốn sách không có gì cách tân, tìm tòi, lối viết rất cũ, tốc độ truyện chậm, hơi
văn ở phần một và phần hai hình như lạc nhau, không liền mạch. Có cảm giác như đấy là
hai cuốn tiểu thuyết cùng một nội dung gộp lại.” [104, tr. 678]. Bên cạnh những ý kiến ấy,
trên báo Văn nghệ tháng 12.1986 trong bài "Vài cảm nghĩ sau khi đọc Thời xa vắng", có nhà
nghiên cứu đã mạnh dạn khẳng định: "Thời xa vắng với độ dày hơn ba trăm trang chia làm
ba phần. Bố cục của cuốn sách tương đối hợp lý, đặc biệt là phần một và phần hai viết khá
thành công. Điều đáng bàn và cần bàn là ở phần kết của tác phẩm" [104, tr. 541]. Dù khen
hay chê thì hầu hết các nhà nghiên cứu đều phải công nhận "Tiểu thuyết Thời xa vắng của
Lê lựu phản ánh sinh động và chân thực quá trình chuyển biến trong cách nhìn nhận đánh
giá lại hiện thực...Sự phản ánh chân thực, sinh động cái hoàn cảnh nhào nặn nên con người
đó, sự nín chịu nhẫn nhục và vùng vẫy cuống cuồng, những thay đổi trong tâm lý và hành
động của anh ta đã được Lê Lựu dựng lại rất sinh động, đã lôi cuốn mạnh người đọc, gợi ra
những liên tưởng có ý nghĩa xã hội mà hiện nay mọi người đang rất quan tâm...Thời xa vắng
phản ánh khá sâu sắc một giai đoạn của tâm lý nông dân, giai đoạn vùng lên, hoà theo, nhập
thân hoàn toàn vào đời sống của một xã hội mới" [104, tr. 588- 589].
Đến với những trang viết của Lê Lựu, mỗi người đọc đều cảm thấy sự cuốn hút đặc
biệt. Những nhân vật trong truyện vừa đáng thương vừa đáng giận. Những con người ấy
hiện lên trên trang viết đầy bi kịch. Những bi kịch do xã hội mang lại và những bi kịch do
chính họ tạo ra. Chúng ta vừa thương vừa giận Giang Minh Sài trong Thời xa vắng, Núi
trong Sóng ở đáy sông và ngay cả sự tha hoá trong con người của Lưu Minh Hiếu trong
Chuyện làng Cuội. Mỗi người đọc tuỳ thuộc vào những tiêu chuẩn thẩm mỹ riêng mà có
cách tiếp nhận tác phẩm ở những chiều kích khác nhau. Tác phẩm Lê Lựu ra đời lúc bấy giờ
thực sự đã góp phần làm cho đời sống văn học Việt Nam thêm sôi động. Điều này được Lê
Hồng Lâm nhận định: “Ông Lê Lựu từ khi được bạn đọc chú ý, hễ cứ viết ra cuốn nào là
gây dư luận cuốn đó. Có cuốn nổi tiếng bởi bản thân nội dung đặc sắc, nó đi vào mạch ngầm
trong tâm tư tình cảm nhân vật như Thời xa vắng, có cuốn nổi tiếng bởi tai tiếng
(Chuyện làng Cuội), lại có cuốn mãi vài năm sau khi lên phim mới nổi đình nổi đám kéo
theo đó là tai bay vạ gió như Sóng ở đáy sông.” [104, tr. 708].
Nhìn chung, qua các bài viết trên các báo và tạp chí, có thể nhận thấy tiểu thuyết Lê
Lựu cả về nội dung và hình thức nghệ thuật thời kỳ đổi mới đã được giới nghiên cứu quan
tâm, xem xét khá sâu sắc. Họ đã chỉ ra những cái hay, cái đẹp cũng như những sai sót, hạn
chế của nhà văn thể hiện trên trang viết. Tuy nhiên các bài nghiên cứu hầu như tập trung
xoay quanh tác phẩm Thời xa vắng hoặc là viết về từng tác phẩm cụ thể chứ chưa có một
bài nào hay một công trình nghiên cứu nào tìm hiểu một cách toàn diện về tiểu thuyết Lê
Lựu thời kỳ đổi mới mà cụ thể là bộ ba tác phẩm: Thời xa vắng, Chuyện làng Cuội, Sóng ở
đáy sông.
Với bài "Mỗi người phải chịu trách nhiệm về nhân cách của mình" (Văn nghệ tháng
12- 1986), người viết đã chỉ ra những bi kịch mà Sài phải gánh lấy không những do hoàn
cảnh mang lại mà "mỗi người phải tự chịu trách nhiệm về chính nhân cách của mình, cuộc
đời mình".
Qua một số bài nghiên cứu như: "Thời xa vắng - Một tâm sự nóng bỏng " của Lê
Thành Nghị, "Nghĩ về một Thời xa vắng" của Thiếu Mai, "Nhu cầu nhận thức lại thực tại
qua một Thời xa vắng" của Nguyễn Văn Lưu, "Suy tư từ một " Thời xa vắng" của Nguyễn
Hoà..., các tác giả lại chỉ ra một cách sâu sắc về sự mới mẻ của Lê Lựu. Đó chính là đặt ra
vấn đề nhận thức lại một "thời xa vắng" - một thời "sống hộ", "yêu hộ". Đồng thời họ đều
cùng không đồng tình với cách kết thúc truyện của nhà văn. Thiếu Mai cho rằng "Cuối
cùng là phần kết. Đọc đến đây tôi cảm thấy tác giả mệt rồi, hụt hơi rồi. Thế nhưng dường
như anh quá thương cảm cho số phận nhân vật của mình nên không nỡ để cho nó lơ lửng,
mà phải tìm cho nó một hướng đi ổn định. Nhưng chính cái hướng đi này, theo sự suy
nghĩ của đa số người đọc thì lại không ổn, không phù hợp với nhân vật Sài của anh" [104,
tr. 584].
Trong bài "Đọc "Thời xa vắng" của Lê Lựu", Hoàng Ngọc Hiến lại nhìn thấy đề tài
"người nhà quê và đô thị", thấy được "người nhà quê vĩ đại" qua anh cu Sài. Cùng chung
cách đánh giá này có bài viết "Hình tượng người nông dân và nhà văn đô thị" của Nguyễn
Thu Hằng.
Ở bài "Một đóng góp vào việc nhận diện con người hôm nay", Vương Trí Nhàn đã
chỉ ra những đóng góp cũng như hạn chế về mặt nội dung và nghệ thuật của nhà văn.
Qua "Lê Lựu - Thời xa vắng", Đinh Quang Tốn lại đi khá sâu về sự nghiệp và hoàn
cảnh sáng tác. Còn trong bài "Lê Lựu - Chân dung văn học", Trần Đăng Khoa đi sâu hơn
về nghệ thuật của Thời xa vắng.
Bài viết "Tiểu Thuyết Lê Lựu thời kỳ đổi mới" của Đỗ Hải Ninh cũng đã nêu ra được
những nét khái quát nhất về tiểu thuyết của Lê Lựu thời kỳ đổi mới, tuy nhiên tác giả lại
không đi vào phân tích cụ thể.
Chính vì vậy, qua công trình nghiên cứu "Tiểu thuyết Lê Lựu thời kỳ đổi mới", cụ thể
là bộ ba tác phẩm Thời xa vắng, Chuyện làng Cuội , Sóng ở đáy sông, chúng tôi mong sẽ
có một cái nhìn khái quát, toàn diện hơn để từ đó không chỉ làm rõ những đặc điểm về tiểu
thuyết Lê Lựu mà đồng thời còn chỉ ra những đóng góp của nhà văn cho nền tiểu thuyết
hiện đại Việt Nam.
3. Giới hạn phạm vi nghiên cứu
Trong luận văn này, từ việc lấy những đặc điểm tiểu thuyết làm cơ sở, chúng tôi tiến
đến tìm hiểu những đặc điểm nền tiểu thuyết Việt Nam thời kỳ đổi mới. Và từ đó, chúng tôi
hướng đến tìm hiểu những đặc điểm tiểu thuyết của Lê Lựu ở giai đoạn này. Dựa vào đặc
điểm thể loại, dựa vào tác phẩm chúng tôi cố gắng chỉ ra những đặc điểm, những ưu thế
riêng biệt, những chuyển biến về quan niệm con người, những trăn trở tìm tòitrên những
trang viết của tác giả. Do đó, luận văn sẽ không đi vào toàn bộ tác phẩm của ông mà chỉ
dừng lại ở bộ ba tác phẩm thời kỳ đổi mới, đó là: Thời xa vắng (1984) Chuyện làng Cuội
(1991), Sóng ở đáy sông (1995).
4. Phương pháp nghiên cứu.
4.1. Phương pháp lịch sử – xã hội
Văn học là bức tranh sinh động nhất về đời sống hiện thực. Văn học nói chung và tiểu
thuyết của Lê Lựu nói riêng mang hơi thở chung của thời đại. Chính vì vậy, không xem xét
đến yếu tố hiện thực, đặc biệt đấy lại là nhiệm vụ do đại hội Đảng lần thứ VI (1986) đề ra
thì không thể nào thấy được sự tất yếu phải thay đổi, phải chuyển hướng của văn học nghệ
thuật trong giai đoạn này. Sử dụng phương pháp lịch sử xã hội sẽ giúp cho việc lý giải
những cơ sở thực tiễn và nguyên nhân sự chuyển hướng của nghệ thuật trong tác phẩm của
Lê Lựu.
4.2. Phương pháp so sánh
Văn học chịu sự chi phối trực tiếp và hết sức mạnh mẽ của hoàn cảnh xã hội. Sự
chuyển biến đổi mới của văn học gắn với quá trình vận động đổi mới đang diễn ra trên toàn
xã hội. Việc sử dụng phương pháp so sánh (lịch đại, đồng đại) giúp chúng tôi có điều kiện
so sánh sự chuyển hướng nghệ thuật của Lê Lựu trong thời kỳ đổi mới cũng như những
điểm nổi trội đặc sắc của tiểu thuyết Lê Lựu so với tiểu thuyết của các tác giả cùng thời.
4.3. Phương pháp phân tích
Muốn làm rõ những đặc điểm tiêu biểu về nội dung - nghệ thuật của tiểu thuyết Lê
Lựu thì không thể không tìm hiểu, đào sâu tác phẩm. Sử dụng phương pháp này sẽ giúp
chúng tôi đi sâu khám phá mọi cung bậc tình cảm, diễn biến tâm lý của nhân vật cũng như
những tìm tòi trăn trở của nhà văn trên từng trang viết.
5. Những đóng góp của luận văn
Qua những bài viết về Lê Lựu, chúng tôi thấy hầu hết các nhà nghiên cứu đã chỉ ra
được những đặc trưng nghệ thuật, những đóng góp cũng như một vài điểm yếu trên từng
trang viết của ông. Tuy nhiên chưa có một công trình nào mang tính tổng hợp về những
đóng góp của Lê Lựu cho nền văn học Việt Nam thời kỳ đổi mới. Do vậy, với công trình
nghiên cứu này, chúng tôi cố gắng nhìn nhận, xem xét, để khái quát những đặc điểm nghệ
thuật tiểu thuyết của Lê Lựu thời kỳ đổi mới mà cụ thể là bộ ba tác phẩm: Thời xa vắng,
Chuyện làng Cuội, Sóng ở đáy sông để từ đó khẳng định vị trí, vai trò của nhà văn trong
sự vận động của nền tiểu thuyết Việt Nam thời kỳ đổi mới.
6. Cấu trúc luận văn
MỞ ĐẦU:
1. Lý do chọn đề tài.
2. Lịch sử vấn đề.
3. Phạm vi nghiên cứu.
4. Phương pháp nghiên cứu.
5. Những đóng góp của luận văn.
6. Cấu trúc luận văn.
Chương 1: Lê Lựu và nền tiểu thuyết Việt Nam đương đại.
1.1. Tiểu thuyết Việt Nam trước thời kỳ đổi mới.
1.2. Tiểu thuyết Việt Nam thời kỳ đổi mới.
1.2.1. Cơ sở thực tiễn của công cuộc đổi mới văn học nghệ thuật.
1.2.2. Tiểu thuyết Việt Nam thời kỳ đổi mới.
1.3. Quan điểm nghệ thuật và sự nghiệp sáng tác văn học của Lê Lựu.
1.3.1. Quan điểm nghệ thuật.
1.3.2. Sự nghiệp sáng tác.
Chương 2: Sự đổi mới cảm hứng nghệ thuật của Lê Lựu trong bộ ba tác phẩm
Thời xa vắng, Chuyện làng Cuội , Sóng ở đáy sông
2.1. Cảm hứng bi kịch thay thế cho chất sử thi và cảm hứng ngợi ca.
2.1.1. Khái niệm cảm hứng - Cảm hứng bi kịch.
2.1.2. Cảm hứng bi kịch trong văn học Việt Nam trước và sau thời kỳ đổi mới.
2.1.3. Cảm hứng bi kịch thay thế cho chất sử thi và cảm hứng ngợi ca - những
biểu hiện cụ thể trong bộ ba tiểu thuyết Thời xa vắng - Chuyện làng Cuội
- Sóng ở đáy sông.
2.1.3.1. Bi kịch do hoàn cảnh.
2.1.3.2. Bi kịch trong bản thân mỗi cá nhân.
2.2. Sự nhận thức lại hiện thực trong "Thời xa vắng; Chuyện làng Cuội; Sóng ở đáy
sông".
2.2.1. Nhận thức quan niệm duy ý chí.
2.2.2. Nhận thức chân thực những khía cạnh khác nhau của hiện thực trong xã
hội lúc bấy giờ.
2.2.2.1. Nhận thức chân thực những hạn chế của đường lối chính sách.
2.2.2.2. Nhận thức thực trạng của sự bao che, cho qua.
2.2.2.3. Nhận thức chân thực về lối sống thực dụng, ích kỷ, sự biến chất
tha hóa của con người trong xã hội hiện đại.
2.2.2.4. Nhận thức hiện thực ở nông thôn.
Chương 3: Những nỗ lực hiện đại hoá thể loại tiểu thuyết của Lê Lựu
3.1. Kết cấu truyện.
3.1.1. Thủ pháp đồng hiện.
3.1.2. Hiện tượng phân rã cốt truyện.
3.1.3. Tình huống truyện.
3.1.4. Kết thúc truyện.
3.2. Giọng điệu trần thuật.
3.2.1. Giọng điệu hài hước, trào tiếu.
3.2.2. Giọng triết lý, ngậm ngùi xót thương.
3.2.3. Giọng phê phán, lên án tố cáo.
KẾT LUẬN.
TÀI LIỆU THAM KHẢO.
PHỤ LỤC.
1. Tóm tắt tiểu thuyết Thời xa vắng
2. Tóm tắt tiểu thuyết Sóng ở đáy sông
3. Tóm tắt tiểu thuyết Chuyện làng Cuội.
Chương 1:
LÊ LỰU VÀ NỀN TIỂU THUYẾT VIỆT NAM
ĐƯƠNG ĐẠI
1.1. Tiểu thuyết Việt Nam trước thời kỳ đổi mới
Dân tộc ta có truyền thống thơ ca, thành tựu chủ yếu của văn học Việt Nam trước
đây chính là thơ ca. Đầu thế kỷ XX, nhất là giai đoạn 1930 –1945 với sáng tác của nhóm
“Tự lực văn đoàn” và các nhà văn hiện thực chủ nghĩa, nền tiểu thuyết mới thực sự hình
thành và phát triển theo hướng hiện đại. Sau cách mạng tháng Tám 1945, phải đến những
năm 50 tiểu thuyết mới tiếp tục phát triển.
Chúng ta nhận thấy, nền văn học sau Cách mạng tháng Tám, dưới sự lãnh đạo của
Đảng được viết với khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn theo yêu cầu của lịch sử.
Cùng với các thể loại văn học khác, tiểu thuyết giai đoạn này mang tính cổ vũ, động viên,
tuyên truyền hướng tới mục tiêu cao cả nhất: tất cả cho chiến thắng. Và nó đã theo kịp
bước tiến của cuộc kháng chiến, phản ánh được những tình cảm lớn của thời đại, những
cái đẹp, cái mới, cái anh hùng cao cả.
Do vậy, khám phá và khẳng định chủ nghĩa anh hùng cách mạng là một trong những
yêu cầu của nền văn học Việt Nam. Cho nên, hình