Lãi suất là giá cả sử dụng vốn, gắn liền với hoạt động tín dụng ngân hàng,
đồng thời gắn liền với mọi hoạt động kinh tế có liên quan, mà trực tiếp là người
gửi tiền và người vay vốn.
Lãi suất cũng là một công cụ quan trọng của chính sách tiền tệ quốc gia do
Ngân hàng Trung ương (NHTƯ) điều hành. Nó có tác động rất lớn đối với vịệc
tăng hoặc giảm khối lượng tiền lưu thông, thu hẹp hay mở rộng tín dụng, khích lệ
hay hạn chế huy động vốn, kích thích hay cản trở đầu tư, tạo thuận lợi hay khó
khăn cho hoạt động ngân hàng. Một ch ính sách lãi suất đúng đắn sẽ có tác dụng
thúc đẩy sản xuất, lưu thông hàng hoá, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và ngược lại
khi chính sách lãi suất thiếu chuẩn xác sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng đến nền kinh tế.
Và vai trò đó của chính sách lãi suất ngày càng trở nên quan trọng và phức tạp hơn
cùng với quá trình đổi m ới hoạt động ngân hàng trong điều kiện kinh tế th ị trường
ngày càng phát triển sâu sắc.
Ở Việt Nam, sau hơn 10 năm đổi mới, ngành ngân hàng đã đạt được những
thành tựu nhất định, góp phần không nhỏ vào những thành quả chung của nền kinh
tế. Trong nhiệm vụ xây dựng và điều hành chính sách tiền tệ, Ngân hàng Nhà nước
(NHNN) đã rất chú trọng đến việc đổi mới các công cụ điều tiết như hạn mức tín
dụng, dự trữ bắt buộc, tỷ giá.nhưng quan trọng nhất vẫn là công cụ lãi su ất. Nh ìn
chung trong hơn 10 năm đổi mới, chính sách lãi su ất tín dụng ngân hàng đã góp
phần bình ổn giá cả, đẩy lùi và kiểm soát lạm phát, kích cầu, tăng trưởng kinh tế.
Cơ chế điều hành lãi suất được thay đổi theo từng thời k ỳ phát triển kinh tế và
ngày càng trở nên linh hoạt hơn.
44 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 1972 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Tìm hiểu và đưa ra giải pháp nhằm hoàn thiện chính sách lãi suất tín dụng ngân hàng ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Trang 1
Luận văn
Tìm hiểu và đưa ra giải pháp nhằm hoàn thiện chính
sách lãi suất tín dụng ngân hàng ở Việt Nam.
Trang 2
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài cần nghiên cứu:
Lãi suất là giá cả sử dụng vốn, gắn liền với hoạt động tín dụng ngân hàng,
đồng thời gắn liền với mọi hoạt động kinh tế có liên quan, mà trực tiếp là người
gửi tiền và người vay vốn.
Lãi suất cũng là một công cụ quan trọng của chính sách tiền tệ quốc gia do
Ngân hàng Trung ương (NHTƯ) điều hành. Nó có tác động rất lớn đối với vịệc
tăng hoặc giảm khối lượng tiền lưu thông, thu hẹp hay mở rộng tín dụng, khích lệ
hay hạn chế huy động vốn, kích thích hay cản trở đầu tư, tạo thuận lợi hay khó
khăn cho hoạt động ngân hàng. Một chính sách lãi suất đúng đắn sẽ có tác dụng
thúc đẩy sản xuất, lưu thông hàng hoá, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và ngược lại
khi chính sách lãi suất thiếu chuẩn xác sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng đến nền kinh tế.
Và vai trò đó của chính sách lãi suất ngày càng trở nên quan trọng và phức tạp hơn
cùng với quá trình đổi mới hoạt động ngân hàng trong điều kiện kinh tế thị trường
ngày càng phát triển sâu sắc.
Ở Việt Nam, sau hơn 10 năm đổi mới, ngành ngân hàng đã đạt được những
thành tựu nhất định, góp phần không nhỏ vào những thành quả chung của nền kinh
tế. Trong nhiệm vụ xây dựng và điều hành chính sách tiền tệ, Ngân hàng Nhà nước
(NHNN) đã rất chú trọng đến việc đổi mới các công cụ điều tiết như hạn mức tín
dụng, dự trữ bắt buộc, tỷ giá...nhưng quan trọng nhất vẫn là công cụ lãi suất. Nhìn
chung trong hơn 10 năm đổi mới, chính sách lãi suất tín dụng ngân hàng đã góp
phần bình ổn giá cả, đẩy lùi và kiểm soát lạm phát, kích cầu, tăng trưởng kinh tế.
Cơ chế điều hành lãi suất được thay đổi theo từng thời kỳ phát triển kinh tế và
ngày càng trở nên linh hoạt hơn. Đặc biệt, trong giai đoạn thúc đẩy phát triển kinh
tế và xu hướng hội nhập vào thị trường tài chính khu vực cũng như Quốc tế hiện
nay đòi hỏi NHNN phải xây dựng và thực thi một chính sách lãi suất tín dụng ngân
Trang 3
hàng phù hợp, tiến tới tự do hoá trên cơ sở đảm bảo sự kiểm soát của Nhà nước
với thị trường, phù hợp với mục tiêu kinh tế vĩ mô.
Vì vậy, việc học tập, nghiên cứu chính sách lãi suất cũng như việc học tập
kinh nghiệm quản lý và điều hành chính sách lãi suất của các nước phát triển để từ
đó đưa ra những điều kiện, giải pháp để xây dựng một chính sách lãi suất đúng đắn
ở nước ta có một ý nghĩa lý luận và thực tiễn cao. Điều này không chỉ có ý nghĩa
quan trọng đối với quá trình xây dựng và điều hành một chính sách lãi suất phù
hợp với cơ chế quản lý kinh tế hiện nay, mà còn rất quan trọng đối với quá trình
hình thành và hoạt động một cách có hiệu quả của hệ thống thị trường tài chính ở
Việt Nam, góp phần giải quyết những khó khăn về vốn, đảm bảo sự thắng lợi cho
công cuộc công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước.
2. Mục tiêu
- Về lý luận: tìm hiểu sâu hơn những khái niệm có liên quan đến chính sách
lãi suất tín dụng ngân hàng.
- Về thực tiễn: Tìm hiểu và đưa ra giải pháp nhằm hoàn thiện chính sách lãi
suất tín dụng ngân hàng ở Việt Nam.
3. Đối tượng nghiên cứu của đề tài: tìm hiểu chính sách lãi suất tín dụng trong
giai đoạn đổi mới nền kinh tế.
4. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp phân tích tổng hợp.
- Tính chất lịch sử.
5. Kết cấu của đề tài
Trang 4
Chương I. Cơ sở lý luận của chính sách lãi suất tín dụng ngân hàng và kinh
nghiệm của một số nước trong việc điều hành chính sách lãi suất tín dụng ngân
hàng.
Chương II. Đánh giá quá trình sử dụng và điều hành chính sách lãi suất tín
dụng ngân hàng ở Việt Nam trong thời gian qua.
Chương III. Giải pháp nhằm củng cố và hoàn thiện chính sách lãi suất tín
dụng ngân hàng ở Việt Nam.
En xin gửi lời cám ơn chân thành đến thầy giáo Tiến sĩ Nguyễn Hữu Tài và
cô giáo Cao Thị Ý Nhi đã giứp đỡ em hoàn thành đề án này. Trong quá trình
nghiên cức vấn đề trên, do trình độ và khả năng có hạn nên bài viết này không thể
tránh khỏi những sai sót. Em rất mong nhận được sự góp ý của các thầy, các cô để
hoàn thành tốt đề án này.
Trang 5
CHƯƠNG I
Cơ sở lý luận của chính sách lãi suất tín dụng ngân hàng và kinh nghiệm của một
số nước trong việc điều hành chính sách lãi suất tín dụng ngân hàng.
1. Khái niệm lãi suất.
Trong nền kinh tế thị trường tồn tại rất nhiều phạm trù kinh tế - tài chính
trong đó tín dụng và lãi suất tín dụng là một trong số những phạm trù quan trọng.
Hoạt động tín dụng là hoạt động vay mượn, quan hệ sử dụng vốn giữa
người đi vay và người cho vay theo nguyên tắc có hoàn trả. Đối với chủ thể thừa
vốn, tín dụng mang đến cho họ cơ hội không những bảo tồn được vốn mà còn tạo
thu nhập. Đối với các chủ thể thiếu vốn, tín dụng giúp cho họ bổ sung vốn để đáp
ứng nhu cầu sản xuất, kinh doanh hoặc đời sống. Như vậy, nhờ có hoạt động tín
dụng mà có một bộ phận lớn nguồn vốn trong nền kinh tế được huy động, tập
trung và phân phối từ nơi tạm thời dư thừa sang nơi thiếu để đáp ứng các nhu cầu
khác nhau của các chủ thể trong nền kinh tế.
Công cụ và là đòn bẩy quan trọng không thể thiếu được trong hoạt động tín
dụng chính là lãi suất. Lãi suất tín dụng ngân hàng là tỷ lệ % giữa lợi tức và tổng
số tiền vay trong một thời kỳ nhất định. Như vậy, lãi suất chính là giá cả sử dụng
tiền vốn, gắn liền với hoạt động tín dụng ngân hàng, đồng thời gắn liền với mọi
hoạt động kinh tế có liên quan đến gửi tiền và vay tiền.
Mặt khác, ở tầm vĩ mô, lãi suất còn là một công cụ điều tiết kinh tế rất nhạy
bén và hiệu quả của chính sách tiền tệ quốc gia. Thông qua việc thay đổi mức và
cơ cấu lãi suất trong từng thời kỳ nhất định, Chính phủ có thể tác động đến quy mô
và tỷ trọng các loại vốn đầu tư, do vậy mà có thể tác động đến quá trình điều chỉnh
Trang 6
cơ cấu, đến tốc độ tăng trưởng, sản lượng, tỷ lệ thất nghiệp và tình trạng lạm phát
trong nước. Hơn thế nữa, trong những điều kiện nhất định của nền kinh tế mở,
chính sách lãi suất còn được sử dụng như một công cụ góp phần điều tiết đối với
các luồng vốn đối với một nước, tác động đến tỷ giá và điều tiết sự ổn định của tỷ
giá. Điều này không những tác động đến đầu tư phát triển mà còn tác động trực
tiếp đến cán cân thanh toán và các quan hệ thương mại quốc tế của nước đó đối với
nước ngoài.
Chính vì những điều như vậy mà ở các nước kinh tế thị trường phát triển và
theo đuổi chính sách tự do hoá tài chính (financial liberalization ), lãi suất được
hình thành trên cơ sở thị trường, tức là do quan hệ giữa cung và cầu về vốn trên thị
trường quyết định.
Có nhiều tiêu chí phân loại lãi suất tín dụng ngân hàng.
Căn cứ vào thời hạn tín dụng, lãi suất tín dụng ngân hàng chia thành ba loại.
Đó là lãi suất tín dụng ngắn hạn áp dụng đối với các khoản tín dụng ngắn hạn, lãi
suất tín dụng trung hạn áp dụng đối với các khoản tín dụng trung hạn, lãi suất tín
dụng dài hạn áp dụng đối với các khoản tín dụng dài hạn.
Nếu căn cứ vào mức độ ổn định của lãi suất thì lãi suất được chia thành lãi
suất thả nổi và lãi suất cố định. Lãi suất thả nổi là lãi suất thay đổi lên xuống còn
lãi suất cố định là lãi suất được áp dụng trong suốt thời hạn tín dụng.
Nếu căn cứ vào loại hình lãi suất tín dụng, lãi suất được chia thành nhiều
loại khác nhau. Lãi suất tiền gửi là lãi suất trả cho các khoản tiền gửi, lãi suất này
có nhiều mức khác nhau tuỳ thuộc vào thời hạn gửi, quy mô tiền gửi. Lãi suất tiền
vay là lãi suất mà người đi vay phải trả cho ngân hàng do việc sử dụng vốn vay
của ngân hàng, nó được áp dụng để tính lãi tiền vay mà khách hàng phải trả cho
ngân hàng. Lãi suất chiết khấu áp dụng khi ngân hàng cho vay dưới hình thức chiết
khấu thương phiếu hoặc các giấy tờ có giá khác chưa đến hạn thanh toán của
khách hàng, nó được tính bằng tỷ lệ % trên mệnh giá và được khấu trừ ngay khi
ngân hàng phát tiền vay cho khách hàng. Lãi suất tái chiết khấu áp dụng khi ngân
hàng tái cấp vốn cho các ngân hàng dưới hình thức chiết khấu lại thương phiếu
hoặc các giấy tờ có giá ngắn hạn chưa đến hạn thanh toán của ngân hàng. Nó cũng
Trang 7
được tính bằng tỷ lệ % trên mệnh giá của các giấy tờ có giá và cũng được khấu trừ
ngay khi NHTƯ cấp tiền vay cho ngân hàng thương mại (NHTM ). Lãi suất liên
ngân hàng là lãi suất mà các ngân hàng áp dụng khi cho nhau vay trên thị trường
liên ngân hàng, nó được hình thành bởi quan hệ cung cầu tiền của các tổ chức tín
dụng và chịu sự chi phối của lãi suất tái cấp vốn của NHTƯ. Lãi suất cơ bản là lãi
suất được các NHTM sử dụng làm cơ sở để ấn định mức lãi suất kinh doanh của
mình.
Một vấn đề quan trọng trong việc tìm hiểu khái niệm lãi suất tín dụng ngân
hàng đó là phải phân biệt được lãi suất thực tế và lãi suất danh nghĩa.
Lãi suất danh nghĩa là lãi suất tính theo giá trị danh nghĩa của tiền tệ vào
thời điểm nghiên cứu hay nói cách khác là lãi suất chưa trừ đi tỷ lệ lạm phát. Lãi
suất danh nghĩa thường được công bố chính thức trong các quan hệ tín dụng, trên
các phương tiên thông tin đại chúng.
Lãi suất thực tế là lãi suất được điều chỉnh lại cho đúng theo những thay đổi
dự tính về lạm phát.
Mối quan hệ giữa lãi suất danh nghĩa và lãi suất thực tế được khái quát
thành phương trình sau đây:
Lãi suất danh nghĩa = Lãi suất thực tế + Tỷ lệ lạm phát.
hay
Lãi suất thực tế = Lãi suất danh nghĩa - Tỷ lệ lạm phát.
Vì được điều chỉnh lại theo đúng những thay đổi về lạm phát nên lãi suất
thực tế phản ánh chính xác hơn thu nhập từ việc cho vay cũng như chi phí thật của
việc cho vay.
2. Các nhân tố ảnh hưởng tới lãi suất:
Trong nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, Nhà nước đóng vai trò trung tâm
trong hầu hết tất cả các hoạt động kinh tế xã hội trong đó có thị trường tài chính.
Vì lẽ đó, lãi suất trong các nước đó đều do Nhà nước qui định, thậm chí một số
Trang 8
nước còn quy định đến cả mức chênh lệch giữa lãi suất tiền gửi và lãi suất cho vay
của các ngân hàng. Sự biến động của lãi suất trong các điều kiện như vậy phần lớn
phụ thuộc vào ý chí của chính phủ và không vận động theo bất cứ một quy luật
nào.
Trái lại, trong các nền kinh tế thị trường, Nhà nước chỉ đóng vai trò là
người điều tiết vĩ mô, thị trường tài chính hoạt động theo cơ chế tự do hoá, cơ chế
hình thành lãi suất là cơ chế thị trường. Lãi suất vì vậy mà chịu ảnh hưởng của rất
nhiều nhân tố kinh tế vĩ mô cũng như nhiều các nhân tố khác.
Ảnh hưởng của cung cầu tiền tệ:
Lãi suất là giá cả sử dụng vốn vì vậy bất kỳ sự thay đổi nào của cung và cầu
hoặc cả cung và cầu tiền tệ không cùng một tỷ lệ đều sẽ là thay đổi mức lãi suất
trên thị trường. Tuy mức biến động của lãi suất ít nhiều phụ thuộc vào các quy
định của chính phủ và NHTƯ, song đa số các nước có nền kinh tế thị trường đều
dựa vào nguyên lý này để xác định lãi suất. Do vậy, có thể tác động vào cung cầu
trên thị trường vốn để thay đổi lãi suất trong nền kinh tế cho phù hợp với mục tiêu,
chiến lược trong từng thời kỳ chẳng hạn như thay đổi cơ cấu vốn đầu tư, tập trung
vốn cho các dự án trọng điểm. Mặt khác, muốn duy trì sự ổn định của lãi suất thì
sự ổn định của thị trường vốn phải được đảm bảo vững chắc.
Ảnh hưởng của lạm phát kỳ vọng:
Khi lạm phát được dự đoán tăng trong một thời kỳ nào đó, lãi suất sẽ có xu
hướng tăng. Điều này là xuất phát từ mối quan hệ giữa lãi suất thực và lãi suất
danh nghĩa và để duy trì lãi suất thực không đổi, tỷ lệ lạm phát tăng đòi hỏi lãi suất
danh nghĩa phải tăng lên tương ứng. Mặt khác, công chúng dự đoán lạm phát tăng
sẽ dành phần tiết kiệm của mình cho việc dự trữ hàng hoá hoặc những dạng thức
phi tài sản khác như vàng, ngoại tệ mạnh hoặc đầu tư vốn ra nước ngoài nếu có
thể. Tất cả những điều này làm giảm cung quỹ cho vay và gây áp lực tăng lãi suất
trên thị trường. Từ mối quan hệ này cho thấy ý nghĩa và tầm quan trọng của việc
khắc phục tâm lý lạm phát đối với việc ổn định lãi suất, sự ổn định và tăng trưởng
của nền kinh tế.
Trang 9
Ảnh hưởng của tỷ suất lợi nhuận bình quân:
Tỷ suất lợi nhuận bình quân của các dự án đầu tư phải cao hơn lãi suất các
khoản vay tài trợ cho dự án. Có như vậy các nhà đầu tư mới có lợi nhuận từ các dự
án đầu tư và phấn khởi mở rộng đầu tư. Do đó, cách đánh giá, lựa chọn chính sách
lãi suất phù hợp sẽ dựa trên cơ sở ước lượng tỷ suất lợi tức trung bình của nền kinh
tế.
Ảnh hưởng của bội chi ngân sách:
Bội chi ngân sách ở trung ương và địa phương trực tiếp làm cho cầu tiền
tăng và làm tăng lãi suất. Sau nữa, bội chi ngân sách sẽ tác động đến tâm lý công
chúng về gia tăng mức lạm phát và sẽ gây áp lực tăng lạm phát. Thông thường,
Chính phủ thường tài trợ cho thâm hụt ngân sách bằng cách phát hành trái phiếu.
Lượng cung trái phiếu trên thị trường tăng lên làm cho giá trái phiếu có xu hướng
giảm và lãi suất thị trường có xu hướng tăng. Mặt khác, do tài sản có của NHTM
tăng ở khoản mục trái phiếu chính phủ, dự trữ vượt mức giảm nên lãi suất ngân
hàng cũng sẽ tăng.
Những thay đổi trong thuế:
Thuế thu nhập cá nhân và thuế thu nhập doanh nghiệp luôn có tác động đến
lãi suất. Khi các hình thức thuế này tăng sẽ điều tiết đi một phần thu nhập của các
cá nhân và tổ chức cung cấp dịch vụ tín dụng hay những người tham gia kinh
doanh chứng khoán. Mọi người đều quan tâm đến thu nhập thực tế hơn là thu nhập
danh nghĩa. Do vậy, để duy trì một mức lợi nhuận thực tế nhất định, họ phải cộng
thêm vào lãi suất cho vay những thay đổi của thuế.
Ảnh hưởng của tỷ giá hối đoái kỳ vọng:
Khi đồng nội tệ yếu, bị những sức ép lớn do những dao động của các đồng
ngoại tệ mạnh thì tâm lý phổ biến của người dân là coi ngoại tệ mạnh như một
trong những loại tài sản tiết kiệm an toàn. Chẳng hạn, khi hiện tượng đô la hoá xảy
ra, người dân sẽ ồ ạt chuyển sang tiết kiệm bằng ngoại tệ cụ thể là đô la Mỹ. Làm
như vậy người gửi hưởng lợi kép gồm lãi suất tiền gửi và sự lên giá của đồng đô la
Mỹ. Sự chuyển dịch này tạo ra sự khan hiếm nội tệ ở các NHTM và buộc các ngân
Trang 10
hàng này phải tăng lãi suất tiền gửi đồng nội tệ để huy động cho vay nền kinh tế.
Như vậy, khi xây dựng chính sách lãi suất cần phải xem xét đến khía cạnh tỷ giá
để giảm bớt mức chênh lệch giữa lợi tức lãi suất tiền gửi nội tệ và ngoại tệ hay lãi
suất cho vay nội tệ và ngoại tệ. Điều này giúp giảm bớt sự dịch chuyển không
mong đợi từ tiền gửi nội tệ sang đô la khi đồng đô la lên giá.
Những thay đổi trong đời sống xã hội:
Ngoài những yếu tố trên, sự thay đổi của lãi suất còn chịu ảnh hưởng của
các yếu tố thuộc về đời sống xã hội khác như tình hình về kinh tế, chính trị cũng
như những biến động tài chính quốc tế như các cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ
trên thế giới, các luồng vốn đầu tư ra vào đối với các nước...
Tất cả những điều này gợi ý cho những nhà nghiên cứu, soạn thảo và điều
hành chính sách lãi suất phải có một cách nhìn và đánh giá một cách tổng thể trước
khi đưa ra bất cứ một kết luận hay một quyết định nào có liên quan đến lãi suất.
3. Các nguyên tắc cơ bản hình thành lãi suất tín dụng ngân hàng.
Như đã nói, lãi suất tín dụng chính là giá cả của tín dụng, là tỷ lệ % tính
theo một thời hạn xác định ( ngày, tuần, tháng, quý, năm... ) dùng làm căn cứ để
tính toán số lợi tức tín dụng mà các chủ thể tín dụng phải trả ( đối với chủ thể đi
vay ) hoặc nhận được ( đối với chủ thể cho vay ) để điều hoà lợi ích của các chủ
thể tham gia quan hệ tín dụng. Do vậy, việc xác định lãi suất tín dụng sao cho hợp
lý là một vấn đề vô cùng quan trọng sao cho đảm bảo được lợi ích giữa các chủ thể
trong quan hệ tín dụng.
Trước hết, lãi suất tín dụng phải đảm bảo một phần thu nhập hợp lý cho
người gửi tiền vào ngân hàng. Do vậy trong thực tế, lãi suất thực tế phải lớn hơn
hoặc bằng tỷ lệ lạm phát tức là:
Lãi suất thực tế = tỷ lệ lạm phát + tỷ lệ khuyến khích người gửi tiền.
Mặt khác, lãi suất tín dụng phải đảm bảo một phần thu nhập hợp lý cho các
tổ chức tín dụng (TCTD ) và NHTM tức là:
Trang 11
Lãi suất = Lãi suất + Các chi phí hợp lý + Bù đắp rủi ro + tỷ lệ thu nhập
cho vay tiền gửi trong hoạt động trong hoạt động hợp lý của
tín dụng ngân hàng ngân hàng ngân hàng
Đồng thời, lãi suất cho vay của ngân hàng phải đảm bảo phát triển nền kinh
tế tức là phải đảm bảo cho những người vay vốn ngân hàng có thu nhập hợp lý,
nghĩa là:
Lãi suất cho vay < Tỷ lệ lợi nhuận bình quân của nền kinh tế.
Do vậy, có thể khẳng định rằng giới hạn tối đa của lãi suất tín dụng ngân
hàng nói chung là tỷ suất lợi nhuận bình quân, còn giới han thấp nhất của lãi suất
là chỉ số lạm phát vì nó sẽ làm cho người gửi tiền bảo toàn được vốn.
Tóm lại, để lãi suất tín dụng trở thành đòn bẩy kích thích và mở rộng các
quan hệ tín dụng trong nền kinh tế thì phải đảm bảo lãi suất tín dụng được kiểm
soát trong khung giới hạn sau đây:
Tỷ lệ lạm phát <= lãi suất tín dụng <= tỷ suất lợi nhuận bình quân.
Nếu vượt quá giới hạn trên, lãi suất tín dụng sẽ gây ra tác động tiêu cực đối
với nền kinh tế xã hội, hệ thống ngân hàng sẽ rơi vào tình trạng bất ổn, rối loạn.
4. Chính sách lãi suất tín dụng ngân hàng.
Lãi suất là công cụ có ý nghĩa khi thực hiện chính sách tiền tệ, NHTƯ sẽ
căn cứ vào thực trạng của nền kinh tế để quy định một số chỉ tiêu lãi suất áp dụng
trong toàn hệ thống ngân hàng. Thông thường, người ta thường quy định hai chỉ
tiêu cơ bản là lãi suất tái chiết khấu và lãi suất cơ bản.
a. Lãi suất cơ bản.
Lãi suất cơ bản là lãi suất có tác dụng chi phối tất cả các loại lãi suất khác
hình thành trong nền kinh tế thị trường. Đó là loại lãi suất chiếm vị trí quan trọng
trong cơ chế thị trường.
Trang 12
Lãi suất cơ bản do NHTƯ xác định và công bố trên cơ sở tình hình thực tế
của thị trường và mục tiêu của chính sách tiền tệ quốc gia.
Lãi suất cơ bản có một số chức năng nhất định. Nó là công cụ để điều hành
chính sách tiền tệ quốc gia. Qua lãi suất cơ bản, NHTƯ tác động vào thị trường
tiền tệ, thúc đẩy, mở rộng hay thu hẹp tín dụng, giữ mức tương quan cần thiết giữa
tổng cung và tổng cầu tiền tệ. Mặt khác, lãi suất cơ bản là giá cả sử dụng vốn trong
hoạt động tín dụng, là cở sở hình thành lãi suất thị trường, tức là lãi suất kinh
doanh tiền tệ. Nó là điểm dung hoà một cách tự nhiên lợi ích của người gửi tiền,
của người vay tiền và của TCTD.
Lãi suất cơ bản được xác định một cách trực tiếp dưới nhiều góc độ. Nếu
đứng trên giác độ bảo vệ lợi ích của khách hàng ( người gửi tiền và người vay vốn)
người ta quy định lãi suất tiền gửi tối thiểu và lãi suất cho vay tối đa. Điều này có
nghĩa là, vì lợi ích của người gửi tiền, các TCTD không được hạ lãi suất một cách
tuỳ tiện và vì yêu cầu phát triển sản xuất, các tổ chức tín dụng không được tăng lãi
suất cho vay quá mức. Nếu đứng trên giác độ bảo vệ lợi ích của các TCTD, tạo
khuôn khổ cạnh tranh lành mạnh, đảm bảo an toàn hệ thống các TCTD, người ta
quy định lãi suất cơ bản theo chiều hướng ngược lại đó là quy định lãi suất tiền gửi
tối đa và lãi suất cho vay tối thiểu. Điều này làm cho các TCTD không được vì
muốn tạo lợi thế trong cạnh tranh mà nâng lãi suất huy động quá cao hoặc cho vay
theo lãi suất quá thấp, gây thiệt hại chung cho toàn hệ thống các TCTD.
Khi xác định lãi suất cơ bản phải tính đến tổng thể quan hệ cung cầu vốn
thông qua một loạt các yếu tố trong hoạt động kinh doanh tiền tệ thông thường. Đó
là tỷ suất lợi nhuận bình quân, mức tăng trưởng kinh tế, chỉ số lạm phát dự báo
hàng quý, hàng năm, lãi suất thực dương cho người gửi tiền, bù đắp chi phí và có
lãi cho TCTD, yêu cầu điều hành chính sách tiền tệ từng thời kỳ, rủi ro trong hoạt
động tín dụng, mức độ dự trữ bắt buộc, lãi suất hình thành trên thị trường tiền tệ
nói chung, mối tương quan giữa lãi suất nội tệ và lãi suất ngoại tệ, mối tương quan
giữa lãi suất và tỷ giá hối đoái...
Có rất nhiều cách hiểu khác nhau về lãi suất cơ bản, cách thức xác định và
điều hành lãi suất cơ bản. Có thể lấy lãi suất cơ bản là lãi suất tiền gửi tối đa, lãi
T