Chi nhánh Ngân Hàng Công Thương Bến Tre được thành lập 06/05/1988, trụ sở chính tại só 142A Nguyễn Đình Chiểu, phường 2, thị xã Bến Tre với mạng lưới giao dịch gồm có:
Phòng giao dịch số 1 đặt tại Đại Lộ Đồng Khởi, phường 3, thị xã Bến Tre
Phòng giao dịch số 2 đặt tại xã Tiên Thủy huyện Châu Thành
Phòng giao dịch Ba Tri đặt tại xã Tân Thuy huyện Ba Tri
Phòng giao dịch Bình Đại đặt tại thị trấn Bình Đại
Phòng giao dịch Mỏ Cày đặt tại thị trấn Mỏ Cày
Các dịch vụ kinh doanh chính của chi nhámh bao gồm:
Huy dộng tiền gửi bằng đồng Việt Nam hoặc ngoại tệ với nhiều kỳ hạn và lãi suất thích hợp
Cho vay ngắn, trung và dài hạn bằng đồng Việt Nam và ngoại tệ để phục vụ nhu cầu phát triển kinh tế của các thành phần kinh tế, các ngành sản xuất kinh doanh dịch vụ và nhu cầu nâng cao đời sống của các tầng lớp dân cư, chi phí học tập của sinh viên, học sinh, nhận cầm cố vàng và các loại tài sản có giá trị.
Thực hiện các nghiệp vụ thanh toán điện tử. Thanh toán quốc tế qua mạng SWIFT. Dịch vụ chuyển tiền nhanh WESTERN UNION.
Kinh doanh ngoại tệ đáp ứng nhu cầu xuất nhập khẩu và thực hiện dịch vụ chi trả kiều hối.
Thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh trong và ngoài nước.
Chức năng:
Là Chi Nhánh Ngân Hàng Thương Mại Nhà Nước, kinh doanh đa năng, thực hiện đầy đủ các mặt nghiệp vụ của Ngân Hàng theo qui định, các nghiệp vụ hiện có:
-Nhận tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn, có kỳ hạn, tiền gửi thanh toán của các tổ chức, cá nhân thuộc mọi ngành kinh tế bằng đồng Việt Nam
-Phát hành chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu, kỳ phiếu.
-Cho vay ngắn, trung và dài hạn bằng đồng Việt Nam đối với mọi thành phần kinh tế.
-Thực hiện các nghiệp vụ bảo lãnh trong nước .
-Đồng tài trợ, cho vay hợp vốn đối với các dự án có qui mô lớn.
-Làm dịch vụ uỷ thác và đầu tư phát triển cho chính phủ và các tổ chức tài chính, tín dụng trong và ngoài nước.
-Chuyển tiền nhanh toàn quốc qua mạng điện tử và một số nghiệp vụ qua mạng khác.
-Tổ chức công tác thông tin, nghiên cứu phân tích các hoạt động có liên quan đến hoạt động tín dụng, tiền tệ để tham mưu cho các cấp uỷ chính quyền địa phương trong việc xây dựng và thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế xã hội của địa phương.
-Luôn dảm bảo công việc kinh doanh của chi nhánh an toàn và có hiệu quả, bảo đảm và phát triển.
71 trang |
Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 2682 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Tình hình hoạt động kinh doanh của ngân hàng công thương chi nhánh tỉnh Bến Tre phòng giao dịch Mỏ Cày, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
CHƯƠNG 1
GIỚI THIỆU
1.1. ĐẶT VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1.1. Sự cần thiết nghiên cứu
Trong nền kinh tế hiện đại, sự phát triển nhanh chóng của hoạt động ngân hàng thương mại và những hỗ trợ to lớn của nó cho nên kinh tế đã làm cho ngân hàng thương mại trở thành một định chế tài chính ngày càng quan trọng. Do đó, sự thành bại của hoạt động ngân hàng tác động rất lớn đến đời sống kinh tế xã hội. Trong những năm vừa qua, hoạt động ngân hàng nước ta đã có những chuyển biến sâu sắc: Quy mô ngày càng mở rộng, các loại hình kinh doanh ngày càng đa dạng và phong phú. Vì thế các ngân hàng luôn tìm kiếm những giải pháp nhằm đảm bảo an toàn trong kinh doanh, hướng tới sự phát triển ổn định. Một trong những giải pháp hàng đầu là tối thiểu hóa rủi ro tín dụng – đó là nhân tố quyết định thắng lợi trong hoạt động ngân hàng.
Do đó công tác quản lý rủi ro tín dụng là một trong những nhiệm vụ quan trọng mà bất kỳ một ngân hàng nào cũng quan tâm Tuy ngày nay các phương pháp quản lý rủi ro tín dụng ngày càng hoàn thiện và tinh vi hơn đã góp phần nâng cao hiệu quả và độ tin cậy nhưng chúng vẫn chưa hoàn toàn khắc phục những hạn chế vốn có. Nguyên nhân là do các yếu tố rủi ro thường mang tính khách quan nên người ta chỉ có thể hạn chế mức độ tác hại của rủi ro chứ không thể hoàn toàn loại bỏ hẳn rủi ro.
Xuất phát từ thực tế đó nên tôi chọn đề tài này làm luận văn tốt nghiệp cho mình.
1.2. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU
1.2.1 Mục tiêu chung
Trong xu thế hiện nay với sự phát triển của nền kinh tế thị trường, hệ thống Ngân hàng ngày càng phát triển, sự cạnh tranh giữa các Ngân hàng bên trong và ngoài nước ngày càng trở nên sôi động. Do đó buộc các Ngân hàng phải tìm mọi biện pháp để nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh, bên cạnh đó phải tìm mọi biện pháp để hạn chế tối đa rủi ro tín dụng để đứng vững trong thị trường hiện tại cũng như trong tương lai. Do đó mục tiêu chung là phân tích hiệu quả hoạt động tín dụng của ngân hàng để từ đó thấy rõ hơn về tình hình rủi ro tín dụng và nguyên nhân gây ra rủi ro trong thời gian qua.
1.2.2 Mục tiêu cụ thể
Cụ thể mục tiêu của đề tài là đi nghiên cứu những vấn đề sau:
- Phân tích hoạt động tín dụng của ngân hàng
- Phân tích tình hình nợ quá hạn của ngân hàng
- Từ đó rút ra điểm mạnh, điểm yếu từ tình hình tín dụng
- Tìm ra những biện pháp khắc phục và phòng ngừa thích hợp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng của Ngân hàng,
1.3. PHẠM VI NGHIÊN CỨU
Hiện nay với cơ chế thị trường cùng với chính sách đối ngoại - mở cửa, Ngành Ngân hàng là cầu nối quan trọng, tin cậy và cần thiết cho sự hoạt động cũng như giao dịch của các doanh nghiệp trong và ngoài nước. Vì vậy, mà hoạt động của Ngân hàng rất phong phú và đa dạng, tham gia trong nhiều lĩnh vực. Nhưng do giới hạn về tài liệu, số liệu, thời gian nên không đi sâu phân tích chi tiết từng nghiệp vụ, từng loại hoạt động cụ thể mà chỉ dựa trên số liệu trong 3 năm gần nhất.
1.3.1. Không gian
Chỉ tập trung tại Ngân hàng Công thương chi nhánh Tỉnh Bến Tre – Phòng giao dịch Mỏ Cày.
1.3.2. Thời gian
Thời gian chủ yếu là trong 3 năm gần nhất (2004-2006) tại Ngân hàng Công Thương chi nhánh Tỉnh Bến Tre – Phòng giao dịch Mỏ Cày.
1.3.3. Đối tượng nghiên cứu
Chủ yếu là các báo cáo về tình hình hoạt động kinh doanh của ngân hàng trong 3 năm gần nhất.
Vì kiến thức và thời gian có hạn. hơn nữa thời gian tiếp cận thực tế quá ít, chắc chắn đề tài này không thể tránh khỏi thiếu sót. Rất mong sự thông cảm và đóng góp ý kiến của quý thầy cô, anh, chị trong cơ quan để luận văn được hoàn chỉnh hơn.
CHƯƠNG 2
PHƯƠNG PHÁP LUẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. KHÁI QUÁT VỀ NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
2.1.1. Thế nào là Ngân hàng Thương mại?
- Ngân hàng Thương mại là tổ chức tài chính nhận gửi tiền và cho vay tiền.
- Ngân hàng Thương mại là tổ chức tài chính có giấy phép kinh doanh của chính phủ để cho vay tiền và mở các tài khoản tiền gửi, kể cả các tài khoản tiền gửi mà dựa vào đó có thể dùng các tờ séc.
- Ngân hàng Thương mại là nơi trực tiếp giao dịch với công chúng để nhận ký thác cho vay và cung ứng những dịch vụ tài chính.
- Điều 1 của pháp lệnh Ngân hàng Việt Nam: Ngân hàng Thương mại là tổ chức kinh doanh tiền tệ mà hoạt động chủ yếu và thường xuyên là nhận tiền gửi của khách hàng với trách nhiệm hoàn trả và sử dụng tiền đó cho vay. Thực hiện nghiệp vụ chiết khấu thương phiếu và làm phương tiện thanh toán.
Tóm lại, Ngân hàng Thương mại có thể định nghĩa như sau: Ngân hàng Thương mại là doanh nghiệp kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ - tín dụng, huy động vốn cho vay chiết khấu, bảo lãnh dịch vụ thanh toán và cung cấp các dịch vụ khác.
2.1.2. Chức năng của Ngân hàng Thương mại
2.1.2.1.Tạo tiền
Một trong những chức năng chủ yếu của Ngân hàng Thương mại là khả năng tạo tiền và hủy tiền. Tạo tiền cùng với chức năng khác của Ngân hàng Thương mại hợp thành một hệ thống các chức năng, phản ánh bản chất của các Ngân hàng Thương mại. Chức năng này được thực hiện thông qua các hoạt động tín dụng và đầu tư, trong mối quan hệ chặt chẽ với Ngân hàng Trung Ương của mỗi nước. Nếu tín dụng Ngân hàng được mở ra để tạo điều kiện cho quá trinh sản xuất kinh doanh và những hoạt động của nó thì trong những trường hợp sản xuất không thực hiện được và nguồn tích luỹ khác sẽ bị hạn chế. Hơn nữa, các đơn vị sản xuất có thể bị ứ đọng vốn, không sản xuất được vào quá trình sản xuất ở mọi thời điểm, nhưng lại thiếu vốn kinh doanh ở thời điểm khác.
Trong nền kinh tế, bao giờ và lúc nào cũng phải tôn trọng một nguyên tắc quan trọng là cung tiền tệ phải vừa đủ đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế, với tốc độ phát triển kinh tế dự kiến. Nếu tiền cung ứng tăng quá nhanh tất yếu lạm phát sẽ xuất hiện và những hậu quả của nó đương nhiên nền kinh tế phải gánh chịu. Các Ngân hàng Thương mại đóng vai trò rất quan trọng trong việc thực hiện chính sách này, trong mối quan hệ với Ngân hàng Trung Ương của mỗi nước. Tín dụng Ngân hàng, trong trường hợp này, thực hiện vai trò của nó như là kênh dẫn để thông qua đó, tiền cung ứng tăng lên hoặc giảm xuống phù hợp với chính sách tiền tệ quốc gia.
2.1.2.2. Cơ chế thanh toán
Bên cạnh chức năng tạo tiền, các Ngân hàng Thương mại còn thực hiện một chức năng khác là đưa ra cơ chế thanh toán, hay nói cách khác, sự vận động vốn là một trong những chức năng quan trọng do các Ngân hàng Thương mại thực hiện. Ở các nước phát triển và đang phát triển phần lớn công tác thanh toán được thực hiện thông qua séc và thẻ thanh toán.
Phần lớn séc thanh toán trong nước được thực hiện bằng thanh toán bù trừ, thông qua hệ thống Ngân hàng thương mại. Việc phát hành séc để rút tiền từ tài khoản tiền gửi và ký thác trong cùng một Ngân hàng thật ra đó là sự chuyển vốn từ tài khoản này sang tài khoản khác, và nếu giữa hai Ngân hàng trong cùng một địa bàn sẽ tiến hành trao đổi séc trực tiếp, nhưng nếu xảy ra một trong số Ngân hàng trong cùng một địa bàn, buộc phải tiến hành thông qua thanh toán bù trừ. Quá trình sẽ trở nên phức tạp, mất thời gian và tốn kém khi việc thanh toán bù trừ diễn ra giữa các Ngân hàng thuộc các địa bàn khác nhau trong nước.
2.1.2.3. Huy động tiết kiệm
Các Ngân hàng thực hiện các dịch vụ rất quan trọng đối với tất cả dân cư trong nước thuộc các khu vực của nền kinh tế bằng cách đáp ứng những điều kiện và các công cụ thuận lợi cho việc chuyển tiền và rút tiền tiết kiệm một cách dễ dàng, nhằm thực hiện các mục đích có tính chất xã hội rộng lớn. Do đó, huy động tiết kiệm đã trở thành một chức năng quan trọng của Ngân hàng Thương mại.
2.1.2.4. Mở rộng tín dụng
Chức năng chủ yếu và quan trọng bậc nhất của Ngân hàng Thương mại là mở rộng tín dụng đối với các Ngân hàng đáng tin cậy. Chức năng tín dụng được hình thành từ rất sớm. Ngay từ khi hình thành những người tổ chức các Ngân hàng luôn tìm kiếm cơ hội để thực hiện cho vay.
2.1.2.5. Tạo điều kiện để tài trợ ngoại thương
Việc tài trợ này góp phần vào tự do ngoại thương giữa các nước với nhau và với một phí tổn thấp hơn. Do quá trình hợp tác và phân công lao động có tính quốc tế, nghiệp vụ Ngân hàng đối ngoại của các Ngân hàng Thương mại cũng tăng không ngừng.
2.1.2.6. Dịch vụ uỷ thác
Các văn phòng uỷ thác có trách nhiệm đầu tư quản lý số vốn này và phân phối thu nhập theo các điều khoản của hợp đồng uỷ thác
2.1.2.7. Bảo quản an toàn vật có giá
Chức năng bảo quản an toàn vật có giá chỉ diễn ra ở các Ngân hàng lớn, nơi có điều kiện hình thành các kho đặc biệt. Bảo quản an toàn và chắc chắn.
2.1.2.8. Dịch vụ kinh kỷ
Phần lớn Ngân hàng Thương mại đều cung cấp dịch vụ kinh kỷ - đó là việc mua và bán các chứng khoán cho khách hàng - Mặc dù quyền hạn trong dịch vụ tài chính của các Ngân hàng được nâng lên nhưng không vượt quá giới hạn các hoạt động bảo lãnh hoặc cung ứng các dịch vụ nghiên cứu và vốn đầu tư thông thường, kết hợp với các hoạt động môi giới. Việc cho phép tiến hành cung cấp những dịch vụ này được thực hiện trước năm 1983 nhưng vẫn chưa hội đủ những kinh nghiệm cần thiết để đánh giá khả năng tiềm tàng của chúng.
2.1.3. Các hình thức huy động
2.1.3.1 Các loại tiền gửi
a) Tiền gửi không kỳ hạn
Ngân hàng thương mại từ khi mở cửa hoạt động thì không ngừng động viên khuyến khích khách hàng mở tài khoản tại ngân hàng. Tiền gửi thanh toán là loại tiền gửi mà người gửi tiền có thể rút ra bất cứ lúc nào mà cũng không cần báo trước cho Ngân hàng và Ngân hàng phải đáp ứng được yêu cầu đó của khách hàng
Tài khoản được sử dụng cho tiền gửi thanh toán được coi là tài khoản giao dịch hay gọi là tài khoản Sec. Tài khoản Sec ngày nay chia ra hai loại: Tài khoản thanh toán dùng cho các tổ chức kinh tế và tài khoản thanh toán dùng cho cá nhân.
Đặc điểm nổi bật của loại tiền gửi này là khách hàng gửi tiền vào ngân hàng đã hình thành một khế ước mặc nhiên, trong đó ngân hàng phải thỏa mãn nhu cầu chi trả của khách hàng bất cứ lúc nào. Nếu vi phạm Ngân hàng sẽ bị xử lý theo quy định của pháp luật
Mục đích của loại tiền gửi này nhằm đảm bảo an toàn về tài sản, thực hiện các khoản chi trả trong hoạt động sản xuất kinh doanh, trong tiêu dùng, tiện lợi trong việc thanh toán bằng tiền mặt. Đối với ngân hàng loại tiền gửi thanh toán thường có sự dao động lớn, do đó Ngân hàng chỉ áp dụng một tỉ lệ nhất định để cho vay nên Ngân hàng thường áp dụng với lãi suất thấp.
Trong việc sử dụng tiền gởi thanh toán, khách hàng thường dùng các công cụ thanh toán để chi trả như: séc, lệnh chuyển tiền… trong đó séc được coi là công cụ thanh toán chủ yếu vì sử dụng séc một mặt bảo đảm an toàn về ngân quỹ mặt khác séc là hình thức chi trả đơn giản và tiện lợi.
b) Tiền gửi có kỳ hạn
Hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp và cá nhân sau khi thu được lợi nhuận mà tạm thời chưa sử dụng đến trong một thời gian nhất định nào đó có thể ký thác vào Ngân hàng một cách có kỳ hạn. Đối với loại tiền gởi này, người gởi tiền chỉ được rút ra khi đáo hạn. Tuy nhiên, trên thực tế do áp lực cạnh tranh, các Ngân hàng cho phép khách hàng rút tiền trước hạn với điều kiện là người gởi tiền không được trả lãi hoặc chịu một mức lãi suất thấp hơn lãi suất trả cho tiển gởi có kỳ hạn, điều kiện tuỳ thuộc vào chính sách huy động của Ngân hàng và loại tiền gởi định kỳ.
Tiền gởi định kỳ có nhiều loại khác nhau, thông thường có kỳ hạn 3 tháng, 6 tháng, 12 tháng. Khác với tiền gởi thanh toán tiền gởi định kỳ là tiền gởi tạm thời chưa sử dụng hoặc tiền gởi để dành của các nhân. Vì vậy, mục đích gởi tiền vào Ngân hàng là nhằm kiếm lợi tức. Do đó thường dùng biện pháp lãi suất để huy động nguồn vốn này chủ yếu.
Hiện nay, các Ngân hàng Thương mại đang áp dụng hai loại tiền gởi định kỳ: tiền gởi định kỳ theo tài khoản và tiền gởi định kỳ với hình thức phát hành kỳ phiếu. Nguồn tiền gởi định kỳ là nguồn tiền gởi có tính chất ổn định ở Ngân hàng Thương mại. Do vậy, nó có thể dùng để cho vay trung và dài hạn với lãi suất cao hơn lãi suất tiền gởi thanh toán không kỳ hạn. Ngân hàng áp dụng nguyên tắc kỳ hạn càng dài lãi suất càng cao.
c) Tiền gửi tiết kiệm
Ở Việt Nam, tiền gởi tiết kiệm hết sức đa dạng và phong phú được chia ra làm nhiều loại:
- Tiền gởi tiết kiệm không kỳ hạn: Là loại tiền gởi không có thời gian đáo hạn, khi nào người gởi muốn rút tiền thì phải thông báo cho Ngân hàng một thời gian, tuy nhiên ngày nay Ngân hàng cho phép khách hàng rút tiền ra không cần thông báo trước. Đây là hình thức hoạt kỳ mà đối tượng gởi chủ yếu là người tiết kiệm, dành dụm hầu trang trãi những chi tiêu cần thiết đồng thời có một khoản lãi góp phần vào việc chi tiêu hàng tháng. Ngoài ra, đối tượng gởi tiền có thể là những người thừa tiền nhàn rỗi muốn gởi vào Ngân hàng để thu hoạch lợi tức đồng thời đảm bảo an toàn hơn tiển gởi ở nhà.
Loại tiền gởi tiết kiệm không kỳ hạn lãi suất thấp do Ngân hàng không chủ động được nguồn vốn và lãi luôn được nhập vốn và thường tính lãi theo nhóm ngày gửi tiền. Còn đối với tiền gửi thanh toán thì lãi nhập vốn vào cuối tháng.
- Tiền gửi tiết kiệm có mục đích: người ký thác tiền ở ngân hàng nhằm mục đích nhất định như để mua sắm nhà cửa, trang trải chi phí học tập cho con cái… đối với những người gửi tiền loại này ngân hàng thường cấp thêm tín dụng để bù đắp phần thiếu hụt khi sử dụng theo mục đích của người gửi tiền.
- Tiền gửi tiết kiệm định kỳ hiện nay được phân thành 2 loại: tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn dưới 12 tháng và tiền gửi tiết kiệm từ 12 tháng trở lên
- Khách hàng gửi tiết kiệm định kỳ thì được ngân hàng cấp cho một bản kê lúc gửi tiền đầu tiên và theo định kỳ hàng tháng để phản ánh tất cả số phát sinh, khách hàng quản lý và mang theo bên người khi đến ngân hàng giao dịch
- Về nguyên tắc khách hàng chỉ được rút vốn khi đến hạn. Nếu rút trước hạn phải được sự đồng ý của Ngân hàng và chỉ được hưởng lãi suất của tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn hoặc không được hưởng lãi nếu gửi có kỳ hạn mà rút ra chưa được 1 tháng.
2.1.3.2. Phát hành các chứng từ có giá
Gồm kỳ phiếu Ngân hàng và trái phiếu Ngân hàng
- Kỳ phiếu Ngân hàng có mục đích: là công cụ huy động vốn tiết kiệm vào Ngân hàng, do Ngân hàng phát hành nhằm vào những mục đích kinh doanh trong từng thời kỳ nhất định.
- Trái phiếu Ngân hàng: là công cụ huy động vốn trung và dài hạn vào Ngân hàng. Trái phiếu Ngân hàng cũng được coi là sản phẩm của thị trường chứng khoán, được giao dịch mua bán trên thị trường chứng khoán.
Lãi suất của hai loại này thường cao hơn các loại tiền gửi khác
2.1.3.3. Vốn đi vay
a) Vay các tổ chức tín dụng khác
Trong quá trình kinh doanh của các Ngân hàng, cũng có lúc Ngân hàng tập trung huy động được vốn nhưng lại không cho vay hết, trong khi đó vẫn phải trả lãi tiền gửi. Tương tự, có thời điểm nhu cầu cho vay vốn lớn, nhưng khả năng nguồn vốn mà Ngân hàng huy động được lại không đáp ứng đủ. Vì vậy, trong những trường hợp đó Ngân hàng cũng có thể tiếp tục gửi vốn tạm thời chưa sử dụng vào Ngân hàng khác để lấy lãi hoặc đi vay của các Ngân hàng khác có phát sinh tình trạng thừa vốn để nhằm khôi phục khả năng thanh toán của Ngân hàng.
Do Ngân hàng thương mại là một doanh nghiệp hoạch toán ngành, vì vậy khi phát sinh tình trạng tạm thời thừa vốn, các chi nhánh của Ngân hàng thường phải điều chuyển vốn thừa về Ngân hàng cấp trên, để tiếp tục điều chuyển cho các Ngân hàng thiếu vốn.
b) Vay từ Ngân hàng Trung Ương
Ngân hàng Trung Ương đóng vai trò là Ngân hàng của các Ngân hàng, là người cho vay cuối cùng đối với các Ngân hàng thương mại. Việc cho vay vốn của Ngân hàng Trung Ương đối với các Ngân hàng thương mại thông qua hình thức tái cấp vốn. Tái cấp vốn là hình thức cấp tín dụng có đảm bảo của Ngân hàng Trung Ương nhằm cung ứng vốn ngắn hạn và các phương tiện thanh toán cho các Ngân hàng thương mại.
2.2. NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ TÍN DỤNG
2.2.1. Tín dụng ngân hàng
2.2.1.1. Khái niệm tín dụng
- Tín dụng là quan hệ kinh tế được biểu hiện dưới dạng tiền tệ hay vật chất mà trong đó người đi vay phải trả cho người cho vay cả gốc lẫn lãi trong thời gian nhất định.
- Đối với ngân hàng thương mại, thì tín dụng có nghĩa là sự cho vay hay ứng trước tiền do ngân hàng thực hiện, giá cả do ngân hàng ấn định đối với khách hàng đi vay mà chúng ta thường gọi là lãi suất hay những khoản tiền hoa hồng mà người vay phải trả trong suốt thời gian sử dụng các khoản ứng trước của ngân hàng.
2.2.1.2. Chức năng của tín dụng
Trong nền kinh tế thị trường tín dụng có hai chức năng sau: thứ nhất-chức năng phân phối lại tài nguyên; thứ hai-chức năng thúc đẩy lưu thông hàng hoá và phát triển sản xuất.
a) Chức năng phân phối lại tài nguyên
Tín dụng là sự chuyển nhượng vốn từ chủ thể này sang chủ thể khác. Thông qua sự chuyển nhượng này tín dụng góp phần phân phối lại tài nguyên, thể hiện ở chỗ:
- Người cho vay có một số tài nguyên tạm thời chưa dùng đến, thông qua tín dụng, số tài nguyên đó được phân phối lại cho người đi vay.
- Ngược lại, người đi vay cũng thông qua quan hệ tín dụng nhận được phần tài nguyên được phân phối lại.
b) Chức năng thúc đẩy lưu thông hàng hoá và phát triển sản xuất
Nhờ tín dụng mà quá trình chu chuyển tuần hoàn vốn trong từng đơn vị nói riêng và trong toàn bộ nền kinh tế nói chung đựơc thực hiện một cách bình thường và liên tục. Do đó, tín dụng góp phần thúc đẩy phát triển sản xuất và lưu thông hàng hoá.
2.2.2. Sự ra đời của tín dụng
Tín dụng ra đời rất sớm gắn liền cùng với sự ra đời và phát triển của sản xuất hàng hoá. Cơ sở ra đời của tín dụng xuất phát từ:
- Có sự tồn tại và phát triển hàng hoá.
- Có nhu cầu bù đắp thiếu hụt khi gặp biến cố nhằm đảm bảo sản xuất, đảm bảo cuộc sống bình thường.
2.2.3. Phân loại tín dụng
Trong nền kinh tế thị trường, thì hiện nay có rất nhiều hình thức tín dụng trong hoạt động của ngân hàng như cho vay đối với doanh nghiệp, cá nhân, tổ chức kinh tế, cho vay tiêu dùng, cho vay sản xuất….Tín dụng được phân ra làm hai loại: Tín dụng ngắn hạn và tín dụng dài hạn.
2.2.3.1. Căn cứ vào thời hạn tín dụng:
Tín dụng phân loại theo tiêu thức thời hạn có ba loại
- Tín dụng ngắn hạn: là loại tín dụng có thời hạn dưới một năm, được xác định phù hợp với chu kỳ sản xuất kinh doanh và khả năng trả nợ của khách hàng, loại tín dụng này chiếm chủ yếu trong các Ngân hàng thương mại. Tín dụng ngắn hạn thường được dùng để cho vay bổ sung thiếu hụt tạm thời vốn lưu động và cho vay phục vụ nhu cầu sinh hoạt cá nhân.
- Tín dụng trung hạn: là loại tín dụng có thời hạn từ 1 đến 5 năm dùng để cho vay vốn mua sắm tài sản cố định, cải tiến và đổi mới kĩ thuật, mở rộng và xây dựng các công trình nhỏ có thời hạn thu hồi vốn nhanh.
- Tín dụng dài hạn: là loại tín dụng có thời hạn trên 5 năm được sử dụng để cấp vốn cho xây dựng cơ bản, cải tiến và mở rộng sản xuất có quy mô lớn.
2.2.3.2. Căn cứ vào đối tượng tín dụng
Theo tiêu thức này tín dụng chia làm hai loại
- Tín dụng vốn lưu động: là loại tín dụng cung cấp nhằm hình thành vốn lưu động như cho vay để dự trữ hàng hoá, mua nguyên liệu cho sản xuất.
- Tín dụng vốn cố định: là loại tín dụng cung cấp để hình thành vốn cố định. Loại tín dụng này được thực hiện dưới hình thức cho vay trung và dài hạn. Tín dụng vốn cố định thường được cấp phát phục vụ việc đầu tư mua sắm tài sản cố định, cải tiến và đổi mới kĩ thuật, mở rộng sản xuất, xây dựng các xí nghiệp và công trình mới.
2.2.3.2. Căn cứ vào mục đích sử dụng vốn tín dụng
Theo tiêu thức này tín dụng được chia làm hai loại
- Tín dụng sản xuất và lưu thông hàng hóa: là loại tín dụng cung cấp cho các nhà doanh nghiệp, hộ gia đình, cá nhân để tiến hành sản xuất và kinh doanh.
- Tín dụng tiêu dùng: là hình thức tín dụng cấp phát cho cá nhân để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng.
2.2.4. Một số vấn đề trong hoạt động tín dụng của ngân hàng
2.2.4.1. Các nguyên tắc của tín dụng
- Tiền vay phải được sử dụng đúng mục đích đã thỏa thuận trên hợp đồng tín dụng: Nguyên tắc này nhằm đảm bảo tính hiệu quả của sử dụng vốn vay tạo điều kiện thực hiện tốt việc hoàn trả nợ vay của khách hàng. Để thực hiện tốt điều này, mỗi lần vay vốn khách hàng làm giấy đề nghị vay vốn, trong giấy này khách hàng phải ghi rõ mục đích sử dụng vốn vay của mình và kèm theo phương án sản xuất