Luận văn Tình thái giảm nhẹ trong diễn ngôn Tiếng Việt

Có thể nói vấn đề tình thái trong ngôn ngữ không phải là mới. Từ triết học Hy Lạp cổ đại, khái niệm tình thái của logic học được hình thành dựa trên tính hiện thực (reality), tính tất yếu (necessity) và tính khả hữu (possibility) được phản ảnh trong ngôn ngữ tự nhiên với muôn vàn sắc thái đa dạng. Khi sử dụng ngôn ngữ để diễn đạt về thế giới thực tại, người ta không thể không lưu ý đến mối quan hệ giữa cách con người diễn đạt về thế giới và chính bản thân thế giới đó. Theo nghĩa rộng, có thể hiểu nói về tình thái là nói về cách mà con người diễn đạt khác nhau về thế giới. Hơn nữa một trong hai chức năng cơ bản của ngôn ngữ là giao tiếp xã hội. Trong quá trình giao tiếp, hoạt động trao đổi giữa người nói và người nghe là hoạt động được tiến hành từ cả hai phía. Trong mỗi câu nói của người này hay người kia ngoài nội dung nghĩa biểu hiện, tức nghĩa biểu thị sự tình trong thế giới khách quan, còn có một nội dung nghĩa biểu thị mối quan hệ giữa sự tình với thế giới khách quan hoặc thái độ của người nói. Nội dung đó, ta gọi là tình thái của câu. Charles Bally đã cho rằng tính tình thái là linh hồn của câu. Không thể tạo ra ý nghĩa lời nói nếu trong lời nói ấy ta không tìm thấy một biểu hiện nào đó của tính tình thái

pdf146 trang | Chia sẻ: duongneo | Lượt xem: 3385 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Tình thái giảm nhẹ trong diễn ngôn Tiếng Việt, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH ____________________ TRẦN THỊ HUỆ TÌNH THÁI GIẢM NHẸ TRONG DIỄN NGÔN TIẾNG VIỆT Chuyên ngành: Ngôn ngữ học Mã số: 60 22 01 LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS DƯ NGỌC NGÂN Thành phố Hồ Chí Minh – 2010 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực và chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công trình nghiên cứu nào khác. Tác giả luận văn Trần Thị Huệ LỜI CẢM ƠN Luận văn được hoàn thành dưới sự hướng dẫn tận tình của PGS.TS Dư Ngọc Ngân. Tôi xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến Cô. Tôi cũng xin chân thành cảm ơn phòng Khoa học – Công nghệ sau Đại học, Thư viện trường Đại học Sư phạm TP.HCM, Thư viện tổng hợp TP.HCM, Thư viện Đại học Khoa học xã hội và nhân văn TP.HCM và đặc biệt là Quý thầy cô trong tổ Ngôn ngữ - khoa Ngữ văn Đại học Sư phạm TP.HCM cũng như Quý thầy cô giảng dạy tôi trong thời gian học Cao học đã tận tình giúp đỡ và đóng góp cho tôi những ý kiến quý báu. Đó chính là nền tảng giúp tôi hoàn thành luận văn này. Trần Thị Huệ QUY ƯỚC VIẾT TẮT 1. Hành động ngôn từ: HĐNT 2. Phân tích diễn ngôn: PTDN 3. Quán ngữ tình thái: QNTT 4. Tình thái giảm nhẹ: TTGN 5. Tiểu từ tình thái: TTTT MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài Có thể nói vấn đề tình thái trong ngôn ngữ không phải là mới. Từ triết học Hy Lạp cổ đại, khái niệm tình thái của logic học được hình thành dựa trên tính hiện thực (reality), tính tất yếu (necessity) và tính khả hữu (possibility) được phản ảnh trong ngôn ngữ tự nhiên với muôn vàn sắc thái đa dạng. Khi sử dụng ngôn ngữ để diễn đạt về thế giới thực tại, người ta không thể không lưu ý đến mối quan hệ giữa cách con người diễn đạt về thế giới và chính bản thân thế giới đó. Theo nghĩa rộng, có thể hiểu nói về tình thái là nói về cách mà con người diễn đạt khác nhau về thế giới. Hơn nữa một trong hai chức năng cơ bản của ngôn ngữ là giao tiếp xã hội. Trong quá trình giao tiếp, hoạt động trao đổi giữa người nói và người nghe là hoạt động được tiến hành từ cả hai phía. Trong mỗi câu nói của người này hay người kia ngoài nội dung nghĩa biểu hiện, tức nghĩa biểu thị sự tình trong thế giới khách quan, còn có một nội dung nghĩa biểu thị mối quan hệ giữa sự tình với thế giới khách quan hoặc thái độ của người nói. Nội dung đó, ta gọi là tình thái của câu. Charles Bally đã cho rằng tính tình thái là linh hồn của câu. Không thể tạo ra ý nghĩa lời nói nếu trong lời nói ấy ta không tìm thấy một biểu hiện nào đó của tính tình thái. Mặt khác vấn đề tình thái mà cụ thể là tình thái giảm nhẹ (TTGN) còn gắn liền với tính lịch sự trong giao tiếp, gắn với ngôn ngữ trong sự hành chức của nó. Không thể chỉ xem xét ngôn ngữ như một yếu tố tĩnh tại mà là một hoạt động mang tính liên cá nhân. Giao tiếp như thế nào để đạt được hiệu quả giao tiếp và hơn thế nữa làm thế giao tiếp phải thể hiện nét văn hóa, lịch sự là một điều quan trọng. Nắm bắt về TTGN mà cụ thể là việc nắm bắt hệ thống các phương tiện biểu thị TTGN sẽ góp phần giúp cho hoạt động giao tiếp đạt được những yêu cầu này. Về lĩnh vực tình thái trong tiếng Việt, từ những năm 40 với các tác giả Trần Trọng Kim, Phạm Duy Khiêm, Bùi Kỷ trong “Grammaire Annamite”, tình thái đã được chú ý đến khi các tác giả đề cập đến “thái độ của người nói”. Sau này, những nghiên cứu có tính chất khai phá và đi sâu hơn về tình thái đã xuất hiện với các tác giả như Hoàng Phê [64], [65]; Nguyễn Đức Dân [11]; Cao Xuân Hạo [23], [24], [25]. Rồi đến những chuyên khảo về tình thái cũng liên tục xuất hiện từ Phạm Hùng Việt [92]; Nguyễn Văn Hiệp [28], [29], [30], [31]; Phạm Thị Ly [51]; Nguyễn Thị Lương [48]; Nguyễn Thị Ngọc Hân [27]Các tác giả nghiên cứu nhiều phương diện của vấn đề tình thái như: nghĩa tình thái của từ; logic tình thái đến logic ngôn ngữ học; từ ngữ pháp chức năng đến ngữ dụng học và đặc trưng tình thái của từ, của câu; chuyên sâu hơn về đặc điểm chức năng của trợ từ tiếng Việt, về tiểu từ tình thái, vị từ tình tháiTuy nhiên, nghiên cứu về TTGN mà cụ thể hơn nghiên cứu chi tiết để hệ thống hóa các phương tiện diễn đạt TTGN trong diễn ngôn tiếng Việt vẫn còn bỏ ngỏ cho dù thực tế việc sử dụng các phương tiện biểu thị TTGN rất phổ biến trong diễn ngôn tiếng Việt Những vấn đề đã trình bày ở trên đã khuyến khích chúng tôi chọn đề tài “Tình thái giảm nhẹ trong diễn ngôn tiếng Việt” làm đề tài nghiên cứu của mình. Về mặt lí luận: Trên cơ sở kế thừa và phát triển các thành tựu đã có, khi nghiên cứu về TTGN và xây dựng được một hệ thống các phương tiện diễn đạt TTGN trong diễn ngôn tiếng Việt, chúng tôi hy vọng mang đến một cái nhìn sâu sắc và bao quát hơn về vấn đề tình thái trong ngôn ngữ nói chung, trong tiếng Việt nói riêng. Về mặt thực tiễn: Chúng tôi mong rằng luận văn sẽ góp phần trong việc ứng dụng cho việc giao tiếp và dạy tiếng. Giao tiếp sẽ đạt được hiệu quả tối ưu khi biết vận dụng những phương tiện tình thái trong đó có phương tiện TTGN. Việc dạy tiếng Việt cho người Việt cũng như cho người nước ngoài sẽ đơn giản hơn, hiệu quả hơn khi chúng ta giúp họ nhận biết và sử dụng một hệ thống phương tiện biểu thị tình thái nói chung TTGN nói riêng của tiếng Việt. Bởi nó là một trong những cơ sở để người nói tạo dựng phát ngôn cũng như để người nghe tiếp nhận và nắm bắt đúng ý định giao tiếp của người nói. 2. Lịch sử vấn đề Đối tượng nghiên cứu của luận văn là TTGN, các phương tiện biểu thị TTGN trong diễn ngôn tiếng Việt nhưng qua quá trình tổng hợp và tham khảo tài liệu chúng tôi nhận thấy những công trình nghiên cứu chuyên sâu về vấn đề trên còn rất hạn chế, có thể nói chỉ có một bài viết của tác giả Nguyễn Xuân Thơm [79] là đề cập đến TTGN nhưng giới hạn trong diễn ngôn đàm phán thương mại quốc tế. Bởi vậy, trong phần lịch sử vấn đề, chúng tôi sẽ điểm qua một số công trình nghiên cứu có tính chất nổi bật về vấn đề tình thái trong tiếng Việt nói chung, trong đó có những nghiên cứu đề cập đến một số vấn đề về phương tiện biểu thị tình thái. Về các tác giả nước ngoài: Các tác giả I. I. Glebova, V.M. Solntsev, Yu. Lekomtsev, Bystrov khi viết về ngữ pháp tiếng Việt (bằng tiếng Nga) đã có đề cập đến tiểu từ tình thái. Họ phân loại tiểu từ tình thái theo tiêu chí ngữ nghĩa như: tiểu từ có tính chất nghi vấn, tiểu từ nhấn mạnh, tiểu từ chỉ ra sự đối lập. Tuy nhiên họ xem tiểu từ tình thái như là một từ loại của tiếng Việt hơn là một phương tiện biểu thị tình thái [theo 51; 34]. Một tác giả nước ngoài khác cũng quan tâm đến ngữ pháp tiếng Việt, đó là V.S. Panfilov (2003). Trong chương VIII của cuốn sách “Cơ cấu ngữ pháp tiếng Việt” [62] (cũng viết bằng tiếng Nga do Nguyễn Thủy Minh dịch), ông đã trình bày về bán hư từ, trong đó có đề cập ngắn gọn đến từ tình thái. Ông cho rằng: “Lớp ngữ pháp này bao gồm những từ như: có lẽ, hình như, quả nhiên, đương nhiênNhững từ này được sử dụng với chức năng định ngữ của câu, thể hiện sự đánh giá đối với sự việc được nhắc tới trong câu, hoặc đối với chính phát ngôn như một hành động lời nói” [62; 277]. Như vậy, có thể thấy chưa có một tác giả nước ngoài nào nghiên cứu chuyên sâu về tình thái cũng như những phương tiện biểu thị ý nghĩa tình thái trong tiếng Việt. Về các tác giả trong nước: Có thể chia các công trình nghiên cứu có liên quan đến tình thái trong tiếng Việt thành hai nhóm: (1) Các tác giả không trực tiếp quan tâm đến vấn đề tình thái nhưng trong quá trình xử lí các vấn đề khác họ đã có ít nhiều đụng chạm đến một bộ phận vấn đề tình thái, như: Nguyễn Kim Thản (1977), Đái Xuân Ninh (1978), Lê Cận – Phan Thiều (1983), Bùi Tất Tươm (1997), Đinh Văn Đức (2001), Diệp Quang Ban (2008), Nguyễn Thiện Giáp (2008). (2) Các tác giả trực tiếp quan tâm đến vấn đề tình thái, họ nghiên cứu rất chi tiết và có nhiều kiến giải sâu sắc vấn đề tình thái trên nhiều phương diện khác nhau. Có thể kể đến những tên tuổi như: Hoàng Phê, Hồ Lê, Phan Mạnh Hùng, Nguyễn Đức Dân, Hoàng Tuệ, Phạm Hùng Việt, Huỳnh Văn Thông, Nguyễn Thị Lương, Cao Xuân Hạo, Nguyễn Văn Hiệp, Lê Đông, Nguyễn Xuân Thơm, Phạm Thị Ly, Nguyễn Minh Thuyết, Nguyễn Thị Ngọc Hân, Ngô Thị Minh, Võ Đại Quang. Chúng tôi sẽ trình bày chi tiết hơn về một số đóng góp của các tác giả nhóm 2 này. Có thể nói Hoàng Phê với bài viết “Phân tích ngữ nghĩa” (1975) [64], “Toán tử logic – tình thái” (1984) [65] và Hồ Lê (1979) với bài viết “Vấn đề logic ngữ nghĩa và tính thông tin trong lời nói” [44] đã gợi mở cho nhiều nghiên cứu về nghĩa tình thái xuất hiện sau này. Hoàng Phê (1984) đi sâu trong việc vận dụng logic của ngôn ngữ tự nhiên để phân tích ngữ nghĩa của một số từ thường dùng hoặc của những đơn vị mà ông gọi là “toán tử logic – tình thái” – phương tiện biểu thị tình thái. Ông cho rằng “nếu quan niệm toán tử trong ngôn ngữ là những đơn vị ngôn ngữ mà khi dùng tác động đến các đơn vị ngôn ngữ thuộc một cấp độ nào đó thì cho ta những đơn vị ngôn ngữ mới (thường là cùng cấp độ), thì có thể nói rằng có toán tử ở tất cả các cấp độ” [65; 5]. Như vậy có toán tử ở cấp độ ngữ âm như thanh điệu, cấp độ từ vựng, cấp độ cú pháp...“Về hình thức toán tử logic – tình thái có thể là một từ, một tổ hợp từ (có khi có hình thức câu) hoặc chỉ đơn giản là một ngữ điệu” [65; 7]. Cũng trong “Toán tử logic – tình thái”, ông phát biểu rằng “Con người sử dụng ngôn ngữ không chỉ nói về hiện thực, mà còn nói nhận thức, sự đánh giá, thái độ của mình, không những nói bằng hiển ngôn, mà còn dùng tiền giả định và nói bằng hàm ngôn. Tất cả những điều đó làm cho tương ứng với các kết tố mệnh đề, ngôn ngữ tự nhiên sử dụng một loạt những toán tử logic – tình thái có chức năng tạo ra những lời có yếu tố tình thái và có thể có cấu trúc ngữ nghĩa nhiều tầng (tiền giả định, hiển ngôn, hàm ngôn)” [65; 7]. Rõ ràng những công trình của Hoàng Phê nêu trên là những đóng góp quý báu cho việc nghiên cứu các phương tiện biểu thị tình thái nói chung, TTGN nói riêng. Sau này, Hồ Lê (1992), trong “Cú pháp tiếng Việt” [45], còn xem trật tự từ như là một trong những phương tiện diễn đạt ý nghĩa tình thái của tiếng Việt. Việc đảo trật tự, thay đổi cấu trúc của câu có thể thể hiện ý định của người nói nhằm tập trung vào điểm nhấn nào đó trong phát ngôn. Năm 1985, Phan Mạnh Hùng có bài viết “Các kiểu tổ hợp tiểu từ tình thái tiếng Việt và ranh giới từ” [36]. Tác giả đã có những nhìn nhận sâu hơn về tiểu từ tình thái tiếng Việt trong khung nghiên cứu từ loại như vị trí các tiểu từ trong hệ thống từ loại, khả năng các tiểu từ kết hợp với nhau. Cũng đi vào lĩnh vực phân tích ngữ nghĩa của lời nhưng ở góc độ của logic tình thái, Nguyễn Đức Dân (1987) đã có những công trình có tính chất quan trọng về logic tình thái. Trong “Logic – Ngữ nghĩa – Cú Pháp” [11], ông cho rằng: “Logic tình thái là một công cụ hữu hiệu để miêu tả và nghiên cứu ngôn ngữ tự nhiên. Và các ngôn ngữ tự nhiên cũng đặt ra hàng loạt vấn đề về tình thái logic” [11; 39]. Nguyễn Đức Dân đã có cái nhìn tổng quát về vấn đề tình thái như sau: “Tình thái là một vấn đề rất rộng và còn rất mông lung mà các nhà logic học, các nhà kí hiệu học và các nhà ngôn ngữ học quan tâm. Nhưng từ các cách tiếp cận khác nhau và các phương pháp khác nhau lại dẫn đến những kết quả gặp gỡ nhau” [11; 40]. Tác giả cũng nêu ra tính đa nghĩa của từ tình thái. Chỉ cần thay thế từ tình thái này bằng từ tình thái khác trong cùng một phát ngôn sẽ dẫn đến những cách hiểu khác nhau về phát ngôn đó (ví dụ từ có thể và từ phải). Và tác giả còn cho rằng điều đó là do các tác tử tình thái thuộc về hai lớp tình thái khác nhau: tình thái đạo nghĩa và tình thái nhận thức [11; 41]. Hoàng Tuệ (1988) với hai bài viết: “Nhận xét về thời, thể và tình thái trong tiếng Việt” [87; 729] và “Về khái niệm tình thái” [87; 734] in trong “Hoàng Tuệ tuyển tập Ngôn ngữ học” (2001) cho ta một cái nhìn khái quát về vấn đề tình thái trong tương quan đối chiếu với khái niệm thời, thể và tình thái trong ngôn ngữ Châu Âu. Tác giả cũng đề cập đến sự thể hiện ý nghĩa tình thái trong tiếng Việt. Luận án phó tiến sĩ của Phạm Hùng Việt năm 1996, sau này được xuất bản thành sách có tựa đề “Trợ từ trong tiếng Việt hiện đại” (2003) [92], đã đề cập đến chức năng cơ bản của những đơn vị mà ông gọi là “trợ từ câu”, “trợ từ bộ phận” trong tiếng Việt hiện đại. Cũng trong cuốn sách này, khi trình bày về phạm trù tính tình thái trong ngôn ngữ học ông đã đề cập đến các phương tiện biểu thị ý nghĩa tình thái. Ông cho rằng: “Cùng với sự phong phú của các ý nghĩa tình thái, các phương tiện dùng để biểu thị ý nghĩa tình thái cũng rất đa dạng” [92; 37]. Ông đã liệt kê một hệ thống các phương tiện như: ngữ âm (ngữ điệu, trọng âm), từ vựng (động từ tình thái, phụ từ, trợ từ, thán từ, quán ngữ tình thái), ngữ pháp (đảo trật tự từ, thay đổi cấu trúc câu...). Đặc biệt qua phân tích cách sử dụng của trợ từ tiếng Việt, tác giả đã cho rằng: “trợ từ tiếng Việt có khả năng tham gia biểu thị một số loại hành vi ngôn ngữ khác nhau gồm cả các hành vi ngôn ngữ chân thực và các hành vi ngôn ngữ gián tiếp” [92; 133]. Điều này chứng tỏ khả năng to lớn của trợ từ tiếng Việt trong việc tham gia biểu thị các ý nghĩa hàm ẩn của phát ngôn. Theo chúng tôi, các hành động ngôn từ (HĐNT) gián tiếp, cách biểu thị ý nghĩa hàm ẩn cũng có thể là phương tiện biểu thị ý nghĩa TTGN. Nghiên cứu chuyên sâu về vị từ tình thái là luận án tiến sĩ “Vị từ tình thái tiếng Việt” [80] của tác giả Huỳnh Văn Thông (1996). Sau này, tác giả còn có bài viết “Mấy nhận xét về vị từ tình thái và ý nghĩa thể trong tiếng Việt” (2000) [81] đã đề cập đến vấn đề tình thái mà cụ thể là vị từ tình thái ở nhiều mức độ và góc cạnh khác nhau. Nguyễn Thị Lương (1996) nghiên cứu chuyên sâu về “Tiểu từ tình thái dứt câu dùng để hỏi với việc biểu thị các hành vi ngôn ngữ trong tiếng Việt” [48] (gồm mười tiểu từ tình thái: à, ư, hả, sao, phỏng, chắc, chăng, chứ, nhỉ nhé). Luận án phó tiến sĩ này của tác giả đã “vận dụng lí thuyết hành vi ngôn ngữ vào việc nghiên cứu chuyên sâu mười tiểu từ tình thái dứt câu dùng để hỏi nhằm tìm ra các hành vi ngôn ngữ mà tiểu từ tình thái dứt câu có khả năng biểu thị trong những ngữ cảnh cụ thể mà chúng xuất hiện, miêu tả đánh giá hiệu lực của các hành vi đó” [48; 2]. Cũng như công trình nêu trên của tác giả Phạm Hùng Việt, trong phần cơ sở lí luận của luận án, tác giả Nguyễn Thị Lương đã nêu ra những phương tiện biểu thị ý nghĩa tình thái tương tự, bao gồm: phương tiện ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp. Tác giả xếp mười tiểu từ tình thái dứt câu dùng để hỏi nêu trên thuộc phương tiện từ vựng biểu thị ý nghĩa tình thái chủ quan. Đi sâu vào việc miêu tả những phương tiện của tiếng Việt trong việc diễn đạt ý nghĩa tình thái, Cao Xuân Hạo (1998), trong công trình “Tiếng Việt – Mấy vấn đề ngữ âm, ngữ pháp, ngữ nghĩa” [23], đã có những kiến giải và nhận xét hết sức sâu sắc về tiền giả định và hàm ý trong một số vị từ tình thái tiếng Việt. Sau này trong “Tiếng Việt: sơ thảo ngữ pháp chức năng” (2006) [25] một lần nữa ông trở lại vấn đề tình thái qua việc phân tích rất chi tiết về đề tình thái - siêu đề và thuyết tình thái – thuyết giả. Ông xem chúng như những phương tiện đặc thù của tiếng Việt trong việc diễn đạt ý nghĩa tình thái. Nguyễn Văn Hiệp (2001) nghiên cứu trọng tâm vào các tiểu từ tình thái cuối câu tiếng Việt. Trong “Về một khía cạnh phân tích tầm tác động tình thái” [29], tác giả nghiên cứu về những vấn đề như: điều kiện tình thái cuối câu xuất hiện, khả năng kết hợp của các tiểu từ tình thái cuối câu tiếng Việt. Một đóng góp quan trọng của Nguyễn Văn Hiệp là đã miêu tả và phân loại các tiểu từ tình thái cuối câu một cách rõ ràng. Bài viết “Hướng đến một cách miêu tả và phân loại các tiểu từ tình thái cuối câu tiếng Việt” [28] của ông đã góp phần làm nên cái nhìn toàn diện và sâu sắc hơn về lớp từ này. Và trong công trình chung Lê Đông – Nguyễn Văn Hiệp (2003) “Khái niệm tình thái trong ngôn ngữ học” [17], hai tác giả đã khái quát về khái niệm tình thái “góp phần làm rõ một số phương diện chính yếu của phạm trù tính tình thái trong ngôn ngữ cũng như những vấn đề có liên quan” [17; 63]. Không những thế, năm 2007, trong “Một số phạm trù tình thái chủ yếu trong ngôn ngữ” [30], Nguyễn Văn Hiệp một lần nữa đã “nêu ra một bức tranh đa góc cạnh về tình thái” [30; 27] khi đi vào phân tích một cách chi tiết và nêu ra một số đối lập chủ yếu của tình thái trong ngôn ngữ. Đến năm 2008, trong công trình “Cơ sở ngữ nghĩa phân tích cú pháp” [31], công trình mà trong đó Nguyễn Văn Hiệp đã tổng hợp lại nhiều vấn đề về tình thái, tác giả nhận định rõ vai trò của tình thái rằng: “Nếu không quan tâm đến các bình diện của tình thái, thì chúng ta sẽ không thể hiểu được bản chất của ngôn ngữ, với tư cách là công cụ con người dùng để phản ảnh thế giới trong hoạt động nhận thức và tương tác xã hội. Không có tình thái, nội dung được thể hiện trong câu nói chỉ là những mảnh nguyên liệu rời rạc.” [31; 74] Có thể nói bài viết đề cập trực tiếp nhất đến TTGN là bài viết “Các phương thức biểu thị tình thái giảm nhẹ trong diễn ngôn đàm phán thương mại quốc tế” [79] của Nguyễn Xuân Thơm (2002). Tác giả tập trung nghiên cứu về các phương thức biểu thị thái độ đối với người nghe trong diễn ngôn đàm phán tiếng Anh và tiếng Việt và đã đưa ra một số phương thức sau: sử dụng yếu tố đánh dấu lịch sự (please – xin), sử dụng nguồn lực ý nghĩa tích cực của từ, sử dụng nguồn lực các lượng từ hạn định, sử dụng nguồn lực từ tình thái. Bài viết này khá thú vị tuy nhiên nó chỉ giới hạn trong diễn ngôn đàm phán thương mại. Tác giả Phạm Thị Ly (2003) nghiên cứu theo hướng đối chiếu về phương tiện diễn đạt ý nghĩa tình thái, đó là “Đối chiếu một số phương tiện diễn đạt ý nghĩa tình thái trong tiếng Việt và tiếng Anh” [51]. Khi lấy tiếng Anh làm ngôn ngữ nguồn, tác giả đã đi vào phân tích, tìm hiểu thức của vị từ như một phương tiện đặc thù diễn đạt ý nghĩa tình thái của tiếng Anh để đối chiếu với những phương tiện diễn đạt ý nghĩa tương ứng của tiếng Việt. Và khi lấy tiếng Việt làm ngôn ngữ nguồn, tác giả chọn tiểu từ tình thái như một phương tiện quan trọng diễn đạt ý nghĩa tình thái của tiếng Việt mà tiếng Anh không có. Như vậy trọng tâm của luận án là đi vào nghiên cứu đối chiếu thức vị từ và tiểu từ tình thái mà thôi. Cũng trong luận án này, tác giả cho rằng “Tiếng Việt còn có một phương tiện hết sức đặc thù để diễn đạt ý nghĩa tình thái, đó là những yếu tố tình thái được xử lý như một phần đề hoặc như một phần thuyết của câu” [51; 77]. Đây chính là cái mà Cao Xuân Hạo gọi là siêu đề và thuyết giả như đã nêu trên. Công trình chung “Thành phần câu tiếng Việt” [83] của Nguyễn Minh Thuyết và Nguyễn Văn Hiệp (2004) đã dành hẳn một chương để trình bày về một thành phần phụ của câu: tình thái ngữ. Hai tác giả không chỉ trình bày khái niệm về tình thái ngữ mà còn phân biệt tình thái ngữ với các thành tố khác trong câu, phân loại tình thái thái ngữ và nêu ra điều kiện sử dụng của chúng trong câu. Cũng nghiên cứu theo hướng đối chiếu như tác giả Phạm Thị Ly, Nguyễn Thị Ngọc Hân (2005) đã có công trình nghiên cứu “Tiểu từ tình thái cuối câu trong hội thoại tiếng Việt (so sánh với tiếng Nhật) và việc giảng dạy nó cho người Nhật” [27]. Hai công trình của hai tác giả này có giá trị ứng dụng cao vào việc dạy tiếng cho người nước ngoài. Luận án đã khảo sát con đường chuyển nghĩa của các tiểu từ tình thái cuối câu, sự gắn kết chặt chẽ của chúng với phát ngôn, tình trạng niềm tin của người nói được thể hiện qua sự có mặt của chúng trong phát ngôn. Tác giả Ngô Thị Minh (2005) với bài viết “Bàn thêm một số phương tiện biểu hiện ý nghĩa tình thái trong ngôn ngữ hội thoại” [54], đăng trên tạp chí Ngôn ngữ và đời sống, đã cho rằng: “Ngôn ngữ hội thoại mang nhiều yếu tố tình thái và phương tiện biểu hiện loại ý nghĩa này cũng khá đa
Luận văn liên quan