Bất kỳ một doanh nghiệp nào muốn tồn tại và phát triển trong nền kinh tế th ị
trư ờng đều phải nắm bắt được các mặt tích cực của các qui luật kinh tế nh ư qui luật
cạnh tranh, qui luật cung cầu, qui luật giá trị . Tức là các doanh nghiệp đều cố
gắng tiết kiệm chi phí, hạ thấp giá thành sản phẩm, phấn đấu tăng lợi nhuận. Kế
toán c hi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm là phần hành kế toán đặc biệt quan
tr ọng. Với chức năng là ghi chép, tính toán, ph ản ánh và giám đốc một cách thường
xuyên liện tục vật t ư tiền vốn, kế toán sử dụng cả th ước đo giá trị và th ước đo hiện
vật để quản lý chi phí. B ởi vì thông qua khâu kế toán này, doanh nghiệp có thể so
sánh chi phí b ỏ vào sản xuất kinh doanh với doanh số thu được từ việc tiêu thụ sản
phẩm, từ đó xác định được hiệu quả sản xuất kinh doanh cao hay thấp. Có làm tốt
công tác này, kế toán mới có thể cung cấp những thông tin chính xác cho lãnh đạo
doanh nghiệp để lãnh đạo doanh nghiệp tìm ra những biện pháp, đường lối đúng đắn
trong th ực hiện định mức chi phí, thực hiện kế hoạch giá thành. Từ đó có những
quyết định quản lý thích hợp, chặt ch ẽ về chi phí sản xuất, tìm cách giảm tối thiểu
chi phí nhưng vẫn thu được lợi nhuận cao. Điều này chỉ có kế toán mới thực hiện
được vì đây là một công cụ quan trọng trong quản lý.
Trong cơ chế thị trường nếu biết tiết kiệm được chi phí sản xuất, giá thành s ản
phẩm hạ, trong khi chất l ượng sản phẩm không giảm thì uy tín của doanh nghiệp
càng được khẳng định. Nh ư vậy, kế toán tập hợp chi phí sản phẩm và tính giá thành
s ản phẩm là phần hành không thể thiếu được khi thực hiện chế độ hạch toán kinh tế
85 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 1855 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Tổ chức công tác kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm ở công ty liên hợp thực phẩm Hà Tây, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN:
Tổ chức công tác kế toán chi phí sản
xuất và tính giá thành sản phẩm tại
công ty liên hợp thực phẩm Hà Tây
Chương I
Lý luận chung về kế toán chi phí
sản xuất và tính giá thành sản phẩm trong doanh nghiệp
I. Sự cần thiết phải tổ chức công tác kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành
sản phẩm.
1. ý nghĩa của việc tổ chức công tác kế toán chi phí sản xuất và tính giá
thành sản phẩm trong doanh nghiệp.
Bất kỳ một doanh nghiệp nào muốn tồn tại và phát triển trong nền kinh tế thị
trường đều phải nắm bắt được các mặt tích cực của các qui luật kinh tế như qui luật
cạnh tranh, qui luật cung cầu, qui luật giá trị ... Tức là các doanh nghiệp đều cố
gắng tiết kiệm chi phí, hạ thấp giá thành sản phẩm, phấn đấu tăng lợi nhuận. Kế
toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm là phần hành kế toán đặc biệt quan
trọng. Với chức năng là ghi chép, tính toán, phản ánh và giám đốc một cách thường
xuyên liện tục vật tư tiền vốn, kế toán sử dụng cả thước đo giá trị và thước đo hiện
vật để quản lý chi phí. Bởi vì thông qua khâu kế toán này, doanh nghiệp có thể so
sánh chi phí bỏ vào sản xuất kinh doanh với doanh số thu được từ việc tiêu thụ sản
phẩm, từ đó xác định được hiệu quả sản xuất kinh doanh cao hay thấp. Có làm tốt
công tác này, kế toán mới có thể cung cấp những thông tin chính xác cho lãnh đạo
doanh nghiệp để lãnh đạo doanh nghiệp tìm ra những biện pháp, đường lối đúng đắn
trong thực hiện định mức chi phí, thực hiện kế hoạch giá thành. Từ đó có những
quyết định quản lý thích hợp, chặt chẽ về chi phí sản xuất, tìm cách giảm tối thiểu
chi phí nhưng vẫn thu được lợi nhuận cao. Điều này chỉ có kế toán mới thực hiện
được vì đây là một công cụ quan trọng trong quản lý.
Trong cơ chế thị trường nếu biết tiết kiệm được chi phí sản xuất, giá thành sản
phẩm hạ, trong khi chất lượng sản phẩm không giảm thì uy tín của doanh nghiệp
càng được khẳng định. Như vậy, kế toán tập hợp chi phí sản phẩm và tính giá thành
sản phẩm là phần hành không thể thiếu được khi thực hiện chế độ hạch toán kinh tế.
1.1. Vai trò của kế toán trong việc quản lý chi phí sản xuất và tính giá thành
sản phẩm.
Kế toán có vai trò rất quan trọng trong công tác quản lý chi phí sản xuất và tính giá
thành sản phẩm. Với chức năng ghi chép, tính toán, phản ánh trung thực, đày đủ với giám
đốc một cách thường xuyên liện tục sự biến động của vật tư, tài sản và tiền vốn, kế toán sử
dụng cả thước đo giá trị và thước đo hiện vật để quản lý chi phí, vì thế có thể cung cấp
những tài liệu cần thiết về các chi phí bỏ ra trong quá trình sản xuất kinh doanh. Từ đó đáp
ứng kịp thời nhu cầu quản lý chi phí đối với từng hoạt động, lao vụ dịch vụ, nhờ đó mà chủ
doanh nghiệp biết được tình hình sử dụng các yếu tố chi phí là tiết kiệm hay lãng phí khi so
sánh chi phí định mức với chi phí thực tế, từ đó đề ra các biện pháp thích hợp nhằm tiết
kiệm chi phí sản xuất, hạ giá thành sản phẩm và có quyết định phù hợp với sự phát triển sản
xuất kinh doanh và yêu cầu quản lý doanh nghiệp.
2. Bản chất, nội dung kinh tế của chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm.
2.1. Bản chất và chức năng của chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm.
Hoạt động sản xuất của các doanh nghiệp thực chất là quá trình bao gồm sự vận động
của các yếu tố đã bỏ ra và sự biến đổi chúng một cách có ý thức thành sản phẩm cuối cùng.
Vì vậy, quá trình sản xuất luôn là quá trình doanh nghiệp phải bỏ ra các chi phí sản xuất để
tạo ra sản phẩm. Để tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh, bất cứ một doanh nghiệp nào
cũng cần phải có đầy đủ ba yếu tố cơ bản là : Tư liệu sản xuất, đối tượng lao động và sức
lao động, tức là đều phải bỏ ra những chi phí về lao động sống và lao động vật hoá. Bởi thế,
sự hình thành lên các chi phí sản xuất để tạo ra giá trị sản phẩm sản xuất là tất yếu khách
quan chứ không phụ thuộc vào ý chí chủ quan của người sản xuất. Để có thể biết được số
chi phí mà doanh nghiệp đã chi ra trong từng thời kỳ hoạt động là bao nhiêu, nhằm tổng hợp
- tính toán các chỉ tiêu kinh tế, phục vụ cho yêu cầu quản lý, mọi chi phí chi ra cuối cùng
đều đựoc biểu hiện bằng tiền của toàn bộ hao phí (về lao động sống và lao động vật hoá) mà
doanh nghiệp tạo ra sản phẩm. Thực chất chi phí là sự chuyển dịch vốn - chuyển dịch giá trị
của yếu tố sản xuất vào đối tượng tính giá. Nghĩa là, chỉ được tính vào chi phí của kỳ hạch
toán những chi phí có liên quan đến khối lượng sản phẩm sản xuất ra trong kỳ chứ không
phải mọi khảon chi ra trong kỳ hạch toán.
Quá trình sản xuất của doanh nghiệp luôn bao gồm hai mặt : Một mặt doanh nghiệp
phải bỏ chi phí ra để sản xuất; mặt khác, kết quả của sản phẩm là các sản phẩm hoàn thành.
Do đó, chi phí sản xuất chính là cơ sở để hình thành lên sản phẩm và giá thành sản phẩm là
chi phí cho một đơn vị sản phẩm hoàn thành.
Vì vậy, bản chất của giá thành sản phẩm chính là lượng lao động hao phí về lao động
sống và lao động vật hoá kết tinh trong một đơn vị sản phẩm hoàn thành đựơc biểu hiện
bằng tiền.
*Giá thành có hai chức năng chủ yếu sau.
- Chức năng bù đắp chi phí : Giá thành là căn cứ, là mức tối thiểu để xác định khả
năng bù đắp chi phí mà doan nghiệp đã bỏ ra trong quá trình sản xuất và thực hiện giá trị
sản phẩm.
- Chức năng lập giá : Để bù đắp được chi phí đac bỏ ra, khi xác định giá bán của sản
phẩm phải căn cứ vào giá thành của nó.
Có thể thấy chi phí và giá thành được biểu hiện trên hai mặt định tính và định lượng.
+ Về mặt định tính : Thể hiện các yếu tố về mặt vật chất phát sinh và tiêu hao trong
quá trình sản xuất để tạo ra sản phẩm.
+ Về mặt định lượng : Thể hiện mức tiêu hao cụ thể của từng yếu tố vật chất trong quá
trình sản xuất - kinh doanh để cấu thành lên sản phẩm hoàn thành, biểu hiện bằng thước đo
giá trị.
2.2. Mối quan hệ giữa chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm
Giữa chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm có mối quan hệ chặt chẽ, biện chứng với
nhau trong quá trình sản xuất tạo ra sản phẩm. Chúng vừa là tiền đề, vừa là nguyên nhân kết
quả của nhau. Chi phí sản xuất biểu hiện mặt hao phí, còn giá thành biểu hiện mặt kết quả
của quá trình sản xuất. Đây là hai mặt thống nhất của một quá trình, vì vậy chúng giống
nhau ở bản chất là giá trị lao động trìu tượng, kết tinh thuộc các yếu tố cụ thể của quá trình
sản xuất. Song, giữa chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm lại không giống nhau về lượng,
sự khác nhau thể hiện ở các điểm sau :
- Chi phí sản xuất luôn gắn liền với một thời kỳ nhất định, còn giá thành sản phẩm gắn
liền với một loại sản phẩm, công việc, lao vụ nhất định.
- Chi phí sản xuất trong kỳ không liên quan đến những sản phẩm đã hoàn thành mà
còn liên quan đến cả sản phẩm đang còn dở dang cuối kỳ và sản phẩm hỏng. Còn giá thành
sản phẩm không liên quan đến chi phí sản xuất của sản phẩm dở dang cuối kỳ và sản phảm
hỏng nhưng lại liên quan đến chi phí sản xuất của sản phẩm dở dang kỳ trước chuyển sang.
- Chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm do nhiều yếu tố của quá trình sản xuất khác
nhau, do đó chúng có yêu cầu quản lý và biện pháp quản lý khác nhau. Do vậy, việc phân
loại chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm là cơ sở để thực hiện các biện pháp quản lý
quản lý chí phí có hiệu quả, vạch ra nhân tố cụ thể - giảm giá thành là cơ sở đầu tiên cho
hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm.
3. Phân loại chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm.
3.1. Phân loại chi phí sản xuất.
Theo kế toán tài chính, chi phí được biểu hiện là một số tiền hoặc là một phương tiện
mà doanh nghiệp hoặc một cá nhân bỏ ra để đạt đựoc mục đích nào đó. Bản chất của chi phí
là phải mất đi đề đổi lấy một sự thu về, có thể là dưới dạng vật chất có thể định lượng được
như số lượng sản phẩm, tiền … hoặc dưới dạng tinh thần, kiến thức, dịch vụ được phục vụ
…
Theo kế toán quản tri, khái niệm chi phí đựoc sử dụng theo chiều hướng sử dụng, vì
chi phí đựoc nhà quản trị sử dụng theo nhiều mục đích khác nhau. Do vậy, trong kế toán
quản trị chi phí được phân loại theo nhiều cách tuỳ theo mục đích sử dụng của nhà quản trị
trong từng quyết định.
Nhận định và hiểu rõ cách phân loại và ứng xử của từng loại chi phí là chìa khoá của
việc đưa ra những quyết định đúng đắn trong quá trình tổ chức điều hành hoạt động kinh
doanh của các nhà quản lý doanh nghiệp.
Phân loại chi phí rất có ý nghĩa với nhà quản trị doanh nghiệp, qua biện oháp quản lý
chi phí theo các hướng khác nhau, tìm ra các biện pháp quản lý chi phí có hiệu quả. Phân
loại chi phí sản xuất là việc sắp xếp chi phí sản xuất vào từng loại, từng nhóm khác nhau
theo những đặc trưng nhất định. Sau đây là một số cách phân loại chủ yếu :
3.2. Phân loại chi phí sản xuất theo nội dung, tính chất kinh tế của chi phí.
Căn cứ vào nội dung kinh tế và tính chất của chi phí sản xuất khác nhau để chia thành
các yếu tố chi phí, mỗi yếu tố chi phí có cùng một nội dung kinh tế không phân biệt chi phí
đó phát sinh từ lĩnh vực hoạt động sản xuất nào, ở đâu, mục đích và tác dụng của chi phí
như thế nào. Toàn bộ chi phí sản xuất phát sinh trong kỳ được chia ra làm các yếu tố chi phí
sau :
- Chi phí nguyên liệu, vật liệu : bao gồm toàn bộ các chi phí về các nguyên liệu, vật
liệu chính, vật liệu phụ, nhiên liệu, phụ tùng thay thế … mà doanh nghiệp đã dùng cho hoạt
động sản xuất trong kỳ.
- Chi phí nhân công: bao gồm toàn bộ số tiền công phaỉ trả, tiền trích các loại BHYT,
BHXH, KPCĐ của công nhân và nhân viên quản lý phân xưởng.
- Chi phí khấu hao tài sản cố định : Gồm toàn bộ số tiền trích khấu hao TSCĐ sử dụng
cho sản xuất của doanh nghiệp.
- Chi phí dịch vụ mua ngoài : Là toàn bộ số tiền mà doanh nghiệp chi trả cho các nhà
cung cấp về các dịch vụ mua ngoài như tiền điện, tiền nước, tiền điện thoại, Fax … phục vụ
cho hoạt động sản xuất của doanh nghiệp.
- Chi phí khác bằng tiền : Bao gồm toàn bộ số chi phí dùng cho hoạt động sản xuất
ngoài các yếu tố đã kể trên như chi phí tiếp khách, quản cáo, các loại thuế …
- Việc phân loại chi phí theo tiêu thức này có tác dụng thiết thực đối với công tác kế
toán cung như trong quản lý chi phí sản xuất, nó cho biết tỉ trọng của từng yếu tố chi phí
sản xuất để phân tích tình hình thực hiện dự toán chi phí sản xuất, làm tài liệu tham khảo để
lập dự toán chi phí sản xuất, lập kế hoạch cung cấp vật tư …
3.3. Phân loại chi phí sản xuất theo mục đích hoặc công dụng của chi phí.
Theo tiêu thức phân loại này, căn cứ và công dụng của chi phí sản xuất để chia ra các
khoản mục chi phí khác nhau, mỗi khoản mục chỉ bao gồm những chi phí có cùng mục đích
hoặc công dụng, không phân biệt chi phí đó có nội dung kinh tế như thế nào.
- Chi phí NVL trực tiếp : Là những chi phí về nguyên vật liệu chủ yếu tạo ra nên thực
thể của sản phẩm sản xuất
- Chi phí nhân công (Lao động) trực tiếp (CPNCTT) : Là những chi phí về tiền lương,
phụ cấp, các khoản trích theo lương của những người trực tiếp sản xuất ra sản phẩm,
CPNCTT được tính trực tiếp cho sản phẩm sản xuất ra.
- Chi phí sản xuất chung : chi phí này bao gồm toàn bộ những chi phí ở phân xưởng
sản xuất ra sản phẩm không phải là chi phí nguyên vật liệu và CPNCTT.
3.4. Phân loại chi phí theo mối quan hệ về khối lượng sản phẩm sản xuất.
Theo tiêu thức này, chi phí đựoc chia thành chi phí bất biến và chi phí khả biến.
- Chi phí khả biến : Là các khoản chi phí thay đổi cùng với sự thay đổi của số lượng
sản phẩm sản xuất ra. Trong thực tế, những chi phí thuộc về chi phí khả biến thường là chi
phí nguyên vật liệu trực tiếp, nhiên liệu, động lực, tiền lương công nhân trực tiếp sản xuất,
hoa hồng đại lý và các chi phí trực tiếp khác .. Chi phí khả biến tăng lên về tổng số khi số
lượng sản phẩm sản xuất ra tăng lên nhưng nếu tính cho một đơn vị sản phẩm thì chi phí
này gần như không đổi.
- Chi phí bất biến : Là những chi phí không thay đổi về tổng số lượng sản phẩm sản
xuất ra thay đổi trong một phạm vi nhất định. Những chi phí thuộc loại này thường là chi
phí khấu hao TSCĐ, tiền lương của bộ máy gián tiếp, tiền thuê nàh xưởng, máy móc …
- Chi phí hỗn hợp : Là chi phí bao gồm cả các yếu tố của chi phí khả biến và chi phí
bất biến. Thuộc chi phí này có các chi phí như : Chi phí điện thoại, Fax, chi phí sửa chữa
thường xuyên TSCĐ.
3.5. Các loại giá thành sản phẩm
Để đáp ứng yêu cầu của quản lý, kế toán và kế hoạch hoá giá thành cũng như yêu cầu
xây dựng giá bán hàng hoá, giá thành được xem xét dưới nhiều góc độ, phạm vi tính toán
khác nhau. Về lý luận cũng như thực tế các cách phân loại giá thành chủ yếu sau :
* Phân loại giá thành theo thời điểm và cơ sở số liệu tính giá thành. Theo tiêu thức này
gồm có các loại giá thành sau :
- Giá thành kế hoạch : Giá thành kế hoạch được xác định trước khi tiến hành quá trình
sản xuất sản phẩm. Giá thành kế hoạch sản phẩm được tính trên cơ sở chi phí sản xuất kế
hoạch và được xem là mục tiêu phấn đâú của doanh nghiệp, là cơ sở để phân tích, đánh giá
tình hình thực hiện kế hoạch giá thành, kế hoạch hạ giá thành sản phẩm của doanh nghiệp.
- Giá thành định mức : Là giá thành sản phẩm được tính trên cơ sở các định mức chi
phí hiện hành và chỉ tính cho đơn vị sản phẩm. Đây là một công cụ để doanh nghiệp có thể
quản lý đuợc định mức sản phẩm, xác định kết quả sử dụng tài sản, vật tư, tiền vốn ...
đánh giá chung những giải pháp kinh tế kỹ thuật mà doanh nghiệp đã thực hiện.
- Giá thành thực tế : Giá thành thực tế sản phẩm được tính dựa trên cơ sở số liệu chi
phí phát sinh và tập hợp thực tế trong kỳ vào sản lượng sản phẩm thực tế đã sản xuất ra
trong kỳ. Chỉ tiêu này chỉ được xác định khi sản phẩm, công việc, lao vụ được tiêu thụ, đây
là căn cứ để tính toán xác định lãi trước thuế lợi tức của doanh nghiệp.
* Phân loại giá thành theo phạm vi tính toán chi phí.
Theo tiêu thức này, giá thành được chia thành các loại sau :
- Giá thành sản xuất toàn bộ.
- Giá thành sản xuất theo biến phí.
- Giá thành sản xuất có phân bổ hợp lý chi phí cố định.
- Giá thành toàn bộ của sản phẩm tiêu thu.
4. Nội dung tổ chức công tác kế toán chi phí sản xuất.
4.1. Nguyên tắc kế toán chi phí sản xuất.
Trong công tác quản lý doanh nghiệp, chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm là
những chỉ tiêu kinh tế quan trọng luôn đuợc các nhà kinh doanh quan tâm vì chúng là những
chỉ tiêu phản ánh kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Phản ánh trung thực, hợp lý chi phí sản xuất có ý nghĩa rất lớn trong trong chi phí phát
sinh ở doanh nghiệp nói chung và ở từng bộ phận, từng đối tượng nói riêng, góp phần quản
lý tài sản, vật tư, lao động, tiền vốn tiết kiệm - có hiệu quả. Mặt khác, tạo điều kiện và đề
xuất biện pháp hạ giá thành sản phẩm, nâng cao chất lượng sản phẩm. Việc phân tích,
đánh giá đúng đắn kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh chỉ có thể dựa trên giá thành sản
phẩm chính xác. Mà tính chính xác của giá thành sản phẩm lại chịu ảnh hưởng của kết quả
tập hợp chi phí sản xuất. Do vậy, nguyên tắc cơ bản của việc hạch toán chi phí sản xuất là
tính đúng, tính đủ.
4.2. Đối tượng kế toán tập hợp chi phí sản xuất.
Chi phí sản xuất trong các doanh nghiệp sản xuất bao gồm nhiều loại với nội dung
kinh tế khác nhau, phát sinh ở những địa điểm khác nhau. Mục đích của việc bỏ chi phí là
tạo ra sản phẩm, lao vụ, dịch vụ. Những sản phẩm, lao vụ, dịch vụ của doanh nghiệp được
sản xuất, chế tạo, thực hiện ở các phân xưởng, bộ phận khác nhau, theo quy trình công nghệ
của doanh nghiệp. Do đó các chi phí phát sinh cần được tập hợp theo yếu tố, khoản mục chi
phí sản xuất thực chất là việc xác định những phạm vi, giới hạn mà chi phí sản xuất cần
được tập hợp.
Căn cứ để xác định đối tượng tạp hợp chi phí sản xuất trong các doanh nghiệp sản
xuất là :
- Dựa vào tính chất sản xuất và quy trình công nghệ sản xuất sản phẩm.
- Căn cứ vào đặc điểm cơ cấu tổ chức sản xuất trong doanh nghiệp.
- Căn cứ vào yêu cầu quản lý, trình độ quản lý của doanh nghiệp.
Nếu yêu cầu quản lý ngày càng cao, trình độ và khả năng quản lý của nhân viên tốt thì
đối tượng tập hợp chi phí cho sản xuất ngày càng chi tiết và ngược lại.
4.3. Hệ thống chứng từ ban đầu và tài khoản kế toán sử dụng.
* Tuỳ theo việc xác định đối tượng tập hợp chi phí sản xuất của doanh nghiệp, kế toán
trưởng tổ chức việc lập chứng từ hạch toán ban đầu cho từng đối tượng tập hợp chi phí. Đối
với chi phí NVL là các phiếu xuất - phiếu nhập kho. Đối với chi phí nhân công là các bảng
phân bổ tiền lương, bảng tính lương phải trả, đối với chi phí khấu hao TSCĐ là các bảng
phân bổ và trích khấu hao TSCĐ.
* Tài khoản kế toán sử dụng
- TK 621 - CPNVLTT
- ND : TK 621 dùng để tập hợp toàn bộ CPNVLTT sản xuất chế tạo sản phẩm phát
sinh trong kỳ.
- TK 622 - CPNVLTT
ND : TK này dùng để tập hợp và kết chuyển số chi phí về tiền lương công nhân trực
tiếp sản xuất vào TK có liên quan.
- TK 627 - CPSX : TK này dùng để tập hợp toàn bộ các chi phí mang tính chất chung,
liên quan đến việc phục vụ quản lý sản xuất trong các phân xưởng, bộ phận sản xuất.
TK 627 cuối kỳ không có số dư và được mở chi tiết theo từng đối tượng, từng hoạt
động, từng phân xưởng - bộ phận.
TK 627 mở thành 6 TK cấp 2.
+ TK 627.1 - Chi phí nhân viên phân xưởng.
+ TK 627.2 - Chi phí vật liệu.
..............
+ TK 627.4 - Chi phí khấu hao TSCĐ
...............
- TK 154 - CPSXKDDD :
Nội dung : TK này dùng để tập hợp toàn bộ các chi phí sản xuất trong kỳ liên quan
đến sản xuất, chế tạo sản phẩm, phục vụ cho việc tính giá thành sản phẩm. Ngoài ra, TK
154 còn phản ánh chi phí liên quan đến cả các hoạt động kinh doanh phụ, thuê ngoài gia
công tự chế. Đối với các doanh nghiệp kế toán hàng tồn khoa theo phương pháp kê khai
định kỳ, TK 154 chỉ dùng để phản ánh chi phí sản xuất KDDD cuối và đầu kỳ.
- TK 631 - giá thành sản phẩm :
Nội dung : TK này được dùng để tập hợp chi phí sản xuất trong doanh nghiệp kế toán
hàng tồn kho theo phương pháp kiểm kê dịnh kỳ.
4.4. Phương pháp kế toán tập hợp chi phí sản xuất
Có 2 phương pháp để tập hợp chi phí sản xuất :
- Phương pháp tập hợp trực tiếp : là Phương pháp tập hợp chi phí phát sinh trực tiếp
cho từng đối tượng tập hợp chi phí nguyên vật liệu trực tiếp. chi phí nhân công trực tiếp.
- Phương pháp tập hợp gián tiếp : Để phân bổ cho các đối tượng, kế toán cần phải xác
định tiêu thức phân bổ hợp lý, nó phải đảm bảo đựoc mối quan hệ tỉ lệ thuận giữa tổng số
chi phí cân phân bổ với tiêu thức phân bổ của các đối tượng.
Trình tự phân bổ được tiến hành như sau :
+ Xác định hệ số phân bổ (H)
Trong đó :
C : Tổng số chi phí cần phân bổ
Ti : Tiêu thức phân bổ thuộc đối tượng i
n : Đối tượng được phân bổ
+ Xác định hệ số phân bổ cho từng đối tượng
Ci = Ti x H
n
i
Ti
C
H
1
Trong đó Ci là chi phí phân bổ cho đối tượng i
Trường hợp phân bổ gián tiếp thì tiêu thức phân bổ có thể là định mức chi phí nguyên
vật liệu trực tiếp, cũng có thể là trọng lượng, khối lượng.
4.5. Trình tự kế toán tập hợp chi phí sản xuất.
4.5.1. Trình tự kế toán tập hợp chi phí sản xuất trong trường hợp doanh nghiệp kế
toán hàng tồn kho theo phương pháp kê khai thường xuyên.
* Tập hợp chi phí nguyên vật liệu trực tiếp.
Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp bao gồm những loại chi phí về các Nguyên vật liệu
chính nửa thành phẩm mua ngoài, vật liệu phụ, nhiên liệu ... dùng trực tiếp cho việc sản
xuất chế tạo sản phẩm.
Chi phí nguyên vật liệu có liên quan đến từng đối tượng tập hợp chi phí thì tổ chức tập
hợp theo phương pháp ghi trực tiếp, căn cứ vào các chứng từ xuất kho vật liệu và báo cáo sử
dụng vật liệu ở từng phân xưởng. Trường hợp liên quan đến nhiều đối tượng thì phải lựa
chọn tiêu chuẩn hợp lý để tiến hành phân bổ. Tiêu chuẩn phân bổ có thể là chi phí định
mức, chi phí kế hoạch, hay khối lượng sản phẩm sản xuất.
Để tập hợp chi phí nguyên vật liệu trực tiếp, kế toán sử dụng TK 621.
* Tập hợp chi phí nhân công trực tiếp.
Chi phí nhân công trực tiếp là những khoản chi p