Là một đơn vị sản xuất công nghiệp với chức năng tạo ra các sản phẩm xây dựng,
công ty xây dựng Sông Đà 2 đã không ngừng trưởng thành và đạt được những thành tựu
đáng kể, với lực lượng cán bộ công nhân viên hùng hậu , lành nghề, tâm huyết với nghề
nghiệp. có được những thành quả đó công ty cũng phải trải qua rất nhiều khó khăn từ
khi mới thành lập như : thiêú trang thiết bị thi công, phương tiện máy móc hiện đại,đội
ngũ nhân công lành nghề.
Để khắc phục khó khăn của những ngày mới thành lập, tồn tại và đứng vững được
trong cơ chế thị trường công ty đã nhanh chóng kiên toàn bộ máy tổ chức mua sắm trang
thiết bị thi công và đặc biệt có nhiều biện pháp đổi mới và hoàn thiện công tác hạch toán
kế toán nguyên vật liệu.
Với một đơn vị sản xuất, yếu tố cơ bản để đảm bảo quá trình sản xuất được tiến
hành bình thường đó là vật liệu công cu, dụng cụ. Cơ sở để tạo nên hình thái vật chất của
sản phẩm trong doanh nghiệp, chi phí về nguyên vật liệu thường chiếm tỷ trọng lớn trong
tổng chi phí để sản xuất ra sản phẩm, nó có tác động rất lớn đến hiệu quả của quá trình
sản xuất kinh doanh. Bởi vậy mà sau khi đã có một dây truyền sản xuất hiện đại, một lực
lượng lao động tốt thì vấn đề mà các doanh nghiệp công nghiệp công ty kinh doanh và
xây dựng phải quan tâm đến là việc quản lý chặt chẽ vật liệu từ khâu thu mua đến khâu
sử dụng mà kế toán lại là công cụ giữ vai trò quan trọng nhất.
Xuất phát từ lý do trên, em đã chọn dề tài “ Tổ chức công tác kế toán nguyên vật
liệu và tình hình quản lý sử dụng nguyên vật liệu tại công ty xây dựng Sông Đà số 2”.
Đề tài gồm 3 chương
Chương 1: Lý luận chung về tổ chức công tác kế toán nguyên vật liệu trong các doanh
nghiệp xây dựng
Chương 2: Thực trạng kế toán nguyên vật liệu ở công ty xây dựng Sông Đà 2.
Chương 3: Một số ý kiến đề xuất nhằm hoàn thiện công tác kế toán ở công ty xây
dựng Sông Đà 2.
82 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 1960 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Tổ chức công tác kế toán nguyên vật liệu và tình hình quản lý sử dụng nguyên vật liệu tại công ty xây dựng Sông Đà số 2, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN:
Tổ chức công tác kế toán nguyên vật liệu
và tình hình quản lý sử dụng nguyên vật
liệu tại công ty xây dựng Sông Đà số 2
Lời nói đầu
Cơ
chế thị trường và quy luật khắt khe của nó buộc các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh
muốn tồn tại và phát triển phải không ngừng đổi mới và hoàn thiện công tác kế toán.
Trong đó việc xác định các yếu tố đầu vào hợp lý sao cho kết quả đầu ra cao nhất với giá
cả và chất lượng sản phẩm có sức hút đối với người tiêu dùng là vấn đề quan tâm hàng
đầu của các nhà quản lý.
Là một đơn vị sản xuất công nghiệp với chức năng tạo ra các sản phẩm xây dựng,
công ty xây dựng Sông Đà 2 đã không ngừng trưởng thành và đạt được những thành tựu
đáng kể, với lực lượng cán bộ công nhân viên hùng hậu , lành nghề, tâm huyết với nghề
nghiệp..... có được những thành quả đó công ty cũng phải trải qua rất nhiều khó khăn từ
khi mới thành lập như : thiêú trang thiết bị thi công, phương tiện máy móc hiện đại,đội
ngũ nhân công lành nghề.
Để khắc phục khó khăn của những ngày mới thành lập, tồn tại và đứng vững được
trong cơ chế thị trường công ty đã nhanh chóng kiên toàn bộ máy tổ chức mua sắm trang
thiết bị thi công và đặc biệt có nhiều biện pháp đổi mới và hoàn thiện công tác hạch toán
kế toán nguyên vật liệu.
Với một đơn vị sản xuất, yếu tố cơ bản để đảm bảo quá trình sản xuất được tiến
hành bình thường đó là vật liệu công cu, dụng cụ. Cơ sở để tạo nên hình thái vật chất của
sản phẩm trong doanh nghiệp, chi phí về nguyên vật liệu thường chiếm tỷ trọng lớn trong
tổng chi phí để sản xuất ra sản phẩm, nó có tác động rất lớn đến hiệu quả của quá trình
sản xuất kinh doanh. Bởi vậy mà sau khi đã có một dây truyền sản xuất hiện đại, một lực
lượng lao động tốt thì vấn đề mà các doanh nghiệp công nghiệp công ty kinh doanh và
xây dựng phải quan tâm đến là việc quản lý chặt chẽ vật liệu từ khâu thu mua đến khâu
sử dụng mà kế toán lại là công cụ giữ vai trò quan trọng nhất.
Xuất phát từ lý do trên, em đã chọn dề tài “ Tổ chức công tác kế toán nguyên vật
liệu và tình hình quản lý sử dụng nguyên vật liệu tại công ty xây dựng Sông Đà số 2”.
Đề tài gồm 3 chương
Chương 1: Lý luận chung về tổ chức công tác kế toán nguyên vật liệu trong các doanh
nghiệp xây dựng
Chương 2: Thực trạng kế toán nguyên vật liệu ở công ty xây dựng Sông Đà 2.
Chương 3: Một số ý kiến đề xuất nhằm hoàn thiện công tác kế toán ở công ty xây
dựng Sông Đà 2.
Chương I
Một số vấn đề lý luận chung về công tác kế toán nguyên vật liệu ở các doanh
nghiệp sản suất.
I. Khái quát chung về đặc điểm của nghành xây dựng cơ bản.
Xây dựng cơ bản là ngành sản suất vật chất có vị chí hết sức quan trọng trong
nghành kinh tế quốc dân. Xây dựng cơ bản là quá trình xây dựng mới, xây dựng lại , cải
tạo , hiện đại hoá khôi phục các công trình nhà máy , xí nghiệp , đường xá , cầu cống ,
nhà cửa……… nhằm phục vụ cho sản suất và đời sống xã hội. Đây còn là ngành sản xuất
vật chất đặc biệt ở chỗ nó có chức năng tái sản xuất tài sản cố định cho tất cả các nghành
trong nền kinh tế quốc dân. So với các nghành kinh tế quốc dân khác xây dựng cơ bản có
những đặc điểm kỹ thuật đặc trưng , thể hiện rõ nét ở vật liệu xây dựng, sản phẩm xăy lắp
và quá trình tạo ra sản phẩm của nghành.
Sản phẩm xây dựng cơ bản cũng được tiến hành sản xuất một cách liên tục từ khâu
thăm dò, điều tra khảo sát đến thiết kế thi công và quyết toán công trình khi hoàn thành.
Sản phẩm XDCB là những công trình phục vụ cho sản xuất hoặc dân dụng , chúng được
gắn liền trên một địa đIểm nhất định như: đát đai, mặt nước , mặt biển và thềm lục địa nó
được tạo thành từ vật liệu xây dựng, nhân công và máy móc thiết bị . Đặc điểm của sản
phẩm xây dựng là có qui mô, kết cấu phức tạp , thời gian thi công tương đối dài , và có
giá trị lớn, khối lượng công trình lớn. Hơn nữa sản phẩm XDCB mang tính cố định nơi
sản xuất. Sản phẩm sau khi hoàn thành cũng là nơi tiêu thụ hoặc đưa vào hoặt động. Sản
phẩm xây dựng đa dạng nhưng mang tính chất đơn chiếc, một công trình xây dựng được
thiết kế kỹ thuật riêng tại một thời điểm nhất định. Quá trình khởi công xây dựng cho đến
khi công trình bàn giao được đưa vào sử dụng thường là thời gian dài bởi vì nó phụ thuộc
vào quy mô , tính chất phức tạp về kỹ thuật của công trình.
Sản xuất cơ bản thường diển ra ngoài trời, chịu tác động trực tiếp bởi điều kiện
môi trường, thiên nhiên, thời tiết và do đó việc thi công xây lắp ở một mức độ nào đó
mang tính chất thời vụ. Do đặc điểm này, trong quá trình thi công cần tổ chức quản lý lao
động, vật tư chặt chẽ, đảm bảo thi công nhanh, đúng tiến độ khi điều kiện môi trường
thời tiết thuận lơi. Trong điều kiện thời tiết không thuận lợi sẽ ảnh hưởng đến chất lượng
thi công có thể sẽ phát sinh các khối lượng công trình phải phá đi làm lại và các thiết bị
thiệt hại phát sinh do ngừng sản suất. Doanh nghiệp cần có kế hoạch điều động cho phù
hợp nhằm tiết kiệm để hạ giá thành.
Do những đặc đIểm trên chúng ta cần phải xem xét những yếu tố tham gia cấu
thành nên sản phẩm xây dựng. Trong thời gian sản xuất thi công xây dựng để tạo ra sản
phẩm cần sử dụng rất nhiều yếu tố về vật tư và nhân lực . Việc lập kế hoạch XDCB cần
cân nhắc thận trọng , nêu rõ các yêu cầu về vật tư tiền vốn, nhân công thông thường trong
cấu tạo của sản phẩm xây dựng thì chi phí vật liệu chiếm tỷ trọng khá lớn nên yêu cầu đặt
ra phải sử dụng vật liệu tiết kiệm có hiệu quả. Một công cụ để giúp cho việc lập kế hoạch
được thuận tiện và chính xác để đảm bảo sử dụng vốn tiết kiệm đảm bảo chất lượng thi
công công trình đó là công tác kế toán mà cụ thể là kế toán nguyên vật liệu phục vụ cho
xây dựng cơ bản.
II.Sự cần thiết phải tổ chức công tác kế toán nguyên vật liệu trong doanh nghiệp
XDCB .
1.Khái niệm và đặc điểm của vật liệu.
- Khái niệm vật liệu.
Vật liệu là một trong những yếu tố cơ bản của quá trình sản xuất kinh doanh, tham
gia thường xuyên và trực tiếp vào quá trình sản xuất sản phẩm, ảnh hưởng trực tiếp đến
chất lượng của sản phẩm được sản xuất
Vật liệu là đối tượng lao động nên có các đặc điểm: tham gia vào một chu kỳ sản xuất
thay đổi hình dáng ban đầu. sau quá trình sử dụng và chuyển toàn bộ giá trị vào giá trị
sản phẩm sản xuất ra.
Trong các doanh nghiệp xây dựng cơ bản thì vật liệu cũng chính là đối tượng lao động.
Nó là một trong ba yếu tố cơ bản của quá trình sản suất, là cơ sở vật chất cấu thành nên
thực thể sản phẩm.
Do đó vật liệu sử dụng trong các nghành ,các doanh nghiệp xây lắp rất đa dạng,
phong phú về chủng loại phức tạp về kỹ thuật. Trong mỗi quá trình sản suất:về mặt hiện
vật: vật liệu chỉ tham gia vào một chu kỳ sản xuất vật liệu được tiêu dùng toàn bộ không
giữ nguyên hình thái ban đầu. Về mặt kỹ thuật: vật liệu là những tài sản vật chất tồn tại
dưới nhiều hình thái khác nhau: phức tạp về đặc tính lý hoá dễ bị tác động của thời tiết
khí hậu môi trường xung quanh. Vật liệu là đối tượng lao động nhưng không phải bất cứ
đối tượng lao động nào cũng là vật liệu, đối tượng lao động là vật liệu chỉ khi đối tượng
lao động được thay đổi do lao động có ích của con người.
2. Vị trí, vai trò của vật liệu.
Từ đặc điểm của vật liệu ta có thể thấy rõ vị trí quan trọng của vật liệu trong quá
trình sản xuất. Kế hoạch sản xuất sẽ bị ảnh hưởng lớn nếu việc cung cấp vật liệu không
đầy đủ kịp thời. Mặt khác chất lượng sản phẩm đảm bảo hay không là phụ thuộc chất
lượng vật liệu. Như đã đề cập ở trên , chi phí vật liệu thường chiếm tỷ trọng lớn trong
tổng giá thành nên do vậy cần phải tập chung quản lý vật liệu tốt ở các khâu thu mua , dự
trữ , bảo quản để có thể sử dụng vật liệu hợp lý tiết kiệm và có hiệu quả.
3. Yêu cầu quản lý nguyên vật liêu.
Nguyên vật liệu được nhập về doanh nghiệp từ nhiều nguồn khác nhau như nhập
khẩu , liên doanh liên kết, đối lưu vật tư………Nên việc quản lý vật liệu càng trở nên cần
thiết và quan trọng hơn. Yêu cầu đặt ra đối với việc quản lý vật liệu là:
_ở tất cả các khâu của quá trình sản xuất ngay từ khâu thu mua bảo quản , nhập
kho, hay xuất kho đêù phải sử dụng một cách hợp lý nhất.
_Trong khâu thu mua cần quản lý về mặt số lượng, khối lượng, đơn giá chủng loại
để làm sao đạt được chi phí vật liệu ở mức thấp nhất với sản lượng, chất lượng sản phẩm
cao nhất.
_Đối với khâu bảo quản cần phải đảm bảo đúng chế độ quy định phù hợp với từng
tính chất lý hoá của mỗi loại nguyên vật liệu. Tránh tình trạng sử dụng nguyên vật liêu
kém chất lượng do khâu bảo quản không tốt.
_Đối với khâu dự trữ : đảm bảo dự trữ một lượng nhất định vừa đủ để quá trình sản
xuất không bị gián đoạn, nghĩa là phaỉ dự trữ sao cho không vượt quá mức dự trữ tối đa,
đảm bảo cho quá trình sản xuất thường xuyên liên tục tránh tình trạng ngưng trệ sản xuất
vì thiếu nguyên vật liệu.
_Cuối cùng là khâu sử dụng : cần thực hiện theo đúng các dịnh mức tiêu hao theo
bảng định mức sao cho việc sử dụng đó là hợp lý tiết kiệm và có hiệu qủa nhất.
4. Nhiệm vụ của kế toán nguyên vật liệu
Để góp phần nâng cao chất lượng và hiệu quả quản lý vật liệu. Với công tác kiểm
tra tình hình thực hiện các chỉ tiêu kế hoạch về mua vật liệu là việc thực hiện chức năng
giám đốc, là công cụ quản lý kinh tế. Kế toán vật liệu cần thực hiện tốt các yêu cầu sau:
_Tổ chức ghi chép, phản ánh tổng hợp về tình hình mua , vận chuyển , bảo quản,
tình hình nhập xuất và tồn kho vật liệu. Tính toán đúng đắn trị gía vốn thực tế vật liệu đã
thu mua và nhập kho, kiểm tra tình hình thực hiện kế hoạch thu mua vật tư về các mặt số
lượng, chủng loại, giá cả thời hạn nhằm đảm bảo cung cấp đầy đủ , kịp thời đúng chủng
loại cho qúa trình sản xuất kinh doanh.
_áp dụng đúng đắn các phương pháp hạch toán vật liệu, hướng dẫn các bộ phận
đơn vị trong doanh nghiệp thực hiện đúng chế độ hạch toán ban đàu về vật tư mở sổ kho,
thẻ kho, kế toán chi tiết đúng chế độ, đúng phương pháp quy định nhằm đảm bảo sự
thống nhất trong công tác kế toán , tạo điều kiện thuận lợi cho công tác lãnh đạo, chỉ đạo
công tác kế toán trong phạm vi nghành kinh tế và toàn bộ nền kinh tế quốc dân.
_Kiểm tra việc chấp hành chế độ bảo quản dự trữ và sử dụng vật tư, phát hiện
ngăn ngừa và đề xuất các biện pháp xử lý vật tư thừa thiếu ứ đọng, kém hoặc mất phẩm
chất. Tính toán chính xác số lượng và giá trị vật liệu thực tế đưa vào sử dụng.
5. Những nội dung chủ yếu về hạch toán vật liệu.
Để hạch toán vật liệu được thuận tiện thì kế toán phải thực nhiện như sau:
- Phân loại và lập bảng danh điểm vật liệu.
- Xây dựng các nội quy , quy chế trong bảo quản sử dụng vật liệu tối đa, tối thiểu
các định mức sử dụng vật tư cũng như các dịnh mức hao hụt hợp lý trong vận chuyển và
bảo quản.
- Tổ chức vận dụng các tài khoản kế toán và hệ thống sổ kế toán một cách khoa
học và hợp lý.
- Tổ chức phân tích tình hình vật tư và tổ chức công tác kiểm kê và kiểm tra và lập
báo cáo về tình hình nhập –xuất –tồn vật tư.
III.Phân loại và đánh giá vật liệu.
1.Phân loại vật liệu.
Đối với mỗi doanh nhiệp , do tính chất đặc thù trong sản xuất kinh doanh nên sử
dụng các loại vật liệu khác nhau. Tuỳ thuộc vào đặc điểm sản xuất của mỗi doanh nghiệp
mà nguyên vật liệu của nó có những nét riêng . Chẳng hạn như đối với doanh nghiệp
công nghiệp nguyên vật liệu gồm : vật liệu chính vật liệu phụ .....Đối với doanh nghiệp
xây lắp nguyên vật liệu gồm :xi măng , gạch , đá , vôi, cát , sỏi....Đối với doanh nghiệp
nông nghiệp thì nguyên vật liệu gồm: hạt giống , phân bón , thuốc trừ sâu....Phân loại vật
liệu là việc sắp xếp vật liệu có cùng tiêu thức nào đó vào một loại, ta dựa vào từng nội
dung, tính chất thương phẩm của chúng nhằm phục vụ cho nhu cầu quản lý sử dụng của
doanh nghiệp.Có các cách phân loại sau đây.
1.1.Căn cứ vào nội dung kinh tế và yêu cầu của kế toán quản trị nguyên vật liệu
được chia thành:
- Nguyên vật liệu chính (bao gồm cả nửa thành phẩm mua vào ). Nguyên vật liệu
chính là đối tượng lao động chủ yếu trong doanh nghiệp để hình thành nên thực thể sản
phẩm mới. Trong doanh nghiệp khác nhau thì nguyên vật liệu chính cũng khác nhau. Ví
dụ sợi vải trong ngành dệt may, tôm cua cá trong nghành chế biến thuỷ hải sản....
- Vật liệu phụ : là các loại vật liệu được sử dụng để làm tăng chất lượng sản phẩm
hoàn chỉnh sản phẩm hoặc phục vụ cho công tác quản lý sản xuất bao gói sản phẩm như
thốc nhuộm , sơn, dầu......
- Nhiên liệu được sử dụng phục phụ cho công nghiệp sản xuất sản phẩm, cho
phương tiện vận tải, máy móc hoạt động trong quá trình sản xuất kinh doanh như: xăng
,dầu , khí ga......
- Phụ tùng thay thế: bao gồm các loại phụ tùng chi tiết được sử dụng để thay thế sửa
chữa những máy móc , thiết bị sản xuất phương tiện vận tải..
- Thiết bị xây dựng cơ bản bao gồm: những thiết bị cần lắp và thiết bị không cần
lắp, công cụ , khí cụ, vật kết cấu....dùng cho công tác xây lắp xây dựng cơ bản
- Vật liệu khác: là vật liệu không được vào các loại vật liệu kể trên, các loại vật liệu
này do quá trình sản xuất loại ra, phế liệu thu hồi từ thanh lý tài sản cố định.
Cũng cần lưu ý rằng trong cách phân loại này có những trường hợp loại vật liệu có
thể là vật liệu phụ ở doanh nghiệp này nhưng lại là vật liệu chính ở doanh nghiệp khác.
1.2 Phân loại vật liệu căn cứ vào mục đích sử dụng
- Vật liệu dùng trực tiếp cho sản xuất sản phẩm.
- Vật liệu dùng cho nhu cầu khác như: dùng trong quản lý , phục vụ cho nhu cầu xử
lý thông tin.
1.3. Phân loại vật liệu căn cứ vào nguồn hình thành.
- Vật liệu tự sản xuất gia công chế biến của doanh nghiệp
- Vật liệu mua ngoài
- Vật liệu nhận góp vốn liên doanh
Dựa trên các cách phân loại trên và để phục vụ cho yêu cầu quản lý và hạch toán
vật liệu , người ta thường lập sổ danh điểm vật liệu trong đó vật liệu được chia thành từng
nhóm, từng thứ vật liệu. Tuỳ theo số lượng số nhóm vật liệu để lập số hiệu tài khoản cấp
2,3 hoặc 4....
2.Đánh giá vật liệu
Đánh giá vật liệu có ý nghĩa quan trọng trong việc hạch toán đúng đắn tình hình tài
sản cũng như chi phí sản xuất kinh doanh. Đánh giá vật liệu là dùng thước đo tiền tệ để
biểu hiện giá trị của vật liệu thực tế, tức là toàn bộ số tiền mà doanh nghiệp bỏ ra để có
được số vật tư hàng hoá đó.
Tính giá vật liệu phụ thuộc vào phương pháp quản lý và hạch toán vật liệu đó là
phương pháp kê khai thường xuyên, phương pháp kiểm kê định kỳ.
- Phương pháp kê khai thường xuyên là phương pháp được áp dụng phổ biến hiện
nay. Đặc điểm của phươpng pháp này là mội nghiệp vụ nhập xuất vật liệu đều được kế
toán theo dõi, tính toán và ghi chép một cách thường xuyên theo quá trình phát sinh.
- Phương pháp kiểm kê định kỳcó đặc điểm là trong kỳ, kế toán chỉ theo dõi tính
toán và ghi chép các nghiệp vụ nhập vật liệu còn giá trị vật liệu xuất chỉ được xác định
một lần vào cuối kỳ khi có kết quả kiểm kê vật liệu hiện còn cuối kỳ.
Trị giá vật liệu xuất trong kỳ = Trị giá vật liệu tồn đầu kỳ
+Trị giá vật liệu nhập trong kỳ
-Trị giá vật liệu hiện còn cuối kỳ
2.1 Đánh giá vật liệu theo giá mua thực tế
*Giá thực tế vật liệu nhập kho.
- Đôí với vật liệu mua ngoài có hai trường hợp:
+Doanh nghiệp nộp thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ thì trị giá mua
thực tế là số tiền ghi trên hoá đơn không kể thuế GTGT trừ đi các khoản triết khấu, giảm
giá và khoản trả lại nếu có.
Như vậy yêu cầu của phương pháp này là: khi lập hoá đơn phải giữ đầy đủ , đúng
các yếu tố quy định và ghi rõ giá bán chưa có thuế kể cả phụ thu và phí ngoài giá bán nếu
có , thuế GTGT, tổng giá thanh toán.
Số thuế GTGT phải nộp được tính theo công thức:
Số thuế GTGTphải nộp = Thuế GTGTđầu ra – Thuế GTGTđầu vào.
Giá của hàng hoá Thuế suất thuế GTGT
dịch vụ chịu thuế của hàng hoá tương ứng.
+Doanh nghiệp nộp thuế GTGT theo phương pháp trực tiếp thì giá mua trên
hoá đơn là tổng giá thanh toán ( bao gồm cả thuế GTGT đầu vào).
Giá mua thực tế của vật liệu mua ngoài gia công chế biến bao gồm giá thực tế
của vật liệu chế biến , chi phí vận chuyển vật liệu đến nơi chế biến và từ nơi chế biến về
đơn vị. Tiền thuê ngoài gia công chế biến theo hợp đồng.
Đối với vật liệu nhận góp vốn liên doanh thì trị giá vốn góp thực tế nhập kho sẽ
do hội đồng liên doanh đánh giá.
Đối với phế liệu thu hồi có thể đánh giá theo giá ước tính hay còn gọi là giá tạm
tính.
*Giá thực tế vật liệu xuất kho.
Do vật liệu nhập kho từ nhiều nguồn có giá cả khác nhau vì vậy khi xuất kho cũng
có những phương pháp tính khác nhau. Đối với vật liệu xuất dùng trong kỳ tuỳ theo đặc
Thuế GTGT đầu
ra =
=
điểm hoạt động của từng doanh nghiệp, yêu cầu quản lý và trình độ nghiệp vụ của cán bộ
kế toán có thể sử dụng một trong các phương pháp sau theo nguyên tắc nhất quán tronh
hạch toán, phải giải thích rõ ràng khi có thay đổi.
- Phương pháp tính theo giá thực tế bình quân tồn kho đầu kỳ.
Đơn giá vật liệu tồn kho đầu kỳ = Trị gía vật liệu tồn kho đầu kỳ chia cho sản
lượng vật liệu tồn kho đầu kỳ.
Trị giá thực tế vật liệu xuất kho = Đơn gía bình quân của vật liệu tồn kho đầu kỳ
Số lượng vật liệu xuất kho trong kỳ.
Phương pháp này được áp dụng đói với doanh nghiệp có vật liệu tồn kho đầu kỳ
chiếm tỷ trọng lớn.
- Phương pháp tính gía thực tế bình quân gia quyền.
Trị giá thực tế vật liệu trị giá thực tế vật liệu
tồn kho đầu kỳ + nhập kho trong kỳ
Giá thực tế bình quân
một đơn vị vật liệu
Sản lượng vật liệu Sản lượng vật liệu
tồn kho đầu kỳ + nhập kho trong kỳ
Trị giá thực tế vật liệu Giá thực tế bình quân Số lượng vật liệu
tồn kho trong kỳ 1 đơn vị vật liệu nhập kho trong kỳ.
Đơn giá bình quân vật liệu có thể tính vào cuối kỳ hay tính vào sau mỗi lần nhập
được gọi là đơn giá bình quân liên hoàn.
- Phương pháp tính giá thực tế đích danh: Theo phương pháp này vật liệu được xác
định theo đơn chiếc hay từng lô và giữ nguyên lúc nhập cho đến khi xuất dùng . Khi xuất
vật liệu nào sẽ tính theo giá thực tế vật liệu đó.
Phương pháp này thường được sử dụng với các loại vật liệu có giá trị cao và có
tính tách biệt, chẳng hạn như các loại vàng bạc, đá quý , các chi tiết của ôtô xe máy... mà
có thể nhận diện được từng thứ , nhóm hoặc từng loại theo từng lần nhập kho.Khi xuất
=
x
kho thì giá xuất kho được căn cứ vào đơn giá thực tế vật liệu nhập kho theo từng lô hay
từng lần nhập.
- Phương pháp nhập trước xuất trước ( FIFO –Firts in firts out )
Theo phương pháp này giả thiết rằng số vật liệu nào nhập trước thì xuất trước,
xuất hết số nhập trước mới đến số nhập sau theo giá thực tế của từng số hàng xuất . Nói
cách khác , cơ sở của phương pháp này là giá thực tế của vật liệu mua trước sẽ được dùng
làm giá để tính giá thực tế vật liệu xuất trước và do vậy giá trị vật liệu tồn kho cuối kỳ sẽ
là giá thực tế của vật liệu mua vào sau cùng.
Phương pháp này thích hợp trong từng trường hợp giá cả ổn định hoặc có xu
hướng giảm.
- Phương pháp nhập sau xuất trước ( LIFO – Last in first out )
Phương pháp này ta phải xác định được đơn giá thực tế nhập kho của từng lần nhập.
Nhưng khi xuất sẽ căn cứ vào số lượng xuất và đơn giá thực tế nhập kho lần cuối hiện có
trong kho ,sau đó mới lần lượt theo các lần nhập trước để tính giá thực tế xuất kho. Ta
cũng giả định rằng những vật liệu mua sau cũng sẽ được xuất trước tiên. Và như vậy, giá
thực tế của vật liệu tồn kho cuối kỳ lại là giá thực tế vật liệu tính theo đơn giá của từng
lần nhập đầu kỳ.
Phương pháp này thích hợp trong thời kỳ lạm phát.
2.2 Đánh giá vật liệu theo giá hạch toán.
Ngoài giá thực tế được sử dụng để phản ánh tình hình nhập xuất vật liệu như nêu
trên doanh nghiệp còn có thể sử dụng giá hạch toán để phản ánh sự biến động của vật liệu
trong kỳ.
Giá hạch toán là giá được xác định trước ngay từ đầu kỳ kế toán và sử dụng liên
tục trong kỳ kế toán có thển lấy giá kế hoạch hoặc giá trước để làm giá hạch toán cho kỳ
này. Khi sử dụng giá hạch toán để phản ánh vật liệu thì cuối kỳ kế toán phải tính hệ số
c