Nghị quyết số 40/2000/QH10, ngày 09 tháng 12 năm 2000 của Quốc
hội khoá X về đổi mới chương trình giáo dục phổ thông đã khẳng định mục
tiêu của đổi mới chương trình giáo dục phổ thông lần này là “Xây dựng nội
dung chương trình, phương pháp giáo dục, sách giáo khoa phổ thông mới
nhằm nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện thế hệ trẻ, đáp ứng nhu cầu phát
triển nguồn nhân lực phục vụ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, phù
hợp với thực tiễn và truyền thống Việt Nam, tiếp cận trình độ giáo dục phổ
thông ở các nước phát triển trong khu vực và trên thế giới”.Văn bản đồng thời
yêu cầu “Đổi mới chương trình giáo dục phổ thông phải quán triệt mục tiêu,
yêu cầu về nội dung, phương pháp giáo dục của các bậc học, cấp học quy
định trong Luật Giáo dục; khắc phục vụ những mặt hạn chế của chương trình,
sách giáo khoa; tăng cường tính thực tiễn, kĩ năng thực hành, năng lực tự học;
coi trọng kiến thức khoa học xã hội và nhân văn;
219 trang |
Chia sẻ: duongneo | Lượt xem: 1442 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Tổ chức hoạt động dạy học - Hiểu tác phẩm tự sự Việt Nam theo đặc trưng loại thể trong chương trình Ngữ văn lớp 11, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH
Nguyễn Thị Yến Trinh
Chuyên ngành : Lí luận và phương pháp dạy học môn Văn
Mã số : 60 14 10
LUẬN VĂN THẠC SĨ GIÁO DỤC HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS. TS. TRẦN HỮU TÁ
Thành phố Hồ Chí Minh – 2008
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
GV : Giáo viên
HS : Học sinh
HĐ : Hoạt động
PPDH : Phương pháp dạy học
SGK : Sách giáo khoa
SGV : Sách giáo viên
STK : Sách tham khảo
CT : Chương trình
THPT : Trung học phổ thông
TPVH : Tác phẩm văn học
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
1.1. Từ yêu cầu đổi mới chương trình giáo dục phổ thông
Nghị quyết số 40/2000/QH10, ngày 09 tháng 12 năm 2000 của Quốc
hội khoá X về đổi mới chương trình giáo dục phổ thông đã khẳng định mục
tiêu của đổi mới chương trình giáo dục phổ thông lần này là “Xây dựng nội
dung chương trình, phương pháp giáo dục, sách giáo khoa phổ thông mới
nhằm nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện thế hệ trẻ, đáp ứng nhu cầu phát
triển nguồn nhân lực phục vụ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, phù
hợp với thực tiễn và truyền thống Việt Nam, tiếp cận trình độ giáo dục phổ
thông ở các nước phát triển trong khu vực và trên thế giới”.Văn bản đồng thời
yêu cầu “Đổi mới chương trình giáo dục phổ thông phải quán triệt mục tiêu,
yêu cầu về nội dung, phương pháp giáo dục của các bậc học, cấp học quy
định trong Luật Giáo dục; khắc phục vụ những mặt hạn chế của chương trình,
sách giáo khoa; tăng cường tính thực tiễn, kĩ năng thực hành, năng lực tự học;
coi trọng kiến thức khoa học xã hội và nhân văn; bổ sung những thành tựu
khoa học và công nghệ hiện đại phù hợp với khả năng tiếp thu của học sinh.
Bảo đảm sự thống nhất, kế thừa và phát triển của chương trình giáo dục ; tăng
cường tính liên thông giữa giáo dục phổ thông với giáo dục nghề nghiệp, giáo
dục đại học; thực hiện phân luồng trong hệ thống giáo dục quốc dân để tạo sự
cân đối về cơ cấu nguồn nhân lực; bảo đảm sự thống nhất về chuẩn kiến thức
và kĩ năng, có phương án vận dụng chương trình, sách giáo khoa phù hợp với
hoàn cảnh và điều kiện của các địa bàn khác nhau. Đổi mới nội dung chương
trình, sách giáo khoa, phương pháp dạy và học phải thực hiện đồng bộ với
việc nâng cấp và đổi mới trang thiết bị dạy học, tổ chức đánh giá, thi cử,
chuẩn hoá trường, Sở đào tạo, bồi dưỡng giáo viên và công tác quản lí giáo
dục”.
Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2001-2010 của nước ta
đã đề ra nhiệm vụ “ Khẩn trương biên soạn và đưa vào sử dụng ổn định trong
cả nước bộ chương trình và SGK phổ thông phù hợp với yêu cầu phát triển
mới” và chiến lược phát triển giáo dục năm 2001-2010 cũng đã cụ thể hoá
yêu cầu này.
Thủ tướng Chính phủ đã có chỉ thị số 14/2001/CT-TTg về việc đổi
mới chương trình giáo dục phổ thông, thực hiện Nghị quyết số 40/2000/QH10
của Quốc hội khoá X và Chỉ thị số 30/1998/CT-TTg về điều chỉnh chủ trương
phân ban ở phổ thông trung học và đào tạo hai giai đoạn ở đại học nêu rõ các
yêu cầu, công việc mà Bộ Giáo dục và Đào tạo và các cơ quan có liên quan
phải khẩn trương tiến hành.
1.2. Từ sự đổi mới cấu trúc và nội dung, mục tiêu, phương pháp
của môn Ngữ văn bậc THPT
Phần trên là những cơ sở pháp lí của việc đổi mới chương trình và SGK
bậc THPT. Bộ môn Ngữ văn trong nhà trường phổ thông cũng đổi mới mạnh
mẽ. Trước hết là sự thay đổi mạnh về quan niệm. Hai phương diện cơ bản mà
các môn học nói chung và môn Ngữ văn nói riêng là hướng tới trang bị cho
học sinh hệ thống kiến thức và kĩ năng. Hướng tới phương diện kiến thức, vấn
đề đặt ra là Dạy cái gì và học cái gì (nội dung). Về phương diện kĩ năng là
vấn đề Dạy như thế nào và học như thế nào? (phương pháp). Cả hai phương
diện trên đều quan trọng. Tuy nhiên dạy học hiện đại luôn đứng trước một
mâu thuẫn: một bên là yêu cầu cần truyền đạt một khối lượng tri thức khổng
lồ của nhân loại đang ngày một tăng lên, một bên là số lượng giờ học của học
sinh ngày càng ít đi do sự chi phối bởi nhiều nhu cầu của cuộc sống hiện đại.
Để giải quyết mâu thuẫn đó, càng ngày người ta càng chú ý tới phương diện
thứ hai. Tức là thông qua việc học cái gì mà hướng tới trang bị và cung cấp
cho học sinh cách học, phương pháp học để tự mình có thể “học suốt đời”.
Như vậy trong nhà trường phổ thông, dạy cái gì là vừa cung cấp tri thức tiêu
biểu để học sinh có vốn văn hoá phổ thông, vừa là những mẫu đại diện để
hình thành cho người học những phương pháp và cách thức thiết yếu.
Theo tinh thần trên, chương trình và sách giáo khoa Ngữ văn đã cung
cấp cho học sinh mỗi thể loại một vài tác phẩm thật tiêu biểu cho thể loại đó
(tính mẫu). Yêu cầu đặt ra là dạy một cách kĩ lưỡng để học sinh một mặt thấy
được vẻ đẹp cụ thể của tác phẩm ấy, mặt khác giúp học sinh biết cách đọc,
cách phân tích và tiếp nhận một tác phẩm văn học theo thể loại. Từ đó các em
có thể tự mình đọc, tìm hiểu và khám phá những tác phẩm tương tự. Kết quả
là, học sinh sẽ không còn lúng túng khi gặp những tác phẩm chưa được học
trên lớp, bởi vì những thể loại đó và cách tiếp cận nó thì đã được học kĩ càng.
Chính vì lí do đó mà việc nắm vững đặc trưng thể loại và lựa chọn phương
pháp giảng dạy cho phù hợp là yêu cầu cơ bản đối với người giáo viên dạy
văn
Ngoài việc đổi mới về cấu trúc và nội dung chương trình, một vấn đề
quan trọng đã và đang đặt ra cho giáo viên và học sinh đối với chương trình
Ngữ văn mới là sự đổi mới về mục tiêu và phương pháp.
Về mục tiêu:
- Cung cấp một hệ thống tri thức phổ thông, cơ bản, hiện đại, về văn
học dân tộc và văn học thế giới (trọng tâm là tri thức tác phẩm, về thể loại văn
học).
- Chú trọng mục tiêu bồi dưỡng, năng cao năng lực đọc – hiểu cho HS
(trong đó năng lực lí giải là quan trọng nhất)
- Thông qua quá trình đọc văn bản, phân tích văn bản, bồi dưỡng tư
tưởng, tình cảm cho học sinh (chú trọng bồi dưỡng lòng yêu nước, tinh thần
nhân văn, thị hiếu thẩm mĩ, phẩm chất văn hoá cá nhân, hình thành nhân cách
người lao động mới,...).
- Rèn luyện kĩ năng đọc cho HS. Kĩ năng đọc là hoạt động cơ bản,
thường xuyên trong bốn kĩ năng nghe, nói, đọc, viết. Từ kĩ năng đọc mà rèn
luyện các kĩ năng khác.
- Hình thành và phát triển ở HS năng lực ứng dụng những điều đã học
vào cuộc sống; phương pháp học tập, đặc biệt là phương pháp tự học.
Những vấn đề trình bày ở trên cho thấy người giáo viên trong thời đại
ngày nay không thể không đổi mới phương pháp dạy học. Trước những yêu
cầu mới của chương trình Ngữ văn bậc THPT, chúng tôi đã lựa chọn đề tài :
“Tổ chức hoạt động dạy đọc-hiểu tác phẩm tự sự Việt Nam theo đặc trưng
loại thể trong chương trình Ngữ văn lớp 11 “. Đề tài thực sự là một sự hứng
thú đối với chúng tôi vì nó đã chạm đến vấn đề cốt lõi nhất của việc đổi mới
dạy học văn từ mục tiêu, cấu trúc và nội dung chương trình đến phương pháp
dạy học. Xuất phát từ những lí do trên đây, chúng tôi thiết nghĩ việc nghiên
cứu đề tài trong tình hình hiện nay là cần thiết và hữu ích
2. Lịch sử vấn đề
2.1. Những công trình lí luận văn học và ứng dụng lí luận văn học
vào việc phân tích, bình giảng tác phẩm văn học
Có nhiều bài viết nghiên cứu bản chất các phạm trù lí luận tiếp nhận
văn học, lí luận dạy học, đổi mới phương pháp dạy học tác phẩm văn
chương Các công trình nghiên cứu này đã đưa ra những vấn đề lí luận cơ
bản có ý nghĩa quan trọng giúp người giáo viên Ngữ văn tiến tới nắm vững
những vấn đề như: mục đích của việc giảng dạy văn học trong nhà trường, các
phương pháp dạy văn học hiện đại, các phương hướng phân tích tác phẩm văn
học...
Trong Phương pháp giảng dạy văn học ở trường phổ thông (Ngọc
Toàn, Bùi Lê dịch),V.A. Nhicônxki đề cao sự sáng tạo của người giáo viên.
Ông cho rằng người giáo viên Ngữ văn là tác giả của bài học biết dung hòa
kết hợp phương pháp giảng dạy truyền thống và phương pháp giảng dạy mới.
Đối với học sinh, mỗi giờ học là một sự phát hiện mới. Cảm giác về cái mới
là nhân tố kích thích to lớn trong học tập. Nó cũng là nhân tố kích thích đối
với giáo viên, mặc dù bài học về đề tài nào đó giáo viên đã dạy mười lần hay
hai mươi lần.... Những giờ học bắt chước những người khác một cách máy
móc không suy nghĩ thường là những giờ học ít kết quả [53]. Tác giả đã trình
bày có hệ thống mục đích, nhiệm vụ, nội dung chương trình (trong nhà trường
nước Nga Xô Viết), các nguyên tắc, phương pháp và thủ thuật giảng dạy văn
học. Mặc dù được viết cách đây ba mươi năm nhưng những vấn đề về phương
pháp luận V.A.Nhicônxki đưa ra vẫn còn nguyên giá trị định hướng trong đổi
mới phương pháp dạy học Ngữ văn ở trường phổ thông ở nước ta hiện nay.
Cuốn sách Phương pháp luận dạy văn học do Z.Ia. Rez chủ biên (Phan
Thiều dịch) đã đưa ra nhiều phương pháp như: phương pháp tập đọc sáng
tạo, phương pháp gợi tìm, phương pháp nghiên cứu, phương pháp tái tạo, dạy
học nêu vấn đề,Và một số phương hướng phân tích tác phẩm văn học như:
phương hướng “bước theo tác giả”, phương hướng xem xét hệ thống hình
tượng, phương hướng phân tích nêu vấn đề [52] . Trong đó tác giả tập trung
nghiên cứu và đưa ra nhiều giải pháp của việc phân tích tác phẩm văn học
trong nhà trường - vấn đề cơ bản của việc giảng dạy bộ môn Ngữ văn. Tác
phẩm Lí luận dạy học đại cương của tác giả Nguyễn Ngọc Quang là công
trình nghiên cứu lí luận và thực nghiệm, từ đó phát hiện ra bản chất mới mẻ,
sâu sắc, phong phú của các phạm trù lí luận dạy học, các phương pháp giảng
dạy. Trong Văn học giáo dục thế kỉ XXI, Phan Trọng Luận đã thể hiện một
cái nhìn bao quát và trình bày có hệ thống về những đòi hỏi bức thiết của việc
đổi mới phương pháp giảng dạy của giáo dục Việt Nam. Ông viết: “ Bước vào
thế kỉ XXI, bài toán về phương pháp đào tạo và phương pháp dạy học cần
được tiến hành như một một cuộc cách mạng trong giáo dục. Trong khi trình
bày những vấn đề Chuyện quá tải học đường, Ứng dụng công nghệ thông tin
vào giảng dạy, Quan niệm về sách giáo khoa, Ông đã khắng định: “ Xét đến
cùng, chìa khoá vẫn nằm trong tay người giáo viên giỏi, biết làm chủ khối
lượng kiến thức cần có, làm chủ đối tượng mình đang giảng dạy và làm chủ
được mọi phương pháp sáng tạo [29] . Cuốn sách có nhiều chuyên đề thiết
thực cho người giáo viên dạy Ngữ văn như: Tiếp cận đồng bộ tác phẩm văn
chương trong nhà trường, Đổi mới phương pháp dạy học tác phẩm văn
chương, Ứng dụng dạy học nêu vấn đề vào giờ học tác phẩm văn chương ....
2.2. Những công trình nghiên cứu về phương pháp dạy học văn
theo loại thể
Các tác giả biên soạn tài liệu nghiên cứu về loại thể chia một cách quy ước
có ba loại thể văn học gồm: tự sự, trữ tình, kịch. Một số giáo trình, bài viết
vận dụng những kiến thức cơ bản về loại thể của Aristotes để phát triển thành
phương pháp luận giảng dạy văn học theo loại thể, phân tích ứng dụng các tác
phẩm được dạy trong nhà trường phổ thông. Những công trình này có ý nghĩa
quan trọng trong việc hệ thống, liên kết các vấn đề lí luận với thực tiễn dạy
học văn theo loại thể. Từ đó đề xuất một số hướng phân tích tác phẩm. Trong
Vấn đề giảng dạy văn học theo loại thể, Trần Thanh Đạm viết: Mỗi tác phẩm
văn học đều tồn tại dưới hình thức một loại thể nhất định, đòi hỏi một phương
pháp, một cách thức phân tích giảng dạy phù hợp với nó. Vì vậy, vấn đề loại
thể văn học trong thực tế giảng dạy ở trường phổ thông đặt ra không những
như một vấn đề tri thức mà chủ yếu còn là một vấn đề phương pháp[13] . Tác
phẩm này đã giới thiệu nhiều kiến thức cơ bản về các loại, thể văn học chủ
yếu có liên quan đến chương trình cấp III. Từ đó giới thiệu phương pháp vận
dụng đặc trưng các loại thể vào việc giảng dạy các tác phẩm trong chương
trình phổ thông. Cuốn sách vừa giải quyết được các vấn đề có tính chất quan
niệm vừa trình bày một số kinh nghiệm vận dụng cụ thể. Nhiều thế hệ thầy cô
giáo vẫn xem cuốn sách như một cẩm nang khi soạn giảng. Trong đó Trần
Thanh Đạm, với bài viết Truyện và giảng dạy truyện đã xác định: Truyện là
một khái niệm rộng bao gồm các thể tài chủ yếu thuộc loại hình tự sự....Một
tác phẩm tự sự (truyện) tất nhiên cũng giống như bất kì một tác phẩm nào
khác, đòi hỏi phải được phân tích toàn diện, cặn kẽ và đúng hướng. Điều đặc
biệt ở tác phẩm truyện là cấu tạo hình tượng tác phẩm dựa vào ba yếu tố:
tình tiết, nhân vật và lời kể. Cho nên khi phân tích cấu tạo hình tượng của
truyện, không thể không lưu tâm đến ba yếu tố đó. Đó cũng là nét phân biệt
cấu tạo một tác phẩm truyện với một bài thơ trữ tình hay một bài văn chính
luận. Các tác phẩm Phương pháp dạy học văn do Phan Trọng Luận chủ biên,
Phân tích tác phẩm văn học trong nhà trường của Phan Trọng Luận, Đổi
mới phương pháp dạy học Văn - Tiếng Việt ở trường phổ thông của Nguyễn
Trí - Nguyễn Trọng Hoàn... đã cung cấp cho giáo viên những kiến thức lí luận
và phương pháp giảng dạy văn học cơ bản. Với cuốn Những ngả đường vào
văn học, Hoàng Ngọc Hiến đi từ những khái luận đến việc đọc tác phẩm và
phân tích tác phẩm. Trong đó có những bài viết hữu ích cho việc dạy học tác
phẩm văn chương theo loại thể trong nhà trường như: Bàn góp về phương
pháp giảng văn, Một ít lí thuyết về trào phúng, Mấy vấn đề của tiểu thuyết và
đặc trưng của thể loại này, Kí và tiểu luận, Đặc điểm của truyện ngắn hiện
đại,....[17]. Trên cơ sở thi pháp học, tác giả Nguyễn Thị Dư Khánh trong cuốn
Thi pháp học và vấn đề giảng dạy thi pháp trong nhà trường đã có những
khám phá sâu sắc về việc vận dụng một số thi pháp truyện vào việc giảng dạy
truyện. Trong đó, các bài viết Hai đứa trẻ, Về một hướng tiếp cận tác phẩm
Lão Hạc của Nam Cao có những phát hiện mới mẻ ở bình diện sáng tạo nghệ
thuật, có tính chất định hướng cho việc khai thác vẻ đẹp nghệ thuật của tác
phẩm truyện được giảng dạy ở trường phổ thông [22].
2.3. Những công trình nghiên cứu về việc dạy học văn theo hướng
đọc- hiểu
Cùng với việc đổi mới quan niệm, cấu trúc chương trình, nội dung
chương trình, mục tiêu và phương pháp dạy học Ngữ văn trong nhà trường,
khái niệm “Đọc- hiểu “ được đưa vào các giáo trình giảng dạy và nghiên cứu.
Nhiều tác giả đã đưa ra các luận điểm để phân biệt sự khác nhau về tính chất
và tiến trình dạy học trong giờ ” giảng văn” với giờ “đọc - hiểu”, từ đó ứng
dụng thiết kế một số giáo án đọc - hiểu. Phó Giáo sư Đỗ Ngọc Thống trong
một bài viết cho tạp chí Văn học và tuổi trẻ đã so sánh sự khác nhau giữa giờ
giảng văn và giờ tổ chức dạy đọc - hiểu :
Giảng văn Đọc - hiểu
Nghiêng về công việc của
người thầy
Thầy giảng cái hay cái đẹp cho
học sinh nghe.
Nghiêng về công việc khai
thác nội dung, nghệ thuật của
văn bản
Ít chú ý ngôn từ và hình thức
nghệ thuật cụ thể.
Nhiều khi không cần đọc văn
bản.
Chỉ biết văn bản được học.
Tổ chức cho trò thực hiện.
Trò tự khám phá ra cái hay cái
đẹp theo ý mình
Tập trung khai thác vẻ đẹp nội
dung qua hình thức văn bản.
Bám sát câu chữ của văn bản để
chỉ ra nội dung tư tưởng.
Học sinh bắt buộc phải đọc văn
bản.
Có phương pháp đọc - hiểu các
tác phẩm cùng loại.
Cách so sánh trên chưa hẳn tạo được sự đồng tình của giáo viên trực tiếp
đứng lớp (vì có phần cực đoan, nghiêng về việc phê phán giờ giảng văn
truyền thống), tuy nhiên cũng đã chỉ ra được đặc trưng, yêu cầu và những ưu
điểm của giờ đọc - hiểu
Giáo sư Trần Đình Sử trong bài viết Đọc - hiểu văn bản là thế nào? in
trong tạp chí Văn học và tuổi trẻ số 151 (2007) đã đi vào chi tiết từng thao tác
đọc và hiểu. Bài viết đã phân tích cặn kẽ những điều có thể xảy ra khi đọc.
Ông khẳng định: Sự hiểu văn bản được đánh dấu bằng việc người đọc biến
văn bản của nhà văn thành văn bản của người đọc, hay nói cách khác, là
người đọc chồng văn bản của mình lên văn bản của tác giả. Ông đưa ra các
luận điểm: mọi cách hiểu văn bản đều là ” hiểu lầm “. Và có hiểu lầm đúng
và hiểu lầm sai. Từ đó ông đề nghị: dạy đọc - hiểu văn bản là dạy học sinh
năng lực biết xuất phát từ chỉnh thể văn bản của tác giả mà kiến tạo nên văn
bản của mình, đem “chồng “ lên văn bản ấy.
Nhìn chung các công trình nghiên cứu về tổ chức dạy đọc - hiểu chưa
nhiều, phần lớn là các giáo trình do Bộ Giáo dục đào tạo và trường Đại học
Sư phạm thành phố Hồ Chí Minh biên soạn để phục vụ cho các lớp bồi dưỡng
giáo viên về chương trình và sách giáo khoa mới. Các tài liệu : Bồi dưỡng
giáo viên cốt cán trường THPT môn Văn, Tài liệu bồi dưỡng giáo viên thực
hiện chương trình, sách giáo khoa lớp 10 THPT môn Ngữ Văn, Những vấn
đề chung về đổi mới giáo dục THPT,... có ưu điểm là ít lí luận, nhiều thực
tiễn, đưa ra nhiều thiết kế mẫu giúp người giáo viên Ngữ văn hình dung ra các
bước tổ chức dạy đọc - hiểu. Tuy nhiên do chương trình Ngữ văn mới đang
triển khai ở bước đầu nên các tác phẩm tự sự được giảng dạy trong chương
trình lớp 11 chưa được đề cập nhiều và có hệ thống trong các tài liệu nghiên
cứu. Thêm vào đó lượng kiến thức trong các giờ dạy đọc - hiểu, đặc biệt là
dạy đọc - hiểu tác phẩm tự sự rất nhiều nhưng thời lượng ít, vì thế giáo viên
yếu tay nghề sẽ không đạt được mục tiêu của bài học.
Từ những điều đã nghiên cứu, công trình của chúng tôi nhằm hướng đến
vấn đề:
- Khẳng định vấn đề cốt lõi của việc đổi mới phương pháp dạy học
Ngữ văn là thay đổi việc tổ chức hệ thống hoạt động của giáo viên và học
sinh theo nguyên tắc chủ động, tích cực
- Đề ra phương pháp tiếp cận tác phẩm tự sự trong chương trình lớp 11
phù hợp với yêu cầu đọc- hiểu tác phẩm theo đặc trưng loại thể.
- Đề ra những cách thức cụ thể để tổ chức một giờ dạy đọc - hiểu tác
phẩm tự sự có dung lượng kiến thức lớn với một thời lượng ngắn
3. Mục đích, đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Mục đích
Thông qua việc tìm hiểu chương trình, SGK Ngữ văn lớp 11, sách bồi
dưỡng giáo viên và thực tế giảng dạy tác phẩm tự sự (truyện thơ Nôm, kí,
truyện ngắn, tiểu thuyết), luận văn muốn hệ thống lại một số vấn đề lí luận về
Đọc – hiểu, đề cập đến việc tổ chức dạy đọc – hiểu tác phẩm tự sự theo đặc
trưng loại thể cũng như nâng cao chất lượng dạy đọc-hiểu trong giai đoạn đầu
của việc đổi mới chương trình và thay sách giáo khoa lớp 11 (chương trình
chuẩn, ban cơ bản)
3.2. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
Đề tài “Tổ chức hoạt động dạy đọc-hiểu tác phẩm tự sự Việt Nam
theo đặc trưng loại thể trong chương trình Ngữ văn lớp 11” sẽ được triển
khai và nghiên cứu trong phạm vi sau:
- Nghiên cứu cơ sở lí luận của hoạt động dạy - học văn, cách thức tổ
chức giờ đọc - hiểu tác phẩm tự sự theo loại thể
- Tìm hiểu, khảo sát SGK, SGV và chương trình môn Ngữ văn lớp 11
(chương trình chuẩn) ở trường THPT
- Thiết kế giáo án đọc-hiểu các tác phẩm tự sự trong chương trình Ngữ
văn lớp 11
- Dự giờ, đối chiếu tiến trình dạy học với mục tiêu, phương pháp một số
tiết dạy thực tế của một số giáo viên ở các trường: THPT Trần Khai Nguyên
quận 5, THPT chuyên Lê Hồng Phong quận 5, THPT Tân Phong quận 7.
4. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn đã sử dụng các phương pháp sau đây để xứ lí tài liệu và
triển khai đề tài nghiên cứu:
Phương pháp điều tra, khảo sát thực tế
- Dự giờ trên lớp một số giáo viên ở ba trường đã nêu trên
- Sử dụng phiếu phỏng vấn điều tra giáo viên và học sinh để nắm
thông tin về: những khó khăn, thuận lợi khi dạy và học tác phẩm tự sự; mức
độ hứng thú đối với từng thể loại; những đề xuất về SGK, chương trình, thời
lượng,
- Khảo sát SGK, SGV, STK ; các bài viết của một số nhà giáo, nhà
nghiên cứu có uy tín trên các tạp chí “Văn học và tuổi trẻ”, “Giáo dục và thời
đại” và các báo có trang văn học
Phương pháp thống kê
Được sử dụng để thống kê các bài viết, các công trình nghiên cứu về
lí luận văn học, phương pháp giảng dạy; thống kê ý kiến của giáo viên và học
sinh đã trả lời trên các phiếu điều tra; thống kê số tiết trong phân phối chương
trình.
Phương pháp phân tích tổng hợp
Được dùng để phân tích các cứ liệu, tư liệu có trong thực tế để xây dựng
luận điểm cho luận văn, phân tích các số liệu thu thập được để đưa ra những
kết luận