Xã hội hiện đại, khoa học kỹ thuật phát triển, cá nhân dễ dàng đạt được thành
công trong nhiều lĩnh vực. Đây cũng là lúc con người có sự quan tâm đến những nhu cầu
của đời sống tinh thần đặc biệt là trong các mối quan hệ người - người. Mặc dù mục tiêu
giáo dục của nước ta là phát triển toàn diện nhân cách học sinh nhưng chương trình giáo
dục hầu như chỉ tập trung phát triển các năng lực học tập, cung cấp kiến thức mà ít chú
trọng đến vấn đề giáo dục trí tuệ cảm xúc cho học sinh. Do vậy, để đáp ứng yêu cầu của
xã hội, giáo dục cần phải có những thay đổi để có thể đào tạo ra những công dân không
những vừa có đức vừa có tài mà còn có khả năng giải quyết hiệu quả các mối quan hệ xã
hội. Trong đó, giáo dục phát triển trí tuệ cảm xúc cho trẻ là một trong những yếu tố quan
trọng góp phần tạo nên sự thành đạt của những công dân tương lai
122 trang |
Chia sẻ: duongneo | Lượt xem: 3187 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Trí tuệ cảm xúc của học sinh trung học phổ thông thành phố Bảo Lộc – Lâm Đồng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH
VÕ HOÀNG ANH THƯ
TRÍ TUỆ CẢM XÚC CỦA HỌC SINH
TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
THÀNH PHỐ BẢO LỘC – LÂM ĐỒNG
Chuyên ngành: Tâm lý học
Mã số: 603180
LUẬN VĂN THẠC SĨ TÂM LÝ HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. TRẦN THỊ THU MAI
Thành phố Hồ Chí Minh - 2010
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình của bản thân. Các nội dung nghiên cứu và kết
quả trong đề tài này là trung thực, chưa được ai công bố trong bất cứ công trình nào.
Nếu có bất kỳ sự gian lận nào, tôi xin chịu trách nghiệm trước Hội đồng cũng như kết
quả luận văn của mình.
Thành phố Hồ Chí Minh, ngày tháng năm
Tác giả
Võ Hoàng Anh Thư
LỜI CẢM ƠN
Lời đầu tiên tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc đến TS. Trần Thị Thu Mai, người thầy
đã tận tình hướng dẫn và giúp đỡ tôi hoàn thành luận văn này.
Tôi xin chân thành cảm ơn sự chỉ dẫn tận tâm của tất cả các giảng viên đã giảng
dạy chúng tôi trong suốt thời gian học tập vừa qua, đặc biệt là sự quan tâm, tận tình giúp
đỡ của quý thầy cô đang công tác tại phòng Khoa học Công nghệ - Sau đại học và khoa
Tâm lý Giáo dục trường Đại học Sư phạm thành phố Hồ Chí Minh.
Tôi cũng xin trân trọng cảm ơn Ban Giám Hiệu và các em học sinh của trường
trung học phổ thông Bảo Lộc và trường trung học phổ thông Nguyễn Du đã tạo mọi điều
kiện thuận lợi và nhiệt tình giúp đỡ tôi trong quá trình thưc hiện đề tài này.
Cuối cùng tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến những người thân trong gia đình
đặc biệt là ba mẹ và ông xã về sự động viên, giúp đỡ to lớn nhất dành cho tôi trong suốt
quá trình học tập và nghiên cứu luận văn này. Đây cũng là món quà tôi dành tặng cho
con gái bé nhỏ vì đã luôn mang lại cho tôi những niềm vui và hạnh phúc lớn lao.
BẢNG DANH SÁCH CÁC CHỮ VIẾT TẮT
RC Rất cao
C Cao
TB Trung bình
T Thấp
RT Rất thấp
ĐLC Độ lệch tiêu chuẩn
ĐTB Điểm trung bình
N Tần số
TSCN Trị số cao nhất
TSTN Trị số thấp nhất
P Mức ý nghĩa
ĐC Nhóm đối chứng
TN Nhóm thực nghiệm
RN Rất nhiều
KAH Không ảnh hưởng
NXB Nhà xuất bản
EQ Chỉ số trí tuệ cảm xúc
IQ Chỉ số trí thông minh
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Xã hội hiện đại, khoa học kỹ thuật phát triển, cá nhân dễ dàng đạt được thành
công trong nhiều lĩnh vực. Đây cũng là lúc con người có sự quan tâm đến những nhu cầu
của đời sống tinh thần đặc biệt là trong các mối quan hệ người - người. Mặc dù mục tiêu
giáo dục của nước ta là phát triển toàn diện nhân cách học sinh nhưng chương trình giáo
dục hầu như chỉ tập trung phát triển các năng lực học tập, cung cấp kiến thức mà ít chú
trọng đến vấn đề giáo dục trí tuệ cảm xúc cho học sinh. Do vậy, để đáp ứng yêu cầu của
xã hội, giáo dục cần phải có những thay đổi để có thể đào tạo ra những công dân không
những vừa có đức vừa có tài mà còn có khả năng giải quyết hiệu quả các mối quan hệ xã
hội. Trong đó, giáo dục phát triển trí tuệ cảm xúc cho trẻ là một trong những yếu tố quan
trọng góp phần tạo nên sự thành đạt của những công dân tương lai.
1.2. Trí tuệ cảm xúc, một dạng trí thông minh mà các cuộc nghiên cứu gần đây
khẳng định rằng chúng quan trọng hơn cả trí thông minh truyền thống trong việc dự
đoán sự thành công và hạnh phúc của con người. Giáo sư Daniel Goleman cho rằng:
“Nếu bạn không có những khả năng về cảm xúc thì bạn không thể nào tiến xa được”. Và
từ thời cổ đại, Aristotle cũng cho rằng: “Bất cứ ai cũng có thể trở nên giận dữ - điều này
thật dễ dàng. Tuy nhiên, để giận đúng người, đúng mức, đúng lúc, đúng mục đích, và
đúng cách - điều này là không dễ”. Trong một nghiên cứu năm 2005, Gary R. Low và
Darwin B. Nelson (trường Cao đẳng Giáo dục Texas Hoa Kỳ) đã kết luận “Trí tuệ cảm
xúc là chìa khóa quan trọng của cá nhân trong việc giành được thành tích xuất sắc trong
học thuật và sự nghiệp” [29]. Như vậy, có thể nói việc nhận thức đúng về tình cảm và
khả năng xử lý cảm xúc sẽ quyết định sự thành công và hạnh phúc của mọi người thuộc
mọi tầng lớp và trong mọi lĩnh vực của cuộc sống.
1.3. Phát triển trí tuệ cảm xúc có ý nghĩa quan trọng trong quá trình phát triển của
học sinh. Ví dụ, trí tuệ cảm xúc giúp trẻ quản lý các tình huống căng thẳng và giải quyết
các vấn đề hàng ngày một cách hiệu quả. Điều này tạo cho trẻ một nền tảng tốt về nhân
cách cũng như những kỹ năng cần thiết trong cuộc sống để trẻ có thể thành công vững
chắc trong tương lai. Trí tuệ cảm xúc chịu ảnh hưởng bởi kinh nghiệm mà cá nhân gặp
phải, nó không cố định và có thể thay đổi. Do vậy, việc giáo dục trí tuệ ở học sinh là một
điều cần thiết và rất đáng được quan tâm.
1.4. Trí tuệ cảm xúc được hình thành trong những năm đầu của cuộc đời và tiếp
tục phát triển cho đến khi trưởng thành. Đặc biệt, những năm học ở nhà trường phổ
thông là những năm thú vị và có ý nghĩa sâu sắc trong cuộc đời, là thời gian các em phát
triển về mặt xã hội, tình cảm, nhận thức và thể chất một cách mạnh mẽ. Đây chính là
giai đoạn học sinh trải nghiệm sự phát triển to lớn về mặt tình cảm. Đối với học sinh
trung học phổ thông, việc học hỏi để hiểu biết và phát triển những khả năng về cảm xúc
là vô cùng quan trọng. Điều này giúp cho các em nâng cao năng lực cảm xúc của bản
thân và tạo dựng nền tảng cho sự phát triển của trí tuệ cảm xúc. Sự chuẩn bị tốt về mặt
cảm xúc ở giai đoạn tuổi học sinh trung học phổ thông là tiền đề để trẻ tự tin, vững bước
tiến vào ngưỡng cửa cuộc đời. Như vậy, giai đoạn học sinh trung học phổ thông là giai
đoạn cần thiết và quan trọng để giáo dục trí tuệ cảm xúc.
1.5. Tuy vậy, trí tuệ cảm xúc vẫn là một vấn đề mới mẻ, phức tạp nên chưa được
nghiên cứu nhiều. Đặc biệt vấn đề trí tuệ cảm xúc của học sinh trung học phổ thông
thành phố Bảo Lộc – Lâm Đồng chưa được ai nghiên cứu.
Từ những lý do nêu trên, chúng tôi thực hiện nghiên cứu đề tài: “TRÍ TUỆ CẢM
XÚC CỦA HỌC SINH TRUNG HỌC PHỔ THÔNG THÀNH PHỐ BẢO LỘC –
LÂM ĐỒNG”
2. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu thực trạng mức độ và biểu hiện trí tuệ cảm xúc của học sinh trung học
phổ thông thành phố Bảo Lộc – Lâm Đồng. Trên cơ sở đó đề xuất một số biện pháp
nhằm nâng cao mức độ trí tuệ cảm xúc của học sinh trung học phổ thông.
3. Khách thể, đối tượng nghiên cứu
3.1 Khách thể nghiên cứu
Học sinh trung học phổ thông Thành phố Bảo Lộc – Lâm Đồng.
3.2. Đối tượng nghiên cứu
Trí tuệ cảm xúc của học sinh trung học phổ thông.
4. Giả thuyết khoa học
Đa số học sinh trung học phổ thông thành phố Bảo Lộc – Lâm Đồng có mức độ trí
tuệ cảm xúc ở mức trung bình.
Các mặt biểu hiện trí tuệ cảm xúc của học sinh trung học phổ thông thành phố
Bảo Lộc – Lâm Đồng chưa đồng đều.
Mức độ trí tuệ cảm xúc của học sinh trung học phổ thông thành phố Bảo Lộc –
Lâm Đồng sẽ được nâng cao nếu học sinh được hướng dẫn và tích cực rèn luyện.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
Nghiên cứu lý thuyết để làm cơ sở lý luận cho đề tài.
Khảo sát thực trạng mức độ và các mặt biểu hiện trí tuệ cảm xúc của học sinh
trung học phổ thông thành phố Bảo Lộc – Lâm Đồng.
Thực nghiệm tác động sư phạm nâng cao mức độ trí tuệ cảm xúc của học sinh
trung học phổ thông thành phố Bảo Lộc – Lâm Đồng.
Đề xuất một số biện pháp nhằm nâng cao trí tuệ cảm xúc cho học sinh trung học
phổ thông thành phố Bảo Lộc – Lâm Đồng.
6. Giới hạn phạm vi nghiên cứu
6.1. Giới hạn đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu thực trạng mức độ và các mặt biểu hiện trí tuệ cảm xúc của học sinh
trung học phổ thông thành phố Bảo Lộc – Lâm Đồng.
Thực nghiệm tác động một số biện pháp sư phạm nhằm nâng cao mức độ một số
mặt biểu hiện trí tuệ cảm xúc của học sinh trung học phổ thông thành phố Bảo Lộc –
Lâm Đồng.
6.2. Giới hạn khách thể nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu trên phạm vi 230 học sinh lớp 10, 11, 12 thuộc hai trường trung
học phổ thông Bảo Lộc và trường trung học phổ thông Nguyễn Du thành phố Bảo Lộc –
Lâm Đồng.
7. Phương pháp nghiên cứu
Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận
a. Mục đích
Phân tích, tổng hợp, hệ thống hóa các tri thức lý luận và thực tiễn có liên quan đến
trí tuệ cảm xúc nhằm viết cơ sở lý luận của vấn đề nghiên cứu và định hướng cho việc
nghiên cứu thực tiễn và thực nghiệm.
b. Cách thực hiện
Đọc, phân tích, tổng hợp kết quả các công trình nghiên cứu, tài liệu, các bài
viếtcó liên quan đến trí tuệ cảm xúc. Trên cơ sở đó hệ thống hóa những vấn đề lý luận
tâm lý học về trí tuệ cảm xúc để xây dựng đề cương nghiên cứu, xác định khái niệm
công cụ, xây dựng cơ sở lý luận của vấn đề nghiên cứu.
Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn
- Phương pháp trắc nghiệm
- Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi
- Phương pháp quan sát
- Phương pháp phỏng vấn
- Phương pháp thực nghiệm
- Phương pháp thống kê toán học
8. Đóng góp mới của đề tài
- Xác định mức độ và biểu hiện trí tuệ cảm xúc của học sinh trung học phổ
thông thành phố Bảo Lộc – Lâm Đồng.
- Đưa ra một số biện pháp tác động sư phạm nhằm nâng cao mức độ trí tuệ cảm
xúc của học sinh trung học phổ thông.
- Đề xuất một số hướng nhằm nâng cao trí tuệ cảm xúc cho học sinh trung học
phổ thông.
9. Cấu trúc luận văn
Luận văn gồm có các phần như sau:
Mở đầu
Nội dung nghiên cứu
Chương 1: Cơ sở lý luận về trí tuệ cảm xúc của học sinh trung học phổ thông
Chương 2: Thực trạng mức độ và biểu hiện trí tuệ cảm xúc của học sinh trung học
phổ thông thành phố Bảo Lộc – Lâm Đồng
Chương 3: Biện pháp tác động sư phạm nhằm nâng cao mức độ trí tuệ cảm xúc
của học sinh trung học phổ thông thành phố Bảo Lộc – Lâm Đồng
Kết luận và kiến nghị
Tài liệu tham khảo
Phụ lục
Chương 1:
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TRÍ TUỆ CẢM XÚC
1.1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề trí tuệ cảm xúc
1.1.1. Những nghiên cứu trên thế giới
Phong trào nghiên cứu trí tuệ cảm xúc bắt nguồn và phát triển mạnh mẽ nhất ở
Mỹ với các nhà tâm lý học kiệt xuất.
E.L. Thorndike là người đầu tiên tìm cách nhận dạng trí tuệ cảm xúc mà lúc đó
ông gọi là trí tuệ xã hội vào cuối những năm 1930. Theo ông, trí tuệ xã hội là “năng lực
hiểu và điều khiển mà những người đàn ông, đàn bà, con trai và con gái sử dụng để hành
động một cách khôn ngoan, sáng suốt trong các mối quan hệ của con người”.
David Weschler (1940) cho rằng yếu tố phi trí tuệ là yếu tố quan trọng cho con
người trong việc thích nghi và đạt được những thành tích trong cuộc sống. Theo ông,
yếu tố phi trí tuệ được xem là cần thiết để dự đoán khả năng thành công của một người.
Howard Gardner (1983) cho ra đời tác phẩm “Frames of mind” như là một
tuyên ngôn chống lại độc quyền của trí thông minh, chứng minh rằng không có hình
thức duy nhất, toàn khối của trí tuệ quyết định thành công trong cuộc đời, đúng hơn có
một thang trí tuệ rộng lớn. Theo lập luận đó, ông đưa ra mô hình đa trí tuệ và cho rằng
trí tuệ cá nhân gồm hai loại: trí tuệ liên nhân cách (interpersonal intelligence) và trí tuệ
về bản thân (intrapersonal intelligence). Ông cho rằng hai loại trí tuệ này cũng quan
trọng như trí thông minh được biểu thị bởi chỉ số IQ (Intelligence quotient) và đo bằng
trắc nghiệm IQ.
Reuven Bar-On (1985) là người đầu tiên sử dụng thuật ngữ trí tuệ cảm xúc trong
luận án tiến sĩ của mình. Bar-On đặt trí tuệ cảm xúc trong phạm vi lý thuyết nhân cách,
đưa ra mô hình Well-being (1997) với ý định trả lời câu hỏi: “Tại sao một người nào đó
lại có khả năng thành công hơn những người khác?”. Bar-On đã xem xét lại những
nghiên cứu tâm lý về các đặc tính của nhân cách có liên quan đáng kể đến sự thành công
trong cuộc sống và đã nhận diện được 5 khu vực (nhân tố) bao quát về mặt chức năng
phù hợp với sự thành công trong cuộc sống. Từ đó ông đưa ra mô hình trí tuệ cảm xúc
kiểu hỗn hợp.
Vào năm 2000, Bar-On định nghĩa: “Trí tuệ cảm xúc như là một dãy các phi năng
lực và những kỹ năng ảnh hưởng đến năng lực một người thành công trong công việc
đương đầu với những đòi hỏi và sức ép từ môi trường”.
Peter Salovey và John Mayer là hai nhà tâm lý học Mỹ đã công bố định nghĩa
chính thức đầu tiên về trí tuệ cảm xúc vào năm 1990: “Trí tuệ cảm xúc là khả năng hiểu
rõ cảm xúc của bản thân, thấu hiểu cảm xúc của người khác, phân biệt được chúng và sử
dụng những thông tin ấy để hướng dẫn suy nghĩ và hành động của mình” [24]. Định
nghĩa này đã có ảnh hưởng quan trọng đến lý thuyết trí tuệ cảm xúc tại thời điểm đó.
Cũng trong năm 1990, Mayer, Salovey cùng với M.T. Đipaolo đã công bố bộ trắc
nghiệm đo trí tuệ cảm xúc và từ đây hai ông đã dẫn đầu sự phát triển khoa học về lý
thuyết và phương pháp xác định chỉ số trí tuệ cảm xúc (EQ – Emotional Quotient).
Sau bảy năm, Mayer và Salovey (1997) đã chỉnh sửa đôi chút định nghĩa trí tuệ
cảm xúc được nêu vào năm 1990 như sau: “Trí tuệ cảm xúc như là năng lực nhận biết,
bày tỏ cảm xúc; cảm xúc hóa tư duy; hiểu, suy luận với cảm xúc; điều khiển, kiểm soát
cảm xúc của mình và của người khác” [9, tr.98]. Dựa trên định nghĩa này mô hình trí tuệ
cảm xúc thuần năng lực được xây dựng.
Daniel Goleman – tiến sĩ tâm lý học của đại học Harvard – đã tập hợp các kết
quả nghiên cứu về trí tuệ cảm xúc và cho ra đời cuốn sách đầu tiên “Trí tuệ cảm xúc”
vào năm 1995 thì thuật ngữ “trí tuệ cảm xúc” đã trở thành mối quan tâm hàng đầu trong
xã hội Mỹ. Daniel Goleman nghiên cứu trí tuệ cảm xúc theo lý thuyết hiệu quả thực hiện
công việc, ông xác định: mô hình trí tuệ cảm xúc dựa trên lý thuyết này có thể ứng dụng
trực tiếp vào khu vực hiệu quả quản lý và hoàn thành công việc từ người bán hàng đến
công việc của nhà quản lý. Mô hình trí tuệ cảm xúc mà D. Goleman đề xuất là một mô
hình kiểu hỗn hợp.
Theo D. Goleman, trí tuệ cảm xúc bao gồm các năng lực: sự tự chủ, lòng nhiệt
thành và kiên nhẫn cũng như khả năng và sự kích thích hành động.
Từ năm 1995, Daniel Goleman – người được xem là nhà nghiên cứu hàng đầu về
trí tuệ cảm xúc hiện nay, đề xuất chúng ta phải có những năng lực cảm xúc cá nhân
gồm:
- Năng lực tự nhận biết bản thân;
- Năng lực tạo động lực;
- Những năng lực thông minh cảm xúc xã hội gồm: năng lực thấu cảm với người
khác và năng lực giao tiếp xã hội.
Tuy nhiên vào năm 2001, D. Goleman đưa ra bốn biểu hiện của trí tuệ cảm xúc
nói lên năng lực của cá nhân trong mối quan hệ với mình và năng lực xã hội của con
người trong mối quan hệ với người khác:
- Tự biết mình;
- Tự kiểm soát, tự quản;
- Nhận biết các quan hệ xã hội;
- Kiểm soát, điều khiển các mối quan hệ xã hội.
Những nghiên cứu của Goleman không chỉ dừng lại ở việc xác định bản chất của
trí tuệ cảm xúc mà ông còn đưa ra những biện pháp để giáo dục trí tuệ cảm xúc.
Như vậy, nhìn một cách tổng thể có thể nói có ba đại diện tiêu biểu đã đi sâu
nghiên cứu trí tuệ cảm xúc dưới những cách tiếp cận khác nhau, trong đó R. Bar-On tiếp
cận trí tuệ cảm xúc dưới góc độ nhân cách, P. Salovey và J. Mayer nghiên cứu dưới góc
độ nhận thức và D. Goleman tiếp cận dưới góc độ hiệu quả công việc.
1.1.2. Những nghiên cứu ở Việt Nam
Ở Việt Nam, vấn đề trí tuệ, đặc biệt là trí thông minh, trí sáng tạo đã được các nhà
tâm lý học nghiên cứu từ lâu. Thế nhưng, những công trình nghiên cứu về trí tuệ cảm
xúc chỉ mới ở những bước đi đầu tiên.
Vào năm 2000, tạp chí Tâm lý học lần đầu tiên đăng các bài viết của PGS.TS
Nguyễn Huy Tú về trí tuệ cảm xúc.
Đề tài cấp nhà nước KX-05-06 giai đoạn 2001 – 2005 do PGS.TS Trần Kiều cùng
với các nhà tâm lý và giáo dục thuộc Viện chiến lược và chương trình giáo dục nghiên
cứu trí tuệ cảm xúc đã xác định trí tuệ cảm xúc là một trong ba thành tố của trí tuệ (trí
thông minh, trí sáng tạo và trí tuệ cảm xúc) trên sinh viên, học sinh và lao động trẻ. Đề
tài này mở đầu cho các công trình nghiên cứu trí tuệ cảm xúc sau này.
Các tác giả trong các công trình nghiên cứu luận văn, luận án tâm lý học cũng đã
chọn trí tuệ cảm xúc làm vấn đề nghiên cứu, chẳng hạn như: luận văn thạc sĩ của Dương
Thị Hoàng Yến (2004), luận án tiến sĩ của Nguyễn Thị Dung (2007),Các đề tài này
phần lớn tập trung nghiên cứu trí tuệ cảm xúc của giáo viên trong hoạt động chủ nhiệm
lớp. Luận văn thạc sĩ của tác giả Phan Trọng Nam (2004) và Nguyễn Thị Tuấn Anh
(năm 2008) tập trung nghiên cứu trí tuệ cảm xúc của đối tượng là sinh viên sư phạm.
Ngoài ra còn một số sông trình nghiên cứu khác về trí tuệ cảm xúc tập trung chủ yếu
trên đối tượng là sinh viên.
Hiện nay, các tác giả Nguyễn Huy Tú, Nguyễn Công Khanh, Nguyễn Quang Uẩn,
Trần Trọng Thủy, Phan Trọng Ngọ, và nhiều tác giả khác vẫn đang tiếp tục đi sâu
nghiên cứu trí tuệ cảm xúc.
Như vậy, có thể nói rằng những công trình nghiên cứu trong và ngoài nước về trí
tuệ cảm xúc tuy chưa nhiều nhưng đã đạt được những kết quả bước đầu. Tuy nhiên, các
đề tài về trí tuệ cảm xúc chưa quan tâm nhiều đến đối tượng học sinh trung học phổ
thông. Vì vậy, nghiên cứu trí tuệ cảm xúc của học sinh trung học phổ thông là việc làm
cần thiết.
1.2. Trí tuệ cảm xúc
1.2.1. Khái niệm trí tuệ
Trong tiếng La tinh: Trí tuệ (Intellectus) có nghĩa là trí năng sắc sảo, sự hiểu biết
chu đáo [9, tr.7].
Trong từ điển Tiếng Việt: Trí tuệ là khả năng nhận thức lý tính đạt đến một trình
độ nhất định [14, tr.1245].
Trong từ điển tâm lý: Trí tuệ là khả năng hành động thích nghi với biến động của
hoàn cảnh thiên về tư duy trừu tượng (Nguyễn Khắc Viện, 2001).
Cho đến nay, trong Tâm lý học có rất nhiều định nghĩa về trí tuệ tùy theo cách
tiếp cận. Nhìn chung trí tuệ được hiểu theo hai quan niệm: quan niệm truyền thống và
quan niệm hiện đại.
Trí tuệ theo quan niệm truyền thống
Điểm chung của quan niệm truyền thống là đồng nhất trí tuệ với trí thông minh
(intelligence). Theo F.S. Freeman (1963), trong vô số các định nghĩa về trí tuệ, có thể
thấy rõ có 3 loại: thứ nhất, xem trí tuệ là năng lực học tập; thứ hai, xem trí tuệ là năng
lực tư duy trừu tượng; thứ ba, xem trí tuệ là năng lực thích ứng cá nhân.
Nhóm quan điểm xem trí tuệ là năng lực học tập
Đây là quan niệm đã có từ lâu và khá phổ biến.
Nhà tâm lý học người Nga B.G.Ananhev xem trí tuệ là đặc điểm tâm lý phức tạp
của con người mà kết quả của công việc học tập và lao động phụ thuộc vào nó [11,
tr.41].
V.V.Bogoxlovki và những người khác (1973) xem hệ thống những thuộc tính trí
tuệ của nhân cách đảm bảo cho sự tương đối dễ dàng trong việc nắm các tri thức, được
hiểu là các năng lực chung [15, tr.71].
Nhiều công trình nghiên cứu cho thấy giữa học tập (đặc biệt là kết quả học tập)
với khả năng trí tuệ của cá nhân có mối quan hệ nhân quả và chúng không đồng nhất.
Trên thực tế, phần lớn học sinh có chỉ số IQ cao thì kết quả học tập cũng cao, song cũng
có những học sinh có chỉ số IQ cao nhưng kết quả học tập lại không cao. Điều này có
thể giải thích bằng nhiều lý do như động cơ học tập, ý chí, hứng thú, cách họcChính
A.Binet đã nghiên cứu và chứng minh được những học sinh học kém là do khả năng trí
tuệ và những em do lười hoặc những nguyên nhân khác [11, tr.42].
Nhóm quan điểm xem trí tuệ là năng lực tư duy trừu tượng
L.Terman (1937) cho rằng trí tuệ là năng lực phát triển tư duy trừu tượng. Theo
cách hiểu như vậy thì chức năng của trí thông minh là sử dụng có hiệu quả các khái
niệm và tượng trưng [15, tr.72].
N.A.Menchinskaia xem đặc trưng của trí tuệ là sự tích lũy vốn tri thức và các thao
tác trí tuệ để con người tiếp thu được tri thức [13, tr.15].
X.L.Rubinstein cho rằng đặc trưng cơ bản hàng đầu của trí tuệ là năng lực tâm
thần ở mức cao chẳng hạn như suy luận trừu tượng [1, tr.10].
Theo cách hiểu này, trí tuệ tức là khả năng sử dụng có hiệu quả các thao tác tư
duy để giải quyết các vấn đề đặt ra. Trong khi đó, tư duy chỉ là một thành phần, một bộ
phận của trí tuệ. Quan niệm như vậy đã thu hẹp nội hàm lẫn hình thức của trí tuệ.
Nhóm quan niệm xem trí tuệ là năng lực thích ứng của cá nhân
Đây là quan niệm phổ biến nhất và được nhiều nhà nghiên cứu tán thành.
V. Stern coi trí tuệ là năng lực thích ứng tâm lý chung của con người với những
điều kiện và nhiệm vụ mới trong đời sống [15, tr.72].
D. Wechler (1958) xem trí tuệ là năng lực chung của nhân cách, được thể hiện
tro