Từ khi xuất hiện cho đến nay, sáng tác văn học của hai tác giả Nhất Linh, Khái Hưng
đã thu hút được sự quan tâm của giới phê bình và độc giả. Ý kiến về các ông, tùy từng thời
điểm, thiên về khen hay chê, phủ nhận hay khẳng định, tất thảy đều cho thấy đánh giá sự
nghiệp văn chương của hai ông không hề đơn giản. Thời gian trôi qua, dường như khoảng
cách đã đủ để cân nhắc thẩm định đầy đủ hơn, sáng tác của Nhất Linh và Khái Hưng là một
trong nhiều hiện tượng văn học được nhìn nhận lại trong những năm gần đây. Trên tinh thần
đổi mới, giờ là lúc cần có sự đánh giá khách quan khoa học để trả lại giá trị đích thực vốn có
của các hiện tượng văn học ấy trong đó có sáng tác của Khái Hưng Nhất Linh và Tự Lực
Văn Đoàn (TLVĐ).
Nghiên cứu sáng tác của hai ông, các nhà nghiên cứu đã chú ý nhiều đến tiểu thuyết.
Điều đó là đúng và cần thiết, song chưa đủ. Trong sáng tác của Nhất Linh, Khái Hưng, bên
cạnh tiểu thuyết, còn có truyện ngắn. Có một thực tế không thể phủ nhận là trong sáng tác
của hai ông, thành tựu sáng tác truyện ngắn không nổi bật bằng thành tựu sáng tác tiểu
thuyết. Nhưng cũng có một giả thuyết, rằng: nếu không có các sáng tác truyện ngắn vừa như
là một sự thể nghiệm, chuẩn bị ý tưởng và kinh nghiệm cho sáng tác tiểu thuyết, vừa như là
một sự bổ sung, hòa phối với tiểu thuyết thì liệu tiểu thuyết của TLVĐ có được sức vang dội
như thế không, và văn chương TLVĐ liệu có được nhữnh thành tựu như đã có hay không
125 trang |
Chia sẻ: duongneo | Lượt xem: 2137 | Lượt tải: 7
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Truyện ngắn nhất linh, khái hưng trong văn xuôi nghệ thuật tự lực văn đoàn, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HCM
NGUYỄN ĐĂNG VY
TRUYỆN NGẮN NHẤT LINH, KHÁI HƯNG TRONG
VĂN XUÔI NGHỆ THUẬT TỰ LỰC VĂN ĐOÀN
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGỮ VĂN
CHUYÊN NGÀNH VĂN HỌC VIỆT NAM
MÃ SỐ: 60 22 34
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. NGUYỄN THÀNH THI
TP Hồ Chí Minh – 2010
LỜI CẢM ƠN
Thực hiện luận văn này, bản thân tôi đã thường xuyên nhận được sự hướng dẫn tận
tình của PGS. TS Nguyễn Thành Thi. Với tư cách một chuyên gia văn học hiện đại Việt Nam
1930-1945, am hiểu tường tận về sáng tác của Nhất Linh, Khái Hưng, thầy đã giúp đỡ, chỉ
dẫn khoa học rất cụ thể và đầy hiệu quả.
Xin được gửi lời cảm tạ chân thành sâu sắc nhất đến thầy, không phải chỉ vì thầy đã
giúp tôi hoàn thành luận văn mà còn vì đã cho tôi nhiều kinh nghiệm quý báu trong nghiên
cứu văn học cũng như thưởng thức cái hay, cái đẹp của tác phẩm văn chương.
Nhân dịp luận văn hoàn thành, tôi cũng xin chân thành cảm ơn sự giảng dạy tận tình
của tất cả các thầy cô phụ trách chuyên đề Cao học; cảm ơn BCN khoa Ngữ văn, các thầy cô
chuyên viên phòng Sau đại học đã tạo điều kiện thuận lợi cho tôi trong học tập nghiên cứu.
Cảm ơn bằng hữu đã nhiệt tình động viên cổ vũ tôi.
Con xin chân thành cảm ơn ba má đã không ngừng động viên giúp đỡ con về vật chất
lẫn tinh thần để có ngày hoàn tất và bảo vệ luận văn này.
TP Hồ Chí Minh ngày 01/01/2011
NGUYỄN ĐĂNG VY
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài.
Từ khi xuất hiện cho đến nay, sáng tác văn học của hai tác giả Nhất Linh, Khái Hưng
đã thu hút được sự quan tâm của giới phê bình và độc giả. Ý kiến về các ông, tùy từng thời
điểm, thiên về khen hay chê, phủ nhận hay khẳng định, tất thảy đều cho thấy đánh giá sự
nghiệp văn chương của hai ông không hề đơn giản. Thời gian trôi qua, dường như khoảng
cách đã đủ để cân nhắc thẩm định đầy đủ hơn, sáng tác của Nhất Linh và Khái Hưng là một
trong nhiều hiện tượng văn học được nhìn nhận lại trong những năm gần đây. Trên tinh thần
đổi mới, giờ là lúc cần có sự đánh giá khách quan khoa học để trả lại giá trị đích thực vốn có
của các hiện tượng văn học ấy trong đó có sáng tác của Khái Hưng Nhất Linh và Tự Lực
Văn Đoàn (TLVĐ).
Nghiên cứu sáng tác của hai ông, các nhà nghiên cứu đã chú ý nhiều đến tiểu thuyết.
Điều đó là đúng và cần thiết, song chưa đủ. Trong sáng tác của Nhất Linh, Khái Hưng, bên
cạnh tiểu thuyết, còn có truyện ngắn. Có một thực tế không thể phủ nhận là trong sáng tác
của hai ông, thành tựu sáng tác truyện ngắn không nổi bật bằng thành tựu sáng tác tiểu
thuyết. Nhưng cũng có một giả thuyết, rằng: nếu không có các sáng tác truyện ngắn vừa như
là một sự thể nghiệm, chuẩn bị ý tưởng và kinh nghiệm cho sáng tác tiểu thuyết, vừa như là
một sự bổ sung, hòa phối với tiểu thuyết thì liệu tiểu thuyết của TLVĐ có được sức vang dội
như thế không, và văn chương TLVĐ liệu có được nhữnh thành tựu như đã có hay không?
Thiết tưởng, câu hỏi này chưa được đặt ra và trả lời thỏa đáng.
Đó cũng là lý do chủ yếu thôi thúc chúng tôi chọn, nghiên cứu đề tài “Truyện ngắn
Nhất Linh, Khái Hưng trong văn xuôi nghệ thuật Tự Lực Văn Đoàn” để thực hiện luận
văn thạc sĩ.
2. Mục đích, đối tượng, phạm vi nghiên cứu:
Tìm hiểu về “Truyện ngắn Nhất Linh, Khái Hưng trong văn xuôi nghệ thuật Tự
Lực Văn Đoàn”, luận văn này nhằm hướng tới các mục đích sau:
- Tìm hiểu truyện ngắn của Nhất Linh, Khái Hưng, để thấy được vai trò mở đường và
phát triển nghệ thuật truyện ngắn, hiện đại hóa VXNT quốc ngữ Việt Nam của TLVĐ – một
vấn đề mà trước đây thường bị bỏ qua hoặc chưa chú ý đúng mức.
- Trên cơ sở miêu tả đặc điểm nội dung và hình thức của truyện ngắn Nhất Linh, Khái
Hưng trong bối cảnh VXNT TLVĐ, khẳng định thêm về những giá trị, đóng góp của hai ông
trong sáng tác tiểu thuyết và truyện ngắn.
Với đối tượng nghiên cứu là truyện ngắn Nhất Linh, Khái Hưng trong bối cảnh VXNT
TLVĐ – được nhìn chủ yếu trong mối quan hệ tương tác giữa sáng tác truyện ngắn và tiểu
thuyết – luận văn chủ yếu tập trung khảo sát các tập truyện ngắn của hai ông sáng tác thời
TLVĐ.
Cũng cần nói thêm rằng: Truyện ngắn của Nhất Linh và Khái Hưng có một khối lượng
không nhỏ.
Bên cạnh tập truyện ngắn Anh phải sống hai nhà văn viết chung với nhau, Nhất Linh
có tất cả 7 tập truyện ngắn (tổng cộng 40 truyện ngắn).
Trong đó, 5 tập sáng tác trước năm 1942 (từ 1927 đến 1937):
1) Người quay tơ (1927)
2) Anh phải sống (viết chung với Khái Hưng, 1934)
3) Tối tăm (1936)
4) Hai buổi chiều vàng (1937)
5) Thế rồi một buổi chiều (1937);
2 tập sáng tác sau 1942 (Mối tình chân: 1948-1950 và Thương chồng: 1949-1950).
Khái Hưng cũng có hàng trăm truyện ngắn, phần lớn đã xuất bản thành tập. Đó là các
tập:
1) Dọc đường gió bụi (1936)
2) Anh phải sống (viết chung với Nhất Linh, 1934)
3) Số đào hoa (1937)
4) Tiếng suối reo (1937)
5) Hạnh (1938)
6) Đợi chờ (1939)
7) Đội mũ lệch (1941)
8) Cái ve (1944)
Ngoài ra, ông còn một số truyện ngắn khác mới chỉ đăng báo, chưa in thành tập. (Tổng
cộng 67 truyện ngắn)
Do số lượng truyện ngắn của hai nhà văn khá lớn, hiện nay, lại có những khó khăn
đáng kể trong việc sưu tầm những tư liệu truyện ngắn do tình hình báo cũ bị mai một, thất
lạc (ngay cả ở các thư viện lớn), nên tập hợp chưa thật đầy đủ. Trong khuôn khổ có hạn, luận
văn chủ yếu tập trung khảo sát những tác phẩm truyện ngắn tiêu biểu của hai nhà văn, gần
đây đã được tuyển in thành sách. Cụ thể là:
Khảo sát 40 tác phẩm truyện ngắn của Nhất Linh, chủ yếu in trong tập Nhất Linh
truyện ngắn, Trịnh Bá Đĩnh (truyển chọn và giới thiệu) (2000), NXB Văn học, Hà Nội
và tập truyện ngắn “Những ngày diễm ảo” (1993), NXB Văn học, Hà Bắc. (Xem
Danh mục tham khảo, từ 95 đến 120)
Khảo sát 67 tác phẩm truyện ngắn của Khái Hưng, chủ yếu in trong tập Truyện
ngắn Khái Hưng, Hoàng Bích Hà, Vương Trí Nhàn (sưu tầm, biên soạn) (2004), NXB
Hội Nhà Văn, Hà Nội, và một vài tập truyện ngắn khác của ông (có Danh mục tác
phẩm kèm theo trong Danh mục tham khảo từ 72 đến 79 và Phụ lục của luận văn).
Đồng thời, trong trường hợp cần thiết, luận văn cũng đối chiếu so ánh với một số tác
phẩm tiểu thuyết của hai nhà văn trong xu hướng tiểu thuyết TLVĐ.
3. Lịch sử nghiên cứu đề tài:
3.1. Về việc đánh giá sự đóng góp của nhóm Tự Lực Văn Đoàn đối với tiến trình
phát triển của văn học dân tộc
Trước 1945, có thể kể đến bài viết về nhà văn TLVĐ của các tác giả: Trương Tửu,
Đức Phiên, Trần Thanh Mại, Hà Văn Tiếp, Nguyễn Lương Ngọc, Vũ Ngọc Phan, Trương
Chính,
Từ 1945 đến 1975 ý kiến đánh giá về TLVĐ ở miền Nam và miền Bắc có nhiều điểm
khác nhau. Ở miền Nam có: Thanh Lãng, Thế Phong, Phạm Thế Ngũ, Doãn Quốc Sỹ, Bùi
Xuân Bào, Lê Hữu Mục, Nguyễn Văn Xung, Đặng Tiến, Nguyễn Văn Trung, Dương
Nghiệm Mậu, Thế Uyên, Nguyễn Vỹ, Nguyễn Thị Thế, Xu hướng chung là đánh giá cao
đóng góp của TLVĐ. Ở miền Bắc, có thể kể đến công trình bài viết của các tác giả: Nguyễn
Đức Đàn, Vũ Đức Phúc, Nam Mộc, Phan Cự Đệ - Bạch Năng Thi. Nhìn chung trong một bối
cảnh cụ thể của đất nước, các tác giả này phê phán TLVĐ khá nặng nề.
Sau 1975 nhất là từ 1986 trở đi, việc đánh giá văn đoàn này càng ngày càng thỏa đáng,
đúng mực hơn, kể cả một số nhà phê bình trước đây đã từng đánh giá khắt khe. Các nhà
nghiên cứu phê bình văn học viết về TLVĐ khá đông đảo: Hoàng Xuân Hãn, Trương Chính,
Trần Đình Hượu, Nguyễn Đình Chú, Nguyễn Đăng Mạnh, Nguyễn Hoành Khung, Phan Cự
Đệ, Nguyễn Trác – Đái Xuân Ninh, Trần Hữu Tá, Phong Lê, Lê Thị Đức Hạnh, Đỗ Đức
Hiểu, Hà Minh Đức, Lê Thị Dục Tú, Trần Thị Mai Nhi, Nguyễn Hữu Hiếu, Nguyễn Thành
Thi, Trịnh Bá Đĩnh, Vương Trí Nhàn, Ở đây, có một sự vận động trong nhận thức đánh
giá về văn đoàn.
Đương thời, hoạt động văn học của TLVĐ tuy gây được tiếng vang lớn trong dư luận
xã hội và đời sống văn học, tuy vậy đóng góp của TLVĐ vẫn chưa chính thức được giới
nghiên cứu phê bình đặt vấn đề đánh giá đầy đủ, nghiêm túc.
Phải mười mấy năm sau, vào năm 1957, với một tinh thần xã hội học trong đánh giá
công và tội của bộ phận văn học công khai trước Cách mạng Tháng Tám 1945, trong đó có
sáng tác của các nhà văn lãng mạn trong TLVĐ (như Khái Hưng, Nhất Linh) và ngoài tổ
chức văn học này, Trường Chinh đã phát biểu ý kiến nhận định như sau:
“Ngoài một số tác phẩm kể trên (Ngô Tất Tố, Vũ Trọng Phụng, Nam Cao, Nguyên
Hồng, Nguyễn Công Hoan, thơ Tố Hữu) các nhà phê bình của ta còn tránh nói đến những tác
phẩm lãng mạn, vì chưa biết đánh giá thế nào cho đúng. Có khuynh hướng gạt bỏ chung
những xu hướng lãng mạn ngày trước, coi tất cả đều là sa đọa thoát ly. Cần nhận rõ rằng văn
nghệ cách mạng của chúng ta là kẻ thừa kế tất cả những giá trị văn nghệ do các thời trước tạo
ra và truyền lại cho đến ngày nay. Chúng ta có nhiệm vụ giữ gìn và phát triển tất cả di sản
của dân tộc và cũng chỉ có chúng ta mới có thể làm nổi công việc đó () Đối với trào lưu
văn học lãng mạn, chúng ta không nên mạt sát và vơ đũa cả nắm”.
Ông còn gợi ý trong văn học lãng mạn, bên cạnh những mặt tiêu cực, còn có “nỗi đau
khổ của người dân mất nước, sự quằn quại của tâm hồn bị bóp nghẹt, lòng khao khát một
cuộc sống chân thật và tự do. () Việc uốn nắn lại những thái độ hẹp hòi máy móc đối với
những giá trị văn nghệ cũ không những có tác dụng sửa chữa thái độ bất công đối với nhiều
tác phẩm mà còn có tác dụng mở rộng con đường cho sáng tác văn nghệ hiện thời” (Bài nói
tại Đại hội văn nghệ toàn quốc lần thứ hai, 1957).
Hơn một thập niên sau, trong khi do một hoàn cảnh riêng, ở miền Bắc, các sáng tác
của Nhất Linh, Khái Hưng và TLVĐ cùng với trào lưu văn học lãng mạn bị xem là chứa
nhiều “nọc độc”, “bạc nhược, suy dồi”, thì ở miền Nam, Hiếu Chân, trên Tạp chí Văn số
156, năm 1970, cũng đã khẳng định động cơ yêu nước, ý thức dân tộc của Nhất Linh, Khái
Hưng và các cộng sự khi thành lập TLVĐ và điều hành hoạt động của tổ chức này: “Nhất
Linh, Khái Hưng có nhiều mặt đồng điệu và tâm đắc. Đi Pháp về, Nhất Linh gặp Khái Hưng.
Hai người cùng có một nguyện vọng là làm sao đóng góp vào sự phát triển văn hóa dân tộc,
Họ muốn bảo vệ di sản văn hóa dân tộc () Nhất Linh và Khái Hưng đều có thể ra làm quan
nhưng họ không thích cuộc đời quan trường. Họ thích tự do. Họ có hoài bão này từ hồi còn
đi học. Đó là biểu hiện của lòng yêu nước, và họ đã biểu hiện lòng yêu nước qua hành động
của họ. Tất nhiên là nó rất hạn chế và không nhất quán” [17].
Về vai trò hiện đại hóa văn học của TLVĐ, giáo sư Hoàng Xuân Hãn cũng đã có lần
khẳng định: “Nhóm Tự Lực Văn Đoàn không phải là nhóm duy nhất nhưng là nhóm quan
trọng nhất và là nhóm cải cách đầu tiên của nền văn học hiện đại” [dẫn theo theo Nguyễn
Hữu Hiếu, 61, tr.74].
Năm 2004, trong Lời giới thiệu tuyển tập Nhất Linh truyện ngắn, Trịnh Bá Đĩnh cho
rằng TLVĐ là một phong trào văn học “có vị trí quan trọng trong lịch sử văn học thế kỷ XX”
[39, tr.5]; rằng, sáng tác của các nhà văn “trên các trang báo Phong Hóa sau 1934 đã thổi vào
xã hội một luồng sinh khí tươi trẻ, nhẹ nhàng, giàu sinh lực phản ánh được cái khí thế của
một thế hệ trẻ rất hăng hái cải tạo xã hội và văn hóa.” [39, tr.6]; rằng, “nhiều tài năng của
nền văn học mới có lúc từng quần tụ trong TLVĐ” [39, tr.6]; và rằng, trong TLVĐ, Nhất
Linh “là người chủ xướng và tổ chức quan trọng nhất” [39, tr.6].
3.2. Việc đánh giá truyện ngắn Nhất Linh, Khái Hưng:
Trước hết, có thể thấy rằng có một thái độ thiên lệch ít nhiều mang tính lịch sử khi
đánh giá sự nghiệp văn chương của Nhất Linh, Khái Hưng: tiểu thuyết được coi trọng,
truyện ngắn có phần bị coi nhẹ.
Thái độ thiên lệch này là có thực trong giới nghiên cứu, phát hành, ngay cả khi sáng
tác của hai ông đã bắt đầu được khôi phục, đánh giá lại. Chẳng hạn, khi làm Tổng tập văn
học Việt Nam những người tuyển tập chỉ dè dặt đưa vào vài truyện ngắn như truyện Bóng
người trong sương mù (Nhất Linh) và truyện Người vợ mù (Khái Hưng), song lại rất tự tin,
rộng rãi trong việc trích tuyển tiểu thuyết của hai nhà văn này. Thái độ này cũng đã khiến
cho những người làm tuyển tập Truyện ngắn Khái Hưng phải thốt lên: “tiếc là lâu nay tiểu
thuyết Khái Hưng vẫn có phần lấn át truyện ngắn của tác giả. Trong vòng 25 năm nay mới
chỉ thấy có một tập truyện ngắn Khái Hưng in ra ở NXB Hải Phòng (1994) và một tập truyện
thiếu nhi, in ở NXB Hải Phòng và Kim Đồng (2000)” [59, tr.5].
Như vậy, nếu không tính đến những tập truyện ngắn của hai ông in ở miền Nam trước
1975, thì mãi đến năm 1994, truyện ngắn của Khái Hưng mới được in lại, còn truyện ngắn
của Nhất Linh, thì phải chờ đến năm 2000, đúng thời điểm chuyển giao giữa thế kỷ cũ và thế
kỷ mới mới được tuyển in lại. Dầu sao, thời gian gần đây, thái độ coi nhẹ truyện ngắn Nhất
Linh, Khái Hưng đã được điều chỉnh đáng kể. Bằng chứng là có những bộ sưu tập truyện
ngắn Nhất Linh, Khái Hưng ra đời. Kèm theo là nhiều bài viết, công trình nghiên cứu. Có
thể xem đây là những cố gắng nhằm tạo ra cách nhìn nhận thỏa đáng và khôi phục lại đóng
góp thực sự của Nhất Linh, Khái Hưng trong lĩnh vực truyện ngắn. Đó là một sự điều chỉnh
cần thiết, dù muộn màng thì có vẫn hơn không.
Về tình hình nghiên cứu, tác giả, tác phẩm truyện ngắn Nhất Linh, Khái Hưng, từ
trước đến nay, đã có rất nhiều công trình, bài viết. Tuy nhiên, các công trình ấy, hầu như đều
chủ yếu đi sâu nghiên cứu về tiểu thuyết. Các ý kiến bàn về truyện ngắn không nhiều. Dẫu
vậy, vẫn có thể nhặt ra một số ý kiến đáng chú ý xung quanh vị trí, đặc điểm của truyện ngắn
trong sáng tác của hai tác giả.
Về vị trí của truyện ngắn Nhất Linh, Khái Hưng trong sáng tác của hai ông thời
TLVĐ:
Nhìn chung, so với sáng tác truyện ngắn của Nhất Linh, sáng tác truyện ngắn của Khái
Hưng được chú ý hơn.
Vũ Ngọc Phan khẳng định Khái Hưng là cây bút văn xuôi TLVĐ đã viết được “những
truyện ngắn tuyệt hay” [141].
Phạm Thế Ngũ cũng cho rằng sức viết của Khái Hưng bộc lộ nhiều qua truyện ngắn và
đây là thể loại không thể thiếu trong sự nghiệp văn chương của ông: “Ngoài những truyện
dài, Khái Hưng còn viết rất nhiều truyện ngắn. Trên báo Phong Hóa rồi Ngày Nay những
năm đầu, thường thường tuần nào ông cũng có một truyện (không kể tiểu thuyết dài ngắt kỳ).
Đếm tất cả những truyện này của Khái Hưng trong gần mười năm có thể đi đến vài trăm”
[136, tr.476].
Bên cạnh việc khẳng định tài viết truyện ngắn của Khái Hưng, Phan Cự Đệ còn khẳng
định: “Nhất Linh cũng có tài viết truyện ngắn” [36, tr.907]
Về vai trò mảng truyện ngắn trong sáng tác của Nhất Linh, Phạm Thế Ngũ đã viết:
“Ra tờ Phong Hóa rồi, Nguyễn Tường Tam lại trở lại viết truyện. Ông bắt đầu đăng trên
Phong Hóa 1932 – 1933 những truyện ngắn, thoạt đầu ký bút hiệu Bảo Sơn rồi Nhất Linh.”
[136, tr.446]
Còn về vai trò của mảng truyện ngắn trong sự nghiệp văn chương của Khái Hưng, Lê
Dục Tú khẳng định: “Có thể nói truyện ngắn là thể loại đầu tiên Khái Hưng trình làng trước
công chúng. Trên báo Phong Hóa và Ngày Nay những năm đầu hầu như tuần nào Khái Hưng
cũng đăng một truyện ngắn. Trong vòng mười năm ông đã đăng đến hàng trăm truyện ngắn.
Một số truyện ngắn đầu tay của Khái Hưng khi ra đời đã được coi là “món ăn ngon và lạ” cải
thiện cho khẩu vị đọc của người dân thị thành. Truyện ngắn “Bên dòng Hương giang” được
in lần đầu tiên trên báo Phong Hóa ngày 31/3/1932 và tập truyện ngắn “Dọc đường gió bụi”
ra đời năm 1936 đã nhận được sự cổ vũ nồng nhiệt của công chúng” [189]
Hai ý kiến trên (của Phạm Thế Ngũ và Lê Dục Tú) đã gặp nhau ở một điểm quan
trọng: Cả Nhất Linh, Khái Hưng đều khởi nghiệp bằng việc viết truyện ngắn. Và trước, trong
khi trở thành tác giả của những thiên tiểu thuyết nổi tiếng một thời, Nhất Linh, Khái Hưng đã
và đang là những cây bút viết truyện ngắn có thứ hạng trên văn đàn công khai 1930-1945.
Như thế xét từ một góc độ nào đó, với hai ông và độc giả đương thời, viết và đọc truyện
ngắn có thể xem là một sự chuẩn bị, tập dượt cho viết và đọc tiểu thuyết.
Về đặc điểm nổi bật của truyện ngắn Nhất Linh, Khái Hưng:
Cùng thời với Nhất Linh, Khái Hưng, Vũ Ngọc Phan nhấn mạnh vẻ đẹp giản dị, sức
chinh phục độc giả ở kĩ thuật dựng truyện, hành văn của Khái Hưng. Trong Nhà văn hiện
đại, ông viết:
“Về truyện ngắn, Khái Hưng viết tuyệt hay. Người ta thấy phần nhiều truyện ngắn của
ông lại có vẻ linh hoạt và cảm người đọc hơn cả truyện dài của ông. Truyện ngắn của Thạch
Lam và Đỗ Đức Thu ngả về mặt sầu cảm và kín đáo bao nhiêu thì truyện ngắn của Khái
Hưng vui tươi và rộng mở thế ấy, nhưng không phải cái vui thái quá như những truyện ngắn
của Nguyễn Công Hoan đâu. Ngay ở những truyện buồn của Khái Hưng, người ta cũng chỉ
thấy một thứ buồn man mác, không bao giờ là cái buồn ủ rũ như ở những truyện của Thạch
Lam (). Đọc những truyện ngắn của Khái Hưng, tôi nhận thấy nghệ thuật của ông là tìm
cho ra những ý nghĩ đau đớn hay khoái lạc của mọi việc trên đời, rồi ghi lại bằng những lời
văn gọn gàng, sáng suốt, làm cảm người ta bởi những việc mình dàn xếp, mình làm cho khi
nổi khi chìm, chứ không phải cám dỗ người ta bởi những thuyết mà mình tưởng là cao cả
”.[141, tr.770]
Nhà nghiên cứu Phạm Thế Ngũ còn chia truyện ngắn của Khái Hưng ra làm hai loại:
“một loại nhẹ, truyện vui, truyện phiếm, đăng vừa một cột báo, in lên hai ba trang sách,
không có ý nghĩa gì sâu xa” [136, tr.477] và “một loại nặng, đứng đắn, rộng kích thước hơn,
viết công phu hơn, đặt ra một vấn đề luận lý, xã hội, đưa ra một mẩu tâm lý, một mảng sinh
hoạt, bắt người ta phải suy nghĩ, đôi khi phải cảm động đau thương”. [136, tr.477]
Trước khi hai tuyển tập truyện ngắn của Nhất Linh, Khái Hưng ra đời (2002; 2004),
Có thể thấy rằng hầu như các công trình nghiên cứu của Vũ Ngọc Phan, Phan Cự Đệ, Phạm
Thế Ngũ, Lê Thị Dục Tú, đều ghi nhận những đóng góp về truyện ngắn của Nhất Linh và
Khái Hưng cho sự tiến bộ của văn học nước nhà. Song, các nhà nghiên cứu vẫn chưa có điều
kiện để thực sự đi vào nghiên cứu một cách chuyên sâu. Điều này có thể xuất phát từ nhiều
nguyên nhân, trong đó có lẽ một phần là do truyện ngắn của hai ông bị chìm đi sau tiếng
vang tiểu thuyết của họ.
Sau 2000-2004 đáng chú ý trước hết là các Lời dẫn, Lời giới thiệu tuyển tập truyện
ngắn của Nhất Linh, Khái Hưng.
Trong Lời giới thiệu tuyển tập Nhất Linh truyện ngắn, Trịnh Bá Đĩnh cho rằng:
“Về sáng tác, Nhất Linh từng viết ở nhiều thể loại: thơ, phóng sự, khảo luận, phê bình,
tuy nhiên ngòi bút của ông chủ yếu vẫn là để sáng tạo văn xuôi – truyện ngắn và tiểu thuyết,
nhất là tiểu thuyết. Nhất Linh thuộc vào số những nhà cách tân tiểu thuyết quan trọng của
văn học ta” [39, tr.6-7].
Về ngôn ngữ nghệ thuật, Trịnh Bá Đĩnh khẳng định: “Nhất Linh viết văn theo các thể
loại của văn học Âu Tây, xây dựng nhân vật, kết cấu truyện theo lối của các nhà văn Châu
Âu. Văn phong của ông là sự áp dụng lối tổ chức ngữ pháp Tây phương vào tiếng Việt:
Lôgích chặt chẽ, sáng sủa và cực kỳ giản dị () Nhà văn đã sử dụng những phương tiện
nghệ thuật phương Tây để xây dựng tâm hồn phương Đông” [39, tr.8]. Tuy vậy, “Chất thơ
của Giấc mộng Từ Lâm, Lan rừng là chất thơ của loại truyện truyền kỳ, truyện Liêu trai.
Còn con bướm trắng trong hoài niệm của Trương cũng là con bướm trắng trong giấc mộng
Trang Chu chất thơ đó chính là cái Đẹp, cái Đẹp hiện hữu nhưng khó nắm bắt, nó như con
bướm trắng luôn chập chờn bay trong không gian và thời gian của thhế giới nghệ thuật Nhất
Linh” [39, tr. 9].
Về sức sống của tác phẩm Nhất Linh, nhà nghiên cứu, người làm tuyển tập truyện
ngắn Nhất Linh quả quyết rằng sáng tác của nhà văn này “vừa là tiếng nói của một thời vừa
là tiếng nói của không chỉ một thời” [39, tr.10].
Trong Lời dẫn của nhóm sưu tầm, biên soạn tuyển tập Truyện ngắn Khái Hưng, các
tác giả khẳng định: “Bên cạnh cây bút tiểu thuyết tài hoa, Khái Hưng (1986-1947) đồng thời
còn là một tác giả truyện ngắn dồi dào sức lực, thường xuyên có truyện in Phong Hóa, Ngày
Nay, và ngay từ trước 1945, đã được tập hợp một phần trong các tập” [59, tr.5]; truyện
ngắn là “một lĩnh vực mà n