Kể từ khi người Việt đến khai khẩn, mở đất, mảnh đất Nam Bộ đã có hơn ba trăm năm
tồn tại và ngày càng phát triển. Trong hơn ba trăm năm ấy, con người bao phen chứng kiến
sự biến thiên lịch sử. Một trong những sự kiện oai hùng nhất của dân tộc ta nói chung, của
Nam Bộ nói riêng trong thời kỳ “khổ nhục nhưng vĩ đại” (Phạm Văn Đồng) là cuộc đối đầu
không cân sức với thực dân Pháp xâm lược. Cuộc kháng chiến này đã tạo nên hào khí rạng
ngời: Hào khí Đồng Nai.
Chỉ xét chặng đường ngắn ngủi, từ 1858 đến 1918, biết bao người con ưu tú của Nam
Bộ đã vùng lên chiến đấu và hy sinh lẫm liệt. Họ in dấu ấn đời mình vào thời gian và không
gian. Họ đã trở thành bất tử. Nhưng sự hy sinh của họ đã được nhìn nhận bởi các đánh giá,
xem xét của những thái độ tình cảm, cách nhìn khác nhau. Triều Nguyễn, thông qua lịch sử
chính thống, đã khe khắt và hẹp hòi khi đánh giá công trạng những anh hùng kháng Pháp.
Chỉ có nhân dân mới nhìn thấy hết tầm vóc và sự bất tử của những tấm gương vì dân mộ
nghĩa. Chỉ có nhân dân mới hiểu hết giá trị phải đánh đổi để còn được mảnh đất này
143 trang |
Chia sẻ: duongneo | Lượt xem: 1919 | Lượt tải: 6
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Truyền thuyết dân gian về những cuộc khởi nghĩa chống Pháp ở Nam Bộ (1858 – 1918), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
VÕ PHÚC CHÂU
TRUYỀN THUYẾT DÂN GIAN
VỀ NHỮNG CUỘC KHỞI NGHĨA
CHỐNG PHÁP Ở NAM BỘ
(1858 – 1918)
Chuyên ngành VĂN HỌC VIỆT NAM
MÃ SỐ: 62 22 34 01
LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TSKH BÙI MẠNH NHỊ
TP. HỒ CHÍ MINH - NĂM 2010
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu riêng của tôi.
Các số liệu, kết quả nêu trong Luận án là trung thực.
Nếu nội dung Luận án có sự gian dối, sao chép thành quả nghiên cứu của
người khác, tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm.
Tác giả Luận án
Võ Phúc Châu
QUY ƯỚC TRÌNH BÀY LUẬN ÁN
***
1. Cách trình bày trích dẫn ý kiến
Trong quá trình diễn giải vấn đề, khi cần nêu địa chỉ tham khảo hoặc dẫn lại một số nhận xét, ý kiến
của các nhà nghiên cứu, chúng tôi xin được trình bày theo quy ước:
Phần trích dẫn ngắn: đặt trong dấu ngoặc kép, in nghiêng.
Phần trích dẫn dài: tách thành đoạn riêng, lề trái lùi thêm 2 cm, không dùng ngoặc kép, cỡ chữ
nhỏ hơn, không in nghiêng.
Phần ghi địa chỉ tham khảo: [205] (có nghĩa là xem tài liệu số 205 ở phần Tài liệu tham khảo).
Phần ghi xuất xứ trích dẫn:
[205,tr.135] (có nghĩa là dẫn chứng được trích từ tài liệu số 205 ở phần Tài liệu tham khảo,
trang 135).
[PL1,3.1.2] (có nghĩa là dẫn chứng thuộc phần Phụ lục1, trong văn bản mang ký hiệu 3.1.2).
2. Cách chú thích
Phần chú thích trực tiếp: viết liên tục, đặt trong dấu ngoặc đơn, có thể in chữ nghiêng. Ví dụ:
“nhu cầu gắn truyền thuyết với một chứng tích văn hóa nào đó (lăng mộ, địa danh, lễ hội)”.
Phần chú thích thêm: đặt cuối trang, mỗi chú thích đều có số thứ tự.
3. Quy ước viết tắt một số từ ngữ được dùng nhiều lần trong Luận án
STT Từ ngữ được dùng nhiều lần Viết tắt là
1
Truyền thuyết dân gian về những cuộc khởi nghĩa
chống Pháp ở Nam Bộ (1858 – 1918)
Truyền thuyết dân gian
2
Hệ thống truyền thuyết dân gian về những cuộc khởi
nghĩa chống Pháp ở Nam Bộ (1858 – 1918)
Hệ thống truyền thuyết
dân gian
3
Các nhóm truyền thuyết trong hệ thống truyền thuyết
dân gian về những cuộc khởi nghĩa chống Pháp ở Nam
Bộ (1858 – 1918)
Các nhóm truyền thuyết
MỞ ĐẦU
***
1. Lý do chọn đề tài - mục đích nghiên cứu
Kể từ khi người Việt đến khai khẩn, mở đất, mảnh đất Nam Bộ đã có hơn ba trăm năm
tồn tại và ngày càng phát triển. Trong hơn ba trăm năm ấy, con người bao phen chứng kiến
sự biến thiên lịch sử. Một trong những sự kiện oai hùng nhất của dân tộc ta nói chung, của
Nam Bộ nói riêng trong thời kỳ “khổ nhục nhưng vĩ đại” (Phạm Văn Đồng) là cuộc đối đầu
không cân sức với thực dân Pháp xâm lược. Cuộc kháng chiến này đã tạo nên hào khí rạng
ngời: Hào khí Đồng Nai.
Chỉ xét chặng đường ngắn ngủi, từ 1858 đến 1918, biết bao người con ưu tú của Nam
Bộ đã vùng lên chiến đấu và hy sinh lẫm liệt. Họ in dấu ấn đời mình vào thời gian và không
gian. Họ đã trở thành bất tử. Nhưng sự hy sinh của họ đã được nhìn nhận bởi các đánh giá,
xem xét của những thái độ tình cảm, cách nhìn khác nhau. Triều Nguyễn, thông qua lịch sử
chính thống, đã khe khắt và hẹp hòi khi đánh giá công trạng những anh hùng kháng Pháp.
Chỉ có nhân dân mới nhìn thấy hết tầm vóc và sự bất tử của những tấm gương vì dân mộ
nghĩa. Chỉ có nhân dân mới hiểu hết giá trị phải đánh đổi để còn được mảnh đất này.
Từ xa xưa, quần chúng nhân dân đã có cách nhìn riêng đối với con người và sự kiện
lịch sử. Họ biết ngợi ca, tôn vinh, tưởng nhớ các anh hùng, thông qua truyền thuyết dân gian.
Những truyền thuyết về anh hùng kháng Pháp, về những địa danh lịch sử đã hiện diện nơi
này nơi khác, tập trung hoặc rời rạc trong các tư liệu sưu tầm văn học dân gian, trong tư
liệu khảo cứu, từ ký ức người dân Chúng báo hiệu những mỏ quặng truyền thuyết dân gian
phong phú, phức tạp nhưng chưa được tập hợp, nghiên cứu đầy đủ.
Nghiên cứu vấn đề này, chúng tôi hy vọng thấy được phần nào đặc điểm của thể loại
truyền thuyết trong thời cận đại. Bởi, truyền thuyết chỉ phổ biến, phát triển mạnh ở những
giai đoạn trước. Qua đó, trong chừng mực tư liệu cho phép, chúng tôi cũng mong muốn phát
hiện màu sắc địa phương, tính thống nhất và đa dạng của tác phẩm truyền thuyết dân gian
Nam Bộ so với truyền thuyết các vùng miền trong cả nước.
Nghiên cứu truyền thuyết dân gian về những cuộc khởi nghĩa chống Pháp ở Nam Bộ,
luận án đồng thời sẽ giúp công việc giảng dạy lịch sử, văn học địa phương thêm chiều sâu và
hiệu quả.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
2.1. Các công trình nghiên cứu, bài viết về thể loại truyền thuyết:
Đây là những bài viết, những tập sách được đăng tải rải rác, không liên tục, chưa thành
hệ thống chuyên đề. Tuy nhiên, mỗi bài viết đều xoáy vào một khía cạnh đặc trưng, mới mẻ
và phức tạp của truyền thuyết. Phần lớn tựa đề đã nêu rõ đối tượng và mục đích bài viết:
Nghiên cứu truyền thuyết, những vấn đề đặt ra [1], Suy nghĩ mới về bản chất thể loại truyền
thuyết [3], Bàn thêm về thể loại truyền thuyết [4], Thể loại truyền thuyết dưới mắt các nhà
nghiên cứu Folklore Nhật Bản và Trung Quốc [72], Quan điểm quần chúng trong truyền
thuyết dân gian Việt Nam [80], Truyền thuyết Việt Nam & vấn đề thể loại [84], Mối quan hệ
giữa truyền thuyết người Việt và hội lễ về các anh hùng [106], Tìm hiểu kết cấu của dạng
truyền thuyết anh hùng [193], Truyền thuyết dân gian với tâm lý cộng đồng người Việt
[194], Tinh thần dân tộc qua các truyền thuyết lịch sử [220], Dạy “An Dương Vương và Mỵ
Châu - Trọng Thủy” từ góc nhìn truyền thuyết [188]... Ở các công trình này, các nhà nghiên
cứu thường chú ý khảo sát thể loại truyền thuyết qua mấy phương diện: dạng thức tác phẩm,
thời gian được phản ánh, mối quan hệ với cộng đồng, đặc điểm nội dung, đặc điểm nghệ
thuật, tâm lý tiếp nhận văn bản...
Nguồn tư liệu này giúp hình dung sự hình thành và vận động của thể loại truyền thuyết
trong đời sống văn học.
Cũng có lúc, một số nhà nghiên cứu không thừa nhận sự tồn tại của thể loại truyền
thuyết hoặc gọi chúng bằng những tên khác: huyền thoại, truyền văn, truyền ngoa, cổ tích
lịch sử... Nhưng giờ đây, trong nhiều nền văn học dân gian trên thế giới, truyền thuyết luôn
được xem là một thể loại lớn; có mối quan hệ đặc biệt với lịch sử, văn hóa, tôn giáo, tín
ngưỡng; có sự giao thoa với thần thoại, giai thoại, cổ tích... Ra đời sau thần thoại, trước cả cổ
tích, truyện thơ dân gian... nhưng truyền thuyết lại “trường thọ” hơn tất cả các thể loại này.
Đấy là sức sống kỳ lạ của thể loại truyền thuyết.
Nhìn chung, lý thuyết thể loại khá rõ. Tuy nhiên, khi vận dụng nguồn lý thuyết này để
sưu tầm và khảo sát truyền thuyết dân gian Nam Bộ (từ sau 1858), chúng tôi gặp nhiều khó
khăn. Cụ thể, quá ít công trình nghiên cứu giúp phân biệt rõ truyền thuyết và giai thoại,
truyền thuyết lịch sử và giai thoại lịch sử. Trong khi đó, do ra đời muộn (thời cận đại), nhiều
câu chuyện về nhân vật và sự kiện lịch sử tuy mang đặc điểm truyền thuyết nhưng thiếu đi
chất kỳ ảo, hoang đường hoặc vẫn chưa thoát hẳn màu sắc giai thoại. Một số truyền thuyết
dân gian lại nằm ngay trong tư liệu lịch sử, bằng cảm tính không dễ gì bóc tách ra được.
2.2. Một số tư liệu sưu tầm, biên khảo truyền thuyết dân gian, văn học dân gian, văn hóa dân
gian Nam Bộ
Nguồn tư liệu này bao gồm các công trình sưu tầm, biên khảo về tác phẩm truyền
thuyết; một số khai thác truyện dân gian nói chung; còn phần lớn là những công trình sưu
tầm, biên khảo văn học dân gian địa phương, văn hóa dân gian Nam Bộ, địa phương chí.
Để tiện khảo sát, chúng tôi phân nguồn tư liệu thành nhiều nhóm:
- Nhóm tư liệu về truyền thuyết, truyện dân gian (của cả nước)
- Nhóm tư liệu về văn học dân gian địa phương
- Nhóm tư liệu về văn hóa dân gian Nam Bộ, địa phương chí
Dưới đây xin giới thiệu tóm tắt đặc điểm một vài tư liệu:
2.2.1. Nhóm tư liệu về truyền thuyết, truyện dân gian:
* Truyện tích Việt Nam [88], Kho tàng truyện truyền kỳ Việt Nam [94], Truyền thuyết
Việt Nam [96], Truyền thuyết Việt Nam [108], Chuyện kể địa danh Việt Nam [98], Chuyện
xưa tích cũ [149], Việt Nam - thần thoại và truyền thuyết [153]: Các tập sách này tuyển chọn
những truyền thuyết đặc sắc, phổ biến của Việt Nam, nhưng mốc thời gian chỉ dừng lại trong
(hoặc trước) thời kỳ quốc gia phong kiến độc lập. Không truyền thuyết nào kể về cuộc những
cuộc khởi nghĩa buổi đầu chống Pháp ở Nam Bộ. Chỉ trong Truyện tích Việt Nam [88], có
truyện số 24 kể về Thiên Hộ Dương, truyện số 25 kể chung về những anh hùng chống Pháp.
Tuy nhiên, cả hai còn dừng ở mức độ ghi chép, sưu khảo. Các truyện không ghi xuất xứ.
* Giai thoại dân gian Đồng Tháp Mười [65]: Cả 42 truyện đều có bối cảnh không gian
là vùng Đồng Tháp Mười, thời gian trải dài từ “ngày xưa” cho đến nửa đầu thế kỷ XX. Tập
sách lần lượt nhắc lại sự tích những địa danh; những câu chuyện hào hùng, cảm động về các
anh hùng hào kiệt đã sống, chiến đấu và ngã xuống trên quê hương Đồng Tháp. Các câu
chuyện được gọi chung là giai thoại dân gian, mặc dù một số nên gọi là truyền thuyết dân
gian. Vài truyện sưu tầm không ghi xuất xứ.
* Truyền thuyết Thiên Hộ Dương – Đốc Binh Kiều [66]: Tuyển tập giới thiệu những
câu chuyện liên quan đến cuộc khởi nghĩa Thiên Hộ Dương và phó tướng Đốc Binh Kiều.
Các truyện này hầu hết đã được in trong “Giai thoại dân gian Đồng Tháp Mười”. Có điều,
những tác phẩm trước đây được gọi là giai thoại thì nay được xác định là truyền thuyết. Đây
là công trình sưu tầm truyền thuyết dân gian Nam Bộ duy nhất mà chúng tôi có được.
* Nam Kỳ cố sự [67]: Phần lớn tác phẩm được sưu tầm tại Đồng Tháp, kể về đất và
người Đồng Tháp. Trong đó có một số truyền thuyết dân gian. Tác phẩm được gọi chung là
chuyện xưa (cố sự). Một số truyện không ghi xuất xứ.
2.2.2. Nhóm tư liệu về văn học dân gian địa phương:
* Văn học dân gian – những tác phẩm chọn lọc [163]: Tập sách được sắp xếp theo thể
loại. Tác phẩm được phân theo tiểu loại hoặc thời kỳ mà chúng phản ánh. Một số tiểu loại,
tác phẩm có kèm phần tiểu dẫn, nhằm giúp người đọc hiểu đúng văn bản. Ở thể loại truyền
thuyết, tác phẩm được xếp theo thời kỳ lịch sử. Riêng thời kỳ chống Pháp, tập sách giới thiệu
3 truyền thuyết về Nguyễn Trung Trực, 2 truyền thuyết về Thiên Hộ Dương. Các truyện đều
có ghi xuất xứ.
* Văn học dân gian Đồng bằng sông Cửu Long [101]: Tác phẩm được sắp xếp thành hai
phần: văn xuôi, văn vần. Ở phần văn xuôi dân gian, căn cứ vào nội dung, truyện được chia
theo nhóm. Có một số truyền thuyết dân gian thời chống Pháp. Tuy nhiên, các truyện không
được xem xét ở góc độ thể loại, bởi theo các tác giả: “Nhiều truyện không còn giữ được tính
chất thể loại của nó. Một số truyện có thể là truyền thuyết nhưng lại mang màu sắc cổ tích,
một số truyện loài vật có màu sắc ngụ ngôn Biện pháp khả thi ở đây là sắp xếp các truyện
theo nội dung” [169,14]. Do đó, một số truyền thuyết về các anh hùng chống Pháp được xem
là giai thoại.
* Nghìn năm bia miệng, 2 tập [215]: Ở lời giới thiệu, các tác giả có nhận xét về sự kế
thừa những mẫu đề, môtif truyền thống trong một số tác phẩm tự sự dân gian Đặc biệt,
mảng truyền thuyết dân gian về các anh hùng chống Pháp được nhận xét khá sâu sắc và trang
trọng. Do được sắp xếp theo đề tài, bộ sách có hẳn mảng truyện về những nhân vật lịch sử,
đặc biệt là những anh hùng chống Pháp đã làm rạng rỡ hào khí đất Gia Định – Đồng Nai.
Các câu chuyện đều có ghi xuất xứ nhưng không được xác định về mặt thể loại.
* Thơ văn Đồng Tháp [235]: Bộ sách gồm 2 tập. Tập I dành riêng cho Thơ văn dân
gian. Riêng truyền thuyết có 16 truyện, nội dung kể về sự tích các địa danh, những anh hùng
hào kiệt buổi đầu chống Pháp. Một số truyện không ghi xuất xứ.
* Tài liệu hướng dẫn học tập thơ văn Kiên Giang trong nhà trường [236], Thơ văn
Đồng Tháp trong nhà trường [237]: Đây là giáo trình giảng dạy văn học địa phương trong
nhà trường. Mỗi bài học có in nguyên văn tác phẩm, sau đó là phần hướng dẫn đọc thêm.
Một số truyền thuyết về anh hùng chống Pháp ở Nam Bộ được tuyển từ Thơ văn Đồng Tháp,
tập I.
2.2.3. Nhóm tư liệu về văn hóa dân gian Nam Bộ, địa phương chí:
* Sổ tay Hành hương đất phương Nam [218]: Nội dung tập sách, sau Chuyên luận là
phần Sổ tay hành hương. Trong phần này, nhóm tác giả giới thiệu những dạng thức tín
ngưỡng, tôn giáo ở Nam Bộ, những địa điểm hành hương tại 18 tỉnh thành của vùng đất mới
phương Nam. Lồng trong việc giới thiệu tín ngưỡng, tôn giáo có một vài mẩu chuyện về
nhân vật khởi nghĩa chống Pháp. Ví dụ đạo Bửu Sơn Kỳ Hương có Đức Cố Quản Trần Văn
Thành và các con Trần Văn Chái, Trần Văn Nhu... Bên cạnh đó, nhiều đền, miếu, lăng mộ
trên khắp tỉnh thành Nam Bộ gắn với việc thờ tự những anh hùng buổi đầu chống Pháp. Ví
dụ, đình Mỹ Khánh (Biên Hòa) thờ Nguyễn Tri Phương; chùa Cô Hồn (Biên Hòa) thờ 9
người lãnh đạo trại Lâm Trung chống Pháp; dinh thờ ở ấp Hàng Sao (Hóc Môn- TP.HCM)
thờ Nguyễn Ảnh Thủ; đình chánh Tân Kim (Long An) thờ ông Mai Văn Phận – tùy tướng
của Trương Định...
* Nam Bộ xưa và nay [241]: Tác phẩm tập hợp những bài viết về lĩnh vực lịch sử, văn
hóa của miền đất Nam Bộ xưa và nay. Một số bài viết về sự kiện, nhân vật lịch sử buổi đầu
chống Pháp (1858 – 1918).
* Địa chí Văn hóa thành phố Hồ Chí Minh [46]: Bộ sách gồm bốn tập. Riêng tập I viết
về các chặng đường lịch sử ngót 300 năm của đất Sài Gòn – Gia Định. Tập II tổng kết thành
tựu văn học, báo chí và nghệ thuật của vùng đất này. Tập I có phần viết riêng về Sài Gòn
dưới ách thống trị thực dân Pháp từ 1859 đến 1918. Một số gương anh hùng chống Pháp
được ghi nhận (Hồ Huân Nghiệp, Trương Định, Phan Văn Hớn, Nguyễn Hữu Trí, Phan Xích
Long). Qui mô, tính chất các cuộc khởi nghĩa được phân tích dưới góc độ sử học. Ở tập II,
phần Văn học có bài về Văn học dân gian Gia Định – Sài Gòn. Tuy dẫn chứng trong giới hạn
địa phương nhưng bài viết đã gợi mở cách nhìn về diện mạo và đặc điểm chung của văn học
dân gian cả miền đất Nam Bộ. Bài viết có đề cập truyện kể dân gian về anh hùng chống Pháp
và giai thoại về những nhà nho làm thơ đánh giặc.
* Bến Nghé xưa [143], Đất Gia Định xưa [145]: Bộ sách được viết theo dạng địa
phương chí. Tác giả không chủ định sưu tầm văn học dân gian. Tuy nhiên, có một số mẩu
chuyện mang màu sắc truyền thuyết. Chuyện kể thường có thêm đoạn tả cảnh và diễn biến
tâm lý nhân vật, thể hiện phần nhuận sắc của tác giả.
* Bạc Liêu xưa [130], Cần Thơ xưa [131], Định Tường (Mỹ Tho) xưa [132], Gia Định
xưa [133], Gò Công xưa [134], Kiến Hòa (Bến Tre) xưa [135], Sa Đéc xưa [136], Tây Ninh
xưa [137], Vĩnh Long xưa [138], Vũng Tàu xưa [139], Tân Châu xưa [104]...: Đây là bộ sách
sưu khảo của Huỳnh Minh, được viết theo dạng địa phương chí. Mỗi tập sách tổng hợp kiến
thức về địa lý, lịch sử, nhân vật, giai thoại, huyền thoại, di tích, thắng cảnh, cũng như các địa
danh năm xưa của một tỉnh ở Nam Bộ. Mỗi tập sách được chia thành từng phần mục cụ thể.
Những địa danh lịch sử, gương anh hùng chống Pháp thường xuất hiện trong phần mục về
nhân vật, giai thoại, huyền thoại. Chuyện về các anh hùng chống Pháp phần nhiều được thể
hiện dưới dạng bút kí. Các mẩu chuyện thường tản mạn. Một số sự kiện còn dừng ở dạng liệt
kê (gạch đầu dòng). Tác giả không xác định được thể loại truyền thuyết.
2.3. Các tư liệu lịch sử ghi chép về con người và sự kiện lịch sử buổi đầu chống Pháp ở Nam
Bộ
Để tiện khảo sát, chúng tôi phân nguồn tư liệu thành hai nhóm:
2.3.1. Tư liệu về giai đoạn lịch sử: Chống xâm lăng (quyển I) [47], Việt Nam Pháp
thuộc sử (1884 – 1945) [102], Việt Nam thế kỷ XIX (1802 – 1884) [181], Việt Nam – những
sự kiện lịch sử (1858 – 1918) [186]...
Các bộ sách này chủ yếu trình bày theo hướng biên niên sử, qua cái nhìn hệ thống. Mỗi
phần mục khai thác một vấn đề lớn trong lịch sử; nội dung sự kiện được ghi cụ thể, hàm súc,
chính xác. Những sự kiện, câu chuyện diễn ra từ 1858 đến 1918 đã phần nào nêu bật vai trò
lịch sử của những anh hùng chống Pháp ở Nam Bộ.
2.3.2. Tư liệu về nhân vật lịch sử: Nguyễn Trung Trực [148], Anh hùng kháng Pháp
Nguyễn Trung Trực [100], Nguyễn Trung Trực – thân thế và sự nghiệp [13], 130 năm nhìn
lại cuộc đời và sự nghiệp Trương Định [189], Khởi nghĩa Trương Định [180].
Đây là tư liệu về những nhân vật lịch sử, được viết theo dạng nhân vật chí. Mỗi công
trình tập trung khắc hoạ thân thế, sự nghiệp, vai trò lịch sử của một nhân vật anh hùng
chống Pháp. Từng chương mục lần lượt tái hiện, diễn giải nguồn gốc xuất thân, động cơ khởi
binh đánh giặc, chiến công của nhân vật. Một số vấn đề, sự kiện được minh giải qua nhiều
nguồn cứ liệu, nhiều quan điểm khác nhau. Ví dụ, nguyên nhân Nguyễn Trung Trực sa vào
tay giặc. Một số đoạn, bài mang tính chất gợi ý khai thác nội dung, ý nghĩa của truyền thuyết
dân gian. Ví dụ, bài nghiên cứu truyền thuyết dân gian về Nguyễn Trung Trực của Bùi Mạnh
Nhị [13]. Mặt khác, trong một số chương mục của các tư liệu này, không ít mẩu chuyện
mang đặc điểm của văn bản tự sự dân gian, cụ thể là truyền thuyết dân gian [189]. Điều này
có lẽ xuất phát từ nhu cầu phục hiện sống động quá khứ, nhưng nguồn sử chính thống quá
khe khắt và hiếm hoi, các nhà sử học buộc phải cần đến sự viện trợ đắc lực của kho tàng
chuyện kể dân gian. Những mẩu truyền thuyết ấy cần sự soi rọi bởi lý thuyết folklore.
* Đại Nam liệt truyện, 4 tập [183], Đại Nam nhất thống chí, 3 tập [184]: Đây là hai bộ
sử triều Nguyễn. Tác phẩm có qui mô khá đồ sộ trong kho tàng thư tịch cổ viết bằng chữ
Hán của Việt Nam, giữa thế kỷ XIX. Mỗi bộ gồm nhiều tập. Mỗi tập có nhiều quyển. Mỗi
quyển viết nhiều chủ đề khác nhau. Đại Nam nhất thống chí trình bày nội dung theo nhóm
hành chính (Kinh Sư, Phủ Thừa Thiên, Tỉnh Quảng Bình, Đạo Hà Tĩnh). Trong mỗi vùng,
các sử quan đều có phần viết về nhân vật. Riêng Đại Nam liệt truyện trình bày theo nhóm
nhân vật (nhân vật dòng dõi tôn thất, các bậc nữ liệt, các vị anh hùng trung nghĩa, những kẻ
phản nghịch). Một số anh hùng chống Pháp ở Nam Bộ được ghi chép công trạng (Phan
Văn Đạt, Trần Xuân Hòa, Nguyễn Hữu Huân, Trương Định). Tuy nhiên các truyện chưa
hội đủ yêu cầu của một tự sự dân gian.
2.4. Nhận xét chung
2.4.1. Các công trình nghiên cứu về truyền thuyết dân gian, cho đến nay, đã soi rõ đặc
trưng thể loại này. Tuy nhiên, vẫn chưa có công trình nào khảo sát toàn diện kho truyền
thuyết thời cận đại (trong Luận án, chúng tôi xin gọi là truyền thuyết muộn). Cụ thể, chưa có
bài viết nào đề cập và lý giải sự phai mờ của yếu tố kỳ ảo, hoang đường trong truyền thuyết
muộn; các công trình cũng chưa lý giải đầy đủ sự đan xen giữa truyền thuyết và giai thoại;
giữa truyền thuyết lịch sử và chuyện kể lịch sử.
2.4.2. Các công trình sưu tầm truyền thuyết, truyện dân gian Việt Nam nói chung hầu
hết chỉ tập hợp những câu chuyện xảy ra trước 1858. Do vậy thiếu vắng những truyền thuyết
về anh hùng buổi đầu chống Pháp. Phải chăng, thành tựu truyền thuyết dân gian từ sau 1858
(nhất là ở Nam Bộ) chưa đủ đầy đặn để được các nhà nghiên cứu lưu tâm khảo sát và thẩm
định?
2.4.3. Các công trình sưu tầm truyện dân gian Nam Bộ thực ra có đăng tải khá nhiều
truyền thuyết về các anh hùng buổi đầu chống Pháp ở Nam Bộ. Tuy nhiên, hầu hết tác phẩm
chưa được phân định rạch ròi về thể loại. Chúng thường được gọi chung là chuyện xưa (cố
sự), truyện dân gian, hoặc là giai thoại. Điều này buộc chúng tôi, để sưu tầm, tuyển chọn
đúng tác phẩm, cần phải định danh tất cả tự sự dân gian có nội dung kể về những cuộc khởi
nghĩa chống Pháp ở Nam Bộ.
2.4.4. Một số công trình sưu tầm, biên khảo truyện dân gian Nam Bộ được thực hiện
bởi một cá nhân, lại được biên tập và in ấn bởi các nhà xuất bản địa phương. Từ đó phát sinh
một số điều “chưa ổn”. Cụ thể, đó là lối diễn đạt riêng, theo phong cách ngôn ngữ viết làm
mất đi sự tươi mới, sinh động của phương ngữ Nam Bộ. Đó là hiện tượng sai chính tả, lỗi cú
pháp trong các văn bản kể - hoàn toàn không phải phong cách dân gian. Điều này buộc
chúng tôi, khi sưu tầm,