Luận văn Tự do hóa thương mại dịch vụ phân phối theo yêu cầu WTO

Ngành dịch vụ phân phối là ngành kinh tế quốc dân quan trọng, không chỉ ở việc chiếm tỉ lệ 13 – 14% GDP cả nước, mà còn ở ý nghĩa kinh tế - xã hội khi nó là cầu nối giữa nhà sản xuất và người tiêu dùng. Với vai trò chi phối mạnh mẽ các ngành sản xuất công – nông nghiệp, ngành dịch vụ phân phối có ý nghĩa quan trọng trong an ninh kinh tế quốc gia. Hiện nay, có một thực tế là hệ thống phân phối của Việt Nam đang bị đánh giá là rất yếu kém về tài chính, quản lý, thiếu chuyên môn, thiếu sự liên kết, và rất dễ bị tiêu diệt bởi các tập đoàn phân phối khổng lồ của thế giới trong cạnh tranh ngay trên sân nhà, thì sự quan tâm của Nhà nước và xã hội lại hoàn toàn chưa tương xứng mà biểu hiện cụ thể nhất là các quy định của pháp luật về lĩnh vực này còn chứa đựng nhiều mâu thuẫn và hạn chế. Hơn thế nữa, sự phức tạp và tỷ lệ 85% của kênh phân phối truyền thống (chợ và tiệm tạp hóa nhỏ) trong hệ thống phân phối khiến nhiều ý kiến lo ngại rằng gia nhập WTO, ngành phân phối non trẻ của Việt Nam sẽ là ngành đầu tiên chịu ảnh hưởng trực tiếp từ cạnh tranh và có thể sẽ bị nuốt chửng bởi các tập đoàn khổng lồ của thế giới. Tuy nhiên, ngay cả khi phải đối mặt với những khó khăn đó, không một chuyên gia kinh tế nào phủ định được những mặt, những khía cạnh tích cực mà tự do hóa thương mại dịch vụ mang lại cho người tiêu dùng và xã hội. Chấp nhận tự do hóa, chấp nhận cạnh tranh nghĩa là chấp nhận một cơ chế minh bạch và bình đẳng trước pháp luật trong gia nhập thị trường nhưng không đồng nghĩa với chấp nhận sự lạm dụng vị thế kẻ mạnh (chủ yếu là nhà đầu tư nước ngoài) để chèn ép kẻ yếu (chủ yếu là các doanh nghiệp trong nước), từng bước khống chế rồi thống trị thị trường. Đứng trước hoàn cảnh thực tế nhiều mâu thuẫn như vậy, một chính sách vĩ mô cho ngành dịch vụ phân phối cần được nghiên trên cơ sở những tư tưởng cơ bản thể hiện trong các quy phạm pháp luật hiện hành đang điều chỉnh ngành thương mại này, và so sánh với các nội dung chủ yếu trong các cam kết WTO của Chính phủ ta ở lĩnh vực này. Hơn thế nữa, việc hình dung và khái quát hóa một lộ trình phát triển [quy luật phát triển nội tại] của chúng [các quy phạm pháp luật] trong thời gian tới trên cơ sở nỗ lực duy trì sự cân bằng lợi ích kinh tế, bằng các điều tiết của Nhà nước bằng pháp luật, giữa tự do thương mại và bảo hộ hay an ninh kinh tế quốc gia không chỉ có ý nghĩa lý luận mà còn có giá trị thực tiễn quan trọng.

docx60 trang | Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 2366 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Tự do hóa thương mại dịch vụ phân phối theo yêu cầu WTO, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỞ ĐẦU 1.         Tính cấp thiết của đề tài Ngành dịch vụ phân phối là ngành kinh tế quốc dân quan trọng, không chỉ ở việc chiếm tỉ lệ 13 – 14% GDP cả nước, mà còn ở ý nghĩa kinh tế - xã hội khi nó là cầu nối giữa nhà sản xuất và người tiêu dùng. Với vai trò chi phối mạnh mẽ các ngành sản xuất công – nông nghiệp, ngành dịch vụ phân phối có ý nghĩa quan trọng trong an ninh kinh tế quốc gia. Hiện nay, có một thực tế là hệ thống phân phối của Việt Nam đang bị đánh giá là rất yếu kém về tài chính, quản lý, thiếu chuyên môn, thiếu sự liên kết, và rất dễ bị tiêu diệt bởi các tập đoàn phân phối khổng lồ của thế giới trong cạnh tranh ngay trên sân nhà, thì sự quan tâm của Nhà nước và xã hội lại hoàn toàn chưa tương xứng mà biểu hiện cụ thể nhất là các quy định của pháp luật về lĩnh vực này còn chứa đựng nhiều mâu thuẫn và hạn chế. Hơn thế nữa, sự phức tạp và tỷ lệ 85% của kênh phân phối truyền thống (chợ và tiệm tạp hóa nhỏ) trong hệ thống phân phối khiến nhiều ý kiến lo ngại rằng gia nhập WTO, ngành phân phối non trẻ của Việt Nam sẽ là ngành đầu tiên chịu ảnh hưởng trực tiếp từ cạnh tranh và có thể sẽ bị nuốt chửng bởi các tập đoàn khổng lồ của thế giới. Tuy nhiên, ngay cả khi phải đối mặt với những khó khăn đó, không một chuyên gia kinh tế nào phủ định được những mặt, những khía cạnh tích cực mà tự do hóa thương mại dịch vụ mang lại cho người tiêu dùng và xã hội. Chấp nhận tự do hóa, chấp nhận cạnh tranh nghĩa là chấp nhận một cơ chế minh bạch và bình đẳng trước pháp luật trong gia nhập thị trường nhưng không đồng nghĩa với chấp nhận sự lạm dụng vị thế kẻ mạnh (chủ yếu là nhà đầu tư nước ngoài) để chèn ép kẻ yếu (chủ yếu là các doanh nghiệp trong nước), từng bước khống chế rồi thống trị thị trường. Đứng trước hoàn cảnh thực tế nhiều mâu thuẫn như vậy, một chính sách vĩ mô cho ngành dịch vụ phân phối cần được nghiên trên cơ sở những tư tưởng cơ bản thể hiện trong các quy phạm pháp luật hiện hành đang điều chỉnh ngành thương mại này, và so sánh với các nội dung chủ yếu trong các cam kết WTO của Chính phủ ta ở lĩnh vực này. Hơn thế nữa, việc hình dung và khái quát hóa một lộ trình phát triển [quy luật phát triển nội tại] của chúng [các quy phạm pháp luật] trong thời gian tới trên cơ sở nỗ lực duy trì sự cân bằng lợi ích kinh tế, bằng các điều tiết của Nhà nước bằng pháp luật, giữa tự do thương mại và bảo hộ hay an ninh kinh tế quốc gia không chỉ có ý nghĩa lý luận mà còn có giá trị thực tiễn quan trọng. 2.         Tình hình nghiên cứu về đề tài             Hiện tại, các nghiên cứu về luật thương mại rất phong phú, tập trung ở rất nhiều chủ đề: quy chế thương nhân, hành vi thương mại, hợp đồng mua bán hàng… Tuy nhiên, riêng đối với lĩnh vực phân phối mới chỉ có một số nghiên cứu nhỏ, được thể hiện dưới hình thức những bài báo trên một số tạp chí khoa học pháp lý của các tác giả. Tương tự, có rất nhiều các nghiên cứu tổng quát về các vấn đề pháp lý trong việc gia nhập WTO cũng như các cam kết của Chính phủ cũng như tác động của nó đến hệ thống pháp luật Việt Nam, nhưng chưa có nghiên cứu riêng, cụ thể về lĩnh vực phân phối. Bên cạnh đó, đối với một số chuyên mục của đề tài như franchising, đại lý mua bán hàng hóa, hiện đã có luận văn thạc sỹ luật học và khóa luận tốt nghiệp đề cập, chẳng hạn, luận văn  “Những vấn đề lý luận và thực tiễn về nhượng quyền thương mại tại Việt Nam” của học viên Nguyễn Thị Minh Huệ bảo vệ năm 2005 tại Đại học Luật Hà Nội ( luận văn này viết vào thời điểm Việt Nam chưa gia nhập WTO). 3.         Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu Mục đích của việc nghiên cứu đề tài là làm sáng tỏ các nội dung của tự do hóa thương mại dịch vụ phân phối theo yêu cầu WTO; đánh giá đúng thực trạng pháp luật về   thương mại dịch vụ phân phối và phân tích tác động của các cam kết WTO đối với sự điều chỉnh pháp luật về thương mại dịch vụ phân phối ở Việt Nam. Để đạt được mục đích nói trên, luận văn cần giải quyết những nhiệm vụ sau đây: -           Làm sáng tỏ nội dung của tự do hóa thương mại dịch vụ phân phối theo các yêu cầu của WTO. -           Phân tích nội dung các cam kết WTO của Việt Nam về thương mại dịch vụ phân phối. -           Đánh giá thực trạng pháp luật Việt Nam về thương mại dịch vụ phân phối. -           Phân tích sự tác động của các cam kết WTO của Việt Nam về thương mại dịch vụ phân phối đối với sự điều chỉnh pháp luật về thương mại dịch vụ phân phối. 4.         Phương pháp luận và các phương pháp nghiên cứu Luận văn vận dụng các nguyên tắc, phương pháp luận triết học duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác – Lênin, của tư tưởng Hồ Chí Minh. Các phương pháp nghiên cứu cụ thể được vận dụng trong luận văn là các phương pháp: diễn dịch, quy nạp, so sánh, lịch sử, khảo sát, thống kê.   5.         Ý nghĩa của việc nghiên cứu Các kết quả nghiên cứu của đề tài có thể trở thành tài liệu tham khảo hữu ích đối với những người nghiên cứu, học tập về vấn đề tự do hóa thương mại dịch vụ phân phối và tác động của các cam kết WTO của Việt Nam về thương mại dịch vụ phân phối đối với sự điều chỉnh pháp luật về thương mại dịch vụ phân phối. 6.         Cơ cấu của luận văn Cơ cấu luận văn bao gồm 4 phần: Mở đầu, nội dung, kết luận và phụ lục.             Phần 1: Mở đầu             Phần 2: Nội dung, bao gồm 2 chương:             Nội dung chương 1 về tự do hóa thương mại dịch vụ phân phối theo các yêu cầu của WTO và các cam kết của Chính phủ Việt Nam . Chương 1 tập trung làm rõ vấn đề tự do hóa thương mại dịch vụ phân phối trong tình hình hiện nay trên thế giới và ở Việt Nam . Chương 1 nhấn mạnh về tính hiện thực của tự do hoá thương mại từ thương mại hàng hoá đến thương mại dịch vụ như một xu hướng tất yếu thể hiện qua Hiệp định thương mại tự do về dịch vụ của Tổ chức Thương mại thế giới WTO – Hiệp định GATS. Chương 1 cũng đặt trọng tâm phân tích những cam kết chung của Việt Nam trong lĩnh vực dịch vụ và phân phối từ góc độ quan điểm lập pháp và chính sách thương mại.             Nội dung chương 2 về thực trạng pháp luật Việt Nam và tác động của các cam kết WTO và xu hướng phát triển của quy phạm pháp luật đối với ngành thương mại dịch vụ phân phối. Chương 2 dành cho việc phân tích, đánh giá hiện trạng pháp luật Việt Nam (trước khi gia nhập WTO và sau khi gia nhập WTO) về ngành dịch vụ phân phối nói chung và từng lĩnh vực của phân phối nói riêng như: dịch vụ đại lý ủy quyền, dịch vụ bán buôn, dịch vụ bán lẻ, franchising. Trên cơ sở những phân tích về hiện trạng, đối chiếu với quy định của WTO, chương 2 tập trung vào việc phát hiện những nét thay đổi của các quy phạm pháp luật để chỉ ra sự tác động của các cam kết WTO và xu hướng phát triển của các quy phạm pháp luật ngành dịch vụ phân phối nói chung.             Phần 3: Kết luận             Kết luận của đề tài được rút ra và tóm tắt từ những kết quả nghiên cứu ở Chương 1 và Chương 2.             Phần 4: Phụ lục. Chương 1:           TỰ DO HÓA THƯƠNG MẠI DỊCH VỤ PHÂN PHỐI THEO CÁC YÊU CẦU CỦA WTO VÀ CÁC CAM KẾT CỦA VIỆT NAM 1.1.      Tự do hóa thương mại- một xu hướng tất yếu của đời sống kinh tế -xã hội 1.1.1. Tự do hóa thương mại là gì ? Tự do là một phạm trù quan trọng của triết học và chính trị, nhưng tự do hóa thì lại thường được hiểu như là sự chuyển biến, thay đổi trong các chính sách kinh tế xã hội của Chính phủ theo hướng cởi mở, nới lỏng so với những quy định đã thiết lập trước đó.[1] Thông thường, người ta sử dụng nhóm các thuật ngữ tự do hoá kinh tế, tự do hoá thương mại, tự do hoá thị trường vốn, và gọi chung chúng trong chính sách tân tự do hay chủ nghĩa tự do mới để phân biệt với chủ nghĩa tự do kinh tế, hay chủ nghĩa tự do cổ điển hoặc chủ nghĩa tự do Manchester, là một hệ tư tưởng ủng hộ quyền tư hữu và tự do khế ước. Với chủ nghĩa tự do cổ điển, quyền tư hữu và tự do khế ước (hay tự do hợp đồng) là thiêng liêng và bất khả xâm phạm, là nền tảng để thực thi các quyền tự do khác. Vì thế, chủ nghĩa tự do cổ điển quan niệm nền kinh tế và thị thường có khả năng tự điều tiết theo các quy luật riêng của nó, và trách nhiệm của Chính phủ chỉ đơn thuần là dỡ bỏ các rào cản pháp lý hạn chế thương mại và chấm dứt những ưu đãi của Chính phủ đối với một số ít các đối tượng bao cấp hay hưởng độc quyền. Một số kinh tế gia của chủ nghĩa tự do kinh tế còn muốn rằng Chính phủ điều tiết thị trường càng ít càng tốt hay thậm chí không điều tiết gì cả. Một số khác lại chấp nhận các hạn chế mà Chính phủ đặt ra đối với các công ty độc quyền và cartel, một số khác lại tranh luận rằng chính các hành động của chính phủ đã tạo ra các công ty độc quyền và cartel. Chủ nghĩa tự do kinh tế quan niệm giá trị của hàng hóa và dịch vụ nên được quyết định bởi sự lựa chọn tự do của các cá nhân, tức là theo các động lực của thị trường. Một số thậm chí còn cho rằng cần cho phép các quy luật thị trường hoạt động ngay cả trong những lĩnh vực mà theo truyền thống vẫn do chính phủ độc quyền, như an ninh và tòa án. Chủ nghĩa tự do kinh tế chấp nhận sự bất bình đẳng kinh tế xuất phát từ vị trí thỏa thuận không cân bằng (unequal bargaining position), vì theo họ, nó là kết quả tự nhiên của cạnh tranh, miễn là không có sự cưỡng bách. Chủ nghĩa tư bản chính phủ ít can thiệp và chủ nghĩa tư bản vô chính phủ là các hình thức khác của chủ nghĩa tự do kinh tế. Những năm 1970, với sự bắt đầu của toàn cầu hóa, khi chủ nghĩa tự do kinh tế đối mặt với cuộc khủng hoảng đầu tiên của thế giới về giá dầu mỏ, thì chủ nghĩa tân tự do xuất hiện như là một học thuyết về sự tự do kinh tế quốc tế với nội dung chính là: (1) giảm thiểu các hàng rào thương mại đang hạn chế thị trường trong nước, và (2) quyền lực và ảnh hưởng quốc gia để ép buộc mở cửa thị trường nước ngoài. Chủ nghĩa tân tự do chấp nhận sự can thiệp của nhà nước vào nền kinh tế, nhất là vai trò của một ngân hàng trung ương mạnh có khả năng điều tiết kinh tế thông qua chính sách lãi suất. Sau đó, những năm 1990, các chính sách kinh tế tân tự do ("neoliberal”) còn gắn liền với tư nhân hóa công nghiệp (quá trình cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước) và mở cửa thị trường nội địa. Là một bộ phận của chính sách tân tự do, nhưng khái niệm tự do hóa thương mại lại được sự ủng hộ mạnh mẽ cả từ chủ nghĩa tự do cổ điển, khi nó diễn đạt một quá trình, một vận động xã hội, có hoặc không có sự ảnh hưởng, sự tương tác, hay sự điều khiển có chủ đích của Nhà nước, định hướng nhằm đạt đến thương mại tự do. Nội dung cơ bản của thương mại tự do, một khái niệm trong nhiều trường hợp bị gắn cho những ý nghĩa chính trị, bao gồm những nét khái quát như sau: -           Thương mại tự do về hàng hóa không có thuế quan (hay không bị giới hạn bởi những hàng rào thuế quan); -           Thương mại tự do về dịch vụ không bị thuế quan (và những hàng rào cản thương mại); -           Tự do lưu chuyển nguồn lao động giữa các quốc gia; -           Tự do lưu chuyển vốn – tài chính giữa các quốc gia; -           Sự vắng mặt của những chính sách thương mại bảo hộ (như là thuế, tiền trợ cấp, quy định, hay luật) cho những xí nghiệp trong nước, các hộ gia đình, và kể cả cho các yếu tố sản xuất của nước ngoài đang hiện diện tại quốc gia sở tại mà có lợi thế; bên cạnh sự vắng mặt của những chính sách bóp méo thương mại nhằm mục đích củng cố quyền sở hữu để bảo đảm cho quyền lợi của những đối tượng này.[2] Các nội dung trên đây của thương mại tự do diễn đạt hai góc độ: góc độ mô hình, kiểu thị trường và góc độ chính sách thương mại của một Chính phủ. Vì thế, trong thương mại quốc tế, thương mại tự do được hiểu như là một kiểu thị trường cạnh tranh lý tưởng với phạm vi vượt ra ngoài lãnh thổ một quốc gia, và đồng thời, cũng thường được xem như là một mục tiêu chính trị đa quốc gia, mà sự trao đổi hàng hóa và dịch vụ giữa các quốc gia này sẽ được thực hiện mà không có sự kiểm soát bằng những chính sách nhập khẩu. Trong giới khoa học kinh tế, thương mại tự do còn được cổ súy bởi những người theo trường phái kinh tế học tân cổ điển và các nhà kinh học tế vi mô. Theo sự diễn đạt của họ, khi lợi ích của thương mại chính là giá trị thực có được của cả hai bên tham gia vào quá trình thương mại, thì thương mại tự do chính là sự gia tăng các giá trị thực cho xã hội. Thế nhưng, trái với lý luận của họ, thương mại tự do hiện đang bị chống đối mạnh mẽ từ phong trào chống toàn cầu hóa với nhữung cuộc biểu tình mà đa số người tham gia là nhân dân lao động tại nhiều quốc gia. Những người biểu tình cho rằng thương mại tự do đang bị lạm dụng bởi các nước giàu có. 1.1.2. Tính hiện thực của xu hướng tự do hóa thương mại Có rất nhiều tranh luận về vai trò, tính chất, ý nghĩa và tác động của toàn cầu hóa, quốc tế hóa trong đời sống xã hội, nhưng mọi người đều đồng ý rằng, theo sự phát triển vượt bậc của khoa học kỹ thuật và công nghệ, nhất là viễn thông và công nghệ thông tin, quá trình toàn cầu hóa, quốc tế hóa đã hiện diện ở khắp nơi trong mọi ngóc ngách của xã hội loài người. Sự hiện diện ở khắp nơi của toàn cầu hóa, quốc tế hóa có thể bắt nguồn và được tiếp sức từ quy luật phát triển và không ngừng mở rộng thị trường tiêu thụ của chủ nghĩa tư bản quốc tế, thì đương nhiên, tự do hóa thương mại cũng khẳng định tính hiện thực của mình trong thương mại quốc tế mà biểu hiện rõ ràng nhất là sự ra đời của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) và hàng loạt các tổ chức thương mại quốc tế khác để xây dựng các khu vực tự do thương mại, hoặc thị trường chung. Cụ thể, có thể liệt kê một số tổ chức thương mại quốc tế lớn như: -           WTO hay Tổ chức Thương mại Thế giới (tên tiếng Anh là World Trade Organization, viết tắt WTO) là một tổ chức quốc tế đặt trụ sở ở Genève, Thụy Sĩ, có chức năng giám sát các hiệp định thương mại giữa các nước thành viên với nhau theo các quy tắc thương mại. Hoạt động của WTO nhằm mục đích loại bỏ hay giảm thiểu các rào cản thương mại để tiến tới tự do thương mại. Tính đến ngày 25 tháng 1 năm 2008, WTO có 152 thành viên là quốc gia và vùng lãnh thổ. -           NATFA hay Hiệp định Thương mại Tự do Bắc Mỹ (tên tiếng Anh là North America Free Trade Agreement, viết tắt là  NAFTA): là Hiệp định thương mại tự do giữa ba nước Canada , Mỹ và Mexico , ký kết ngày 12/8/1992, hiệu lực từ ngày 1/01/1994. -           EU hay Liên minh Châu Âu (tên tiếng Anh là European Union, viết tắt EU): Ngay từ năm 1987, EU bắt đầu triển khai kế hoạch xây dựng "Thị trường nội địa thống nhất Châu Âu" trước khi hình thành Liên minh kinh tế và tiền tệ trong những năm thập niên 90 của thế kỷ XX, rồi đến Liên minh về chính trị và an ninh. -           AFTA hay Khu vực Mậu dịch Tự do ASEAN (tên tiếng Anh là ASEAN Free Trade Area, viết tắt là AFTA)  là một hiệp định thương mại tự do đa phương giữa các nước trong khối ASEAN. Hiệp định về AFTA được ký kết vào năm 1992 tại Singapore, với sáu nước ban đầu là Brunei, Indonesia, Malaysia, Philippines, Singapore và Thái Lan (gọi chung là ASEAN-6). Các nước Campuchia, Lào, Myanma và Việt Nam (gọi chung là CLMV) được yêu cầu tham gia AFTA khi được kết nạp vào khối này. -           SAFTA hay Hiệp định Khu vực Thương mại tự do Nam Á (tên tiếng Anh là The South Asia Free Trade Area) được ký tại cuộc họp cấp cao Hiệp hội Hợp tác Khu vực Nam Á tổ chức ơ Pakistan tháng 1/2004, đã chính thức có hiệu lực kể từ ngày 1/1/2006 với sự tham gia của 7 nước thành viên gồm: Bangladesh, Sri Lanka, Nepal, Pakistan, Bhutan, Maldives và Ấn Độ. Từ thực tiễn đời sống chuyển vào pháp luật, bên cạnh việc hình thành những hiệp định thương mại tự do đa phương với nhiều quốc gia, thương mại tự do còn khẳng định sự hiện diện của mình qua sự bùng nổ của hàng loạt các hiệp định tự do hóa thương mại song phương. Chẳng hạn, chỉ trong đầu năm 2004, người ta vừa chứng kiến một Hiệp định thương mại tự do song phương (viết tắt là FTA) giữa Hàn Quốc và Chi-lê được ký kết và có hiệu lực, thì Trung Quốc và Ấn Độ cũng khởi động đàm phán để ký FTA, và ngay sau đó, một FTA giữa Thái Lan và Úc đã được ký kết. Hơn thế nữa, Thái Lan và Úc đều đang nỗ lực đàm phán để ký kết FTA với Mỹ. Ngoài ra, một FTA giữa Thái Lan và Niu Di-lân sắp trở thành hiện thực. Ngay trước đó, Singapore ký FTA với Nhật Bản, rồi ký FTA với Thái Lan, rồi với Mỹ, hiệp định chính thức có hiệu lực từ năm 2004. Tại Việt Nam, tính hiện thực của quá trình tự do hóa thương mại chính là quá trình đổi mới và hội nhập kinh tế quốc tế trong tổng thể chuyển biến kinh tế từ mô hình tập trung quan liêu bao cấp sang mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, và trong pháp luật, đó là sự mở rộng quyền tự do kinh doanh thương mại (đối tượng hưởng quyền, nội dung hàng hóa thực hiện tự do kinh doanh, …) liên tục trong suốt thời gian qua. 1.1.3. Tự do hóa thương mại ngành dịch vụ phân phối tại Việt Nam – một xu thế tất yếu từ chính cuộc sống trước cả khi nước ta gia nhập WTO a.         Khái niệm “phân phối” và “dịch vụ phân phối” Theo Từ điển Bách khoa mở Wiki, bản tiếng Anh, Wikipedia – The free encyclopedia thì “phân phối” (distribution) trong kinh doanh (business) là một trong bốn khía cạnh của hoạt động ma-két-ting (marketing), mà cụ thể là ma-két-ting hỗn hợp (marketing mix).[3] Thuật ngữ marketing mix ra đời lần đầu tiên vào đầu những năm 1960 bởi Giáo sư Neil Borden, Trường dạy kinh doanh Harvard (Mỹ) để ám chỉ việc thực hiện đồng thời bốn (04) vấn đề: nội dung, cách thức, phương thức tương tác thể hiện hoạt động kinh doanh của một số công ty Mỹ đã có ảnh hưởng rất tích cực đáng kể đến người tiêu dùng, đó là:  Sản phẩm (hay dịch vụ) - product, Chính sách giá bán - pricing, Chính sách ưu đãi và khuyến mãi – promotion và Vấn đề nơi chốn, cách thức bán sản phẩm (hay dịch vụ) - placement (một số gọi tắt là place) hoặc distribution. Như vậy, ban đầu, khi đề cập đến phân phối (distribution), đó là khía cạnh địa điểm thực hiện bán hàng tương ứng theo địa lý, lãnh thổ quốc gia, nhưng về sau, cùng sự phát triển của thương mại, nội dung chủ yếu của phân phối là kênh phân phối (distribution channel) hay cách thức một sản phẩm đến tay người tiêu dùng. [4] Thành công và hiệu quả trong vận dụng marketing mix đã khiến nó trở thành phổ cập và được sử dụng rộng rãi trên khắc thế giới. Bên cạnh đó, khi quy trình tích tụ tư bản đã hình thành nên những tập đoàn kinh tế khổng lồ, có năng lực sản xuất đủ để tạo ra một khối lượng sản phẩm (hay dịch vụ) ở quy mô cực lớn có thể đáp ứng nhu cầu của nhiều triệu người, thuộc nhiều quốc gia khác nhau thì vấn đề cách thức bán, giao sản phẩm đến người tiêu dùng là cực kỳ quan trọng và mang tính sống còn với tập đoàn kinh tế đó. Do vậy, bên cạnh việc doanh nghiệp tự tổ chức phân phối sản phẩm (hay dịch vụ) đến người tiêu dùng, thì sự xuất hiện những doanh nghiệp cung cấp dịch vụ phân phối chuyên nghiệp là tất yếu. Vì thế, trong thương mại và kinh doanh, dịch vụ phân phối (cũng đồng thời là hành vi phân phối) cần được định nghĩa là việc thực hiện một phần hay toàn bộ các hoạt động có liên quan đến tổ chức điều hành và vận chuyển hàng hóa từ người sản xuất đến người tiêu dùng. Và thông thường, dễ thấy nhất, dịch vụ phân phối do các nhà bán buôn và bán lẻ thực hiện là bán lại hàng hoá, kèm theo hàng loạt các dịch vụ phụ trợ có liên quan (phục vụ cho quá trình bán hàng) như: bảo quản lưu kho hàng hoá; bốc rỡ, lắp ráp, sắp xếp và phân loại đối với hàng hoá có khối lượng lớn; và một loạt các dịch vụ liên quan đến người bán buôn và bán lẻ như chế biến, kho hàng, dịch vụ bảo quản lạnh, bãi đỗ xe. Hoạt động phân phối còn cung cấp cho người tiêu dùng một loạt các dịch vụ bổ sung khác như việc giúp cho bên cầu có sự lựa chọn chính xác hơn, và tăng sự thuận tiện khi mua hàng. Tuy nhiên, trên thực tế, trong một số trường hợp, vì cung cấp thêm một số dịch vụ này, thậm chí tham gia cả vào một số chức năng của sản xuất (đặt cọc trước, kiểm soát và quản lý chất lượng) nên ranh giới giữa nhà sản xuất và nhà phân phối có thể là không rõ ràng, đặc biệt, khi phân phối dịch vụ, người cung ứng dịch vụ đồng thời cũng là người phân phối dịch vụ. Theo Tổ chức Thương mại Thế giới WTO thì dịch vụ phân phối định nghĩa (bằng cách liệt kê) với bốn (04) nhóm chính là: dịch vụ đại lý ủy quyền (comission agents’ services, ký hiệu CPC 621), dịch vụ bán buôn (wholesale trade services, ký hiệu CPC 622), dịch vụ
Luận văn liên quan