Tư tưởng biện chứng của Hồ Chí Minh về mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc với vấn đề giai
cấp là m ột trong những nhân tố đảm bảo thành công của cách mạng Việt Nam, một trong
những đóng góp xuất sắc của Người vào kho tàng lý luận cách mạng của chủ nghĩa Mác -Lênin.
Quá trình hình thành tư tưởng về vấn đề giai cấp và vấn đề dân tộc của Hồ Chí Minh đã gắn
liền với cuộc đời hoạt động cách mạng của Người ngay từ những năm cuối thế kỷ XIX, đầu
thế kỷ XX. Như mọi người đều thấy rõ, trước khi học thuyết Mác – Lênin được truyền bá vào
Việt Nam thì các phong trào yêu nước của người Việt Nam chống thực dân Pháp liên tục nổ
ra, nhưng kết cục đều thất bại. Nguyên nhân quan trọng nhất khiến cho các phong trào đó thất
bại chính là do bế tắc về đường lối, mặc dù các bậc lãnh tụ của những phong trào yêu nước ấy
đã dành nhiều tâm huyết cho sự nghiệp của mình, nhưng do họ không nhận thức được xu thế
của thời đại, nên không thấy được giai cấp trung tâm của thời đại lúc này là giai cấp công
nhân - giai cấp đại biểu cho một phương thức sản xuất mới, một l ực lượng tiến bộ xã hội. Do
đó, mục tiêu đi tới của những phong trào ấy không phản ánh đúng xu thế vận động của lịch sử
và thời đại, nên không thể đem lại kết quả và triển vọng tốt đẹp cho sự phát triển của xã hội
Việt
25 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 1879 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Tư tưởng biện chứng của Hồ Chí Minh về mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc với vấn đề giai cấp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN:
Tư tưởng biện chứng của Hồ Chí
Minh về mối quan hệ giữa vấn đề dân
tộc với vấn đề giai cấp
BÀI TIỂU LUẬN
Tư tưởng biện chứng của Hồ Chí Minh về mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc với vấn đề giai
cấp là một trong những nhân tố đảm bảo thành công của cách mạng Việt Nam, một trong
những đóng góp xuất sắc của Người vào kho tàng lý luận cách mạng của chủ nghĩa Mác -
Lênin.
Quá trình hình thành tư tưởng về vấn đề giai cấp và vấn đề dân tộc của Hồ Chí Minh đã gắn
liền với cuộc đời hoạt động cách mạng của Người ngay từ những năm cuối thế kỷ XIX, đầu
thế kỷ XX. Như mọi người đều thấy rõ, trước khi học thuyết Mác – Lênin được truyền bá vào
Việt Nam thì các phong trào yêu nước của người Việt Nam chống thực dân Pháp liên tục nổ
ra, nhưng kết cục đều thất bại. Nguyên nhân quan trọng nhất khiến cho các phong trào đó thất
bại chính là do bế tắc về đường lối, mặc dù các bậc lãnh tụ của những phong trào yêu nước ấy
đã dành nhiều tâm huyết cho sự nghiệp của mình, nhưng do họ không nhận thức được xu thế
của thời đại, nên không thấy được giai cấp trung tâm của thời đại lúc này là giai cấp công
nhân - giai cấp đại biểu cho một phương thức sản xuất mới, một lực lượng tiến bộ xã hội. Do
đó, mục tiêu đi tới của những phong trào ấy không phản ánh đúng xu thế vận động của lịch sử
và thời đại, nên không thể đem lại kết quả và triển vọng tốt đẹp cho sự phát triển của xã hội
Việt Nam.
I Phần mở đầu
Tư tưởng biện chứng của Hồ Chí Minh về mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc với vấn đề giai cấp là
một trong những nhân tố đảm bảo thành công của cách mạ ng Việt Nam, một trong những đóng góp
xuất sắc của Người vào kho tàng lý luận cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin
Quá trình hình thành tư tưởng về vấn đề giai cấp và vấn đề dân tộc của Hồ Chí Minh đã gắn liền với
cuộc đời hoạt động cách mạng của Người ngay từ những năm cuối thế kỷXIX, đầu thế kỷ XX. Như
mọi người đều thấy rõ, trước khi học thuyết Mác - Lênin được truyền bá vào Việt Nam thì các phong
trào yêu nước của người Việt Nam chống thực dân Pháp liên tục nổ ra, nhưng kết cục đều thất bại.
Nguyên nhân quan trọng nhất khiến cho các phong trào đó thất bại chính là do bế tắc về đường lối,
mặc dù các bậc lãnh tụ của những phong trào yêu nước ấy đã dành nhiều tâm huyết cho sự nghiệp của
mình, nhưng do họ không nhận thức được xu thế của thời đại, nên không thấy được giai cấp trung tâm
của thời đại lúc này là giai cấp công nhân - giai cấp đại biểu cho một phương thức sản xuất mới, một
lực lượng tiến bộ xã hội. Do đó, mục tiêu đi tới của những phong trào ấy không phản ánh đúng xu thế
vận động của lịch sử và thời đại, nên không thể đem lại kết quả và triển vọng tốt đẹp cho sự phát triển
của xã hội Việt Nam.
Trước yêu cầu bức xúc của vấn đề giải phóng dân tộc, từ chủ nghĩa yêu nước, người thanh niên yêu
nước Nguyễn Tất Thành đã quyết định ra đi tìm đường cứu nước. ''Công lao to lớn đầu tiên của Bác
đối với sự nghiệp cách mạng Việt Nam là đã tìm ra con đường cứu nước, khai phá con đường giải
phóng dân tộc và các dân tộc bị áp bức trên thế giới''.
Trong quá trình ra đi tìm đường cứu nước, qua khảo sát thực tế ở các nước trên các châu lục Âu, Phi,
Mỹ và ngay cả trên đất Pháp, Nguyễn Ái Quốc đã rút ra nhận xét : chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa thực
dân là nguồn gốc mọi sự đau khổ của công nhân, nông dân lao động ở cả “chính quốc” cũng như ở
thuộc địa. Nghiên cứu cuộc cách mạng dân chủ tư sản Mỹ(1776); Pháp (1789), Nguyễn Ái Quốc nhận
thấy các cuộc cách mạng này tuy nêu khẩu hiệu ''tựdo'', ''bình đẳng'', nhưng không đưa lại tự do, bình
đẳng thực sự cho quần chúng lao động. Người viết: Tiếng là cộng hoà, dân chủ kì thực trong thì nó
bóc lột công nông, ngoài thì nó áp bức thuộc địa. Tuy khâm phục các cuộc cách mạng ấy, nhưng
Nguyễn Ái Quốc cho rằng đó là cách mạng chưa đến nơi. Vì thế , Nguyễn Ái Quốc đã tích cực tham
gia hoạt động đấu tranh trong phong trào giải phóng của các dân tộc bị áp bức, phong trào giải phóng
giai cấp công nhân ở các nước tư bản. Chính vì vậy mà Nguyễn Ái Quốc đã tìm đến với cách mạng
Tháng Mười Nga, đến với V.I. Lênin; như một tất yếu lịch sử . Cách mạng Tháng Mười Nga thắng lợi
là một sự kiện chính trị đặc biệt quan trọng trong quá trình hoạt động tìm đường cứu nước của Nguyễn
Ái Quốc. Đặc biệt, sau khi đọc ''Sơ thảo lần thứ nhất Luận cương về dân tộc và thuộc địa” của V.I.
Lênin, Nguyễn Ái Quốc đã thấy rõ hơn con đường đúng đắn mà cách mạng Việt Nam sẽ trải qua.
Người khẳng định: ''Chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị
áp bứcvà những người lao động trên th ế giới khỏi ách nô lệ ''; rằng: ''Muốn cứu nước và giải phóng
dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản''. Kết luận trên đây của Nguyễn
Ái Quốc là sự khẳng định một hướng đi mới, nguyên tắc chiến lược mới, mục tiêu và giải pháp hoàn
toàn mới, khác về căn bản so với các lãnh tụ của các phong trào yêu nước trước đó ở Việt Nam; đưa
cách mạng giải phóng dân tộc vào qu ỹ đạo của cách mạng vô sản, tức là sự nghiệp cách mạng ấy phải
do Đả ng của giai cấp công nhân lãnh đạo, lấy hệt tư tưởng của chủ nghĩa Mác - Lênin làm nền tảng.
Vì vậy, con đường phát triển tất yếu của cách mạng giải phóng dân tộc phải phát triển thành cách
mạng XHCN. Người chỉ rõ: ''Cách mạng giải phóng dân tộc phải phát triển thành cách mạng xã hội
chủ nghĩa thì mới giành được thắng lợi hoàn toàn''.
Trong quá trình hoạt động thực tiễn cách mạng, Nguyễn Ái Quốc đã đấu tranh và chỉ đạo giải
quyết mối quan hệ giữa giải phóng dân tộc và giải phóng giai cấp, bền bỉ chống các quan
điểm không đúng về vấn đề dân tộc và thuộc địa, đã phát triển lý luận về cách mạng giải
phóng dân tộc. Ngay từ khi hoạt động trong phong trào công nhân ở Pháp, Người đã nhận
thấy một hố sâu ngăn cách giữa giai cấp công nhân và nhân dân lao động ''chính quốc'' với
giai cấp công nhân và nhân dân lao động thuộc địa. Đó là chủ nghĩa sô-vanh nước lớn của các
dân tộc đi thống trị và chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi đối với các dân tộc bị thống trị.
Đối với Đảng Cộng sản Việt Nam, ngay từkhi mới thành lập, trong ''Chính cương vắn tắt'' do Nguyên
Ái Quốc khởi thảo đã khẳng định: ''Chủ trương làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng
để đi tới xã hội cộng sản''. Như vậy là, lần đầu tiên trong lịch sử cách mạng Việt Nam, với Hồ Chí
Minh, sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc gắn liền vi cách mạng XHCN. Cuộc cách mạng này kết
hợp trong bản thân nó tiến trình của hai sự nghiệp giải phóng: giải phóng dân tộc khỏi ách nô lệ thực
dân và giải phóng giai cấp khỏi ách áp bức bóc lột. Vấn đề dân tộc được giải quyết trên lập trường của
giai cấp công nhân - điều đó phù hợp với xu thế thời đại và lợi ích của các giai cấp và lực lượng tiến bộ
trong dân tộc. Sức mạnh đi tới thắng lợi của cách mạ ng Việt Nam không phải là cái gì khác mà là
mục tiêu dân tộc luôn thống nhất với mục tiêu dân chủ trên cơsở định hướng XHCN. Đặc điểm nổi
bật của cách mạng Việt Nam là cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân triệt để , tạo tiền đề cho bước
chuyển sang thời kỳ quá độ lên CNXH; tức là, cách mạng XHCN là bước kế tiếp ngay khi cách mạng
dân tộc dân chủ nhân dân thắng lợi và giữ a hai cuộc cách mạng này không có một bức tường nào
ngăn cách.Đây la tư tưởng hết sức căn bản của tư tưởng Hồ Chí Minh: chỉ có hoàn thành cách
mạng giải phóng dân tộc mới có điều kiện để tiến lên CNXH và chỉ có cách mạng XHCN mới giữ
vững được thành quả cách mạng giải phóng dân tộc, mới mang lại cuộc sống ấm no, tựdo, hạnh phúc
cho mọi tầng lớp nhân dân, mới có độc lập dân tộc thực sự
Như chúng ta đều biết, Hồ Chí Minh đã đi từ chủ nghĩa yêu nước đến với chủ nghĩa Mác - Lênin. T ừ
đó, Người đã phát huy cao độ chủ nghĩa yêu nước truyền thống Việ t Nam, trong sự thống nhất với
chủ nghĩa quốc tế vô sản. Bởi vậy, trong tư tưởng Hồ Chí Minh, đúng như Ph. Ăng-Ghen đã nói:
Những tư tưởng dân tộc chân chính... đồng thời cũng là những tư tưởng quốc tế chân chính. Sự phát
triển tư tưởng HồChí Minh đã chỉ đạo sự phát triển của thực tiễn cách mạng Việt Nam, trong sự thúc
đẩy lẫn nhau giữa dân tộc và giai cấp, ý thức giác ngộ về cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc là tiền đề
quyết định nhất, cũng là động lực chủ yếu để Nguyễn Ái Quốc đến với chủ nghĩa Mác - Lênin và tiếp
thu quan điểm mác-xít về giai cấp. Đó chính là nhân tố đảm bảo tính khoa học và cách mạng cho sự
phát triển tinh thần dân tộc đúng đắn ở người chiến sĩ cộng sản Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về sự kết hợp, gắn bó hữu cơ giữa hai quá trình đấu tranh cách mạng: giải
phóng dân tộc và cách mạng vô sản không phải chỉ là chứng minh cho sựđúng đắn của chủ nghĩa Mác
- Lênin, mà còn là sự phát triển sáng tạo và có giá trị định hướng rất cơbản. Qua thực tiễn đấu tranh và
lãnh đạo cách mạng Việt Nam, luôn bám sát đặc điểm thực tiễn Việt Nam và tham khảo kinh nghiệm
các nước khác, Hồ Chí Minh đã có những giải pháp đúng đắn, sáng tạo, đáp ứng đòi hỏi của lịch sử ,
góp phần làm phong phú thêm kho tàng lý luận của chủ nghĩa
Mác - Lênin; đó cũng chính là nguồn gốc sức mạnh của cách mạng nước ta trong suốt bảy thập kỷ
qua.
II Phần nội dung:
1.Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc.
Dân tộc là vấn đề rộng lớn, bao gồm những quan hệ về chính trị, kinh tế, lãnh thổ,
pháp lý, tư tưởng và văn hoá giữa các dân tộc, các nhóm dân tộc và bộ tộc.
- Theo quan điểm của Chủ nghĩa Mác-Lênin, dân tộc là sản phẩm của quá trình
phát triển lâu dài của lịch sử.
+ Mác-Ăngghen đã đặt nền móng tư tưởng cho việc giải quyết vấn đề dân tộc một
cách khoa học.
Hình thức cộng đồng tiền dân tộc như thị tộc, bộ tộc, bộ lạc. Sự phát triển của chủ nghĩa tư
bản dẫn đến sự ra đời của các dân tộc tư bản chủ nghĩa. Chủ nghĩa tư bản bước sang giai
đoạn đế quốc chủ nghĩa, các nước đế quốc thi hành chính sách vũ trang xâm lược, cướp
bóc, nô dịch các dân tộc nhỏ từ đó xuất hiện vấn đề dân tộc thuộc địa. Mác và Ăngghen nêu
lên quan điểm cơ bản có tính chất phương pháp luận để nhận thức và giải quyết vấn đề
nguồn gốc, bản chất của dân tộc, những quan hệ cơ bản của dân tộc, thái độ của giai cấp
công nhân và Đảng của nó về vấn đề dân tộc.
+ Lênin đã phát triển quan điểm này thành hệ thống lý luận toàn diện và sâu sắc về vấn đề
dân tộc, làm cơ sở cho cương lĩnh, đường lối, chính sách của các Đảng Cộng sản về vấn
đề dân tộc. Trong đó đáng chú ý là các vấn đề:
+ Sự thức tỉnh ý thức dt, phong trào đấu tranh chống ap bức dt sẽ dẫn đến hình thành các
quốc gia dt độc lập.
+ Với việc tăng cường và phát triển các mối quan hệ giữa các dt sẽ dẫn tới việc phá hủy
hàng rào ngăn cách giữa các dt, thiết lập sự thống nhất quốc tế của CNTB, của đời sống
KT-CT-XH . . .
Cả cuộc đời của Hồ Chí Minh đã dành trọn cho nhân dân, cho đất nước, cho sự nghiệp đấu
tranh giải phóng con người, giải phóng nhân loại cần lao, thoát khỏi mọi áp bức, bất công,
vươn tới cuộc sống ấm no, tự do và hạnh phúc. Cũng chính vì vậy mà vần đề dân tộc và
giải quyết vấn đề dân tộc trong cách mạng Việt Nam đã được Người quan tâm, nung nấu
suốt cả đời. Vấn đề dân tộc theo tư tưởng Hồ Chí Minh là vấn đề dân tộc thuộc địa
Khi các nước đế quốc đi xâm chiếm thuộc địa để mở rộng thị trường, chúng thực
hiện sự áp bức về chính trị, bóc lột về kinh tế, nô dịch về văn hoá đối với các nước bị xâm
chiếm- thì vấn đề dân tộc trở thành vấn đề dân tộc thuộc địa.
Vấn đề dân tộc thuộc địa thực chất là vấn đề đấu tranh giải phóng dân tộc
thuộc địa nhằm thủ tiêu sự thống trị của nước ngoài, giành độc lập dân tộc, xoá bỏ
ách áp bức, bóc lột thực dân, thực hiện quyền dân tộc tự quyết, thành lập nhà nước
dân tộc độc lập.
Vấn đề dân tộc theo tư tưởng Hồ Chí Minh trong thời đại cách mạng vô sản đầu
thế kỷ XX có mấy luận điểm cơ bản sau:
Thư nhất độc lập, tự do là quyền bất khả xâm phạm của các dân tộc.Giải quyết vấn đề dân tộc
ở Việt Nam - một nước thuộc địa nửa phong kiến, trước hết phải tiến hành cuộc đấu tranh giải
phóng dân tộc, đánh đuổi quân xâm lược, đánh đổ bọn tay sai, giành độc lập cho dân tộc, tự
do cho nhân dân, hoà bình và thống nhất đất nước. Độc lập, tự do, hoà bình và thống nhất đất
nước là khát vọng cháy bỏng của người dân mất nước. Bởi, mất nước là mất tất cả. Sống trong
cảnh nước mất, nhà tan, mọi quyền lực nằm trong tay quân xâm lược và bọn tay sai thì quyền
sống của con người cũng bị đe doạ chứ nói gì đến quyền bình đẳng, tự do, dân chủ của mọi
người. Nếu có, đó chỉ là thứ tự
do cướp bóc, bắt bớ, giết hại và tù đày của quân xâm lược và bọn tay sai. Chính vì vậy
mà “Không có gì quý hơn độc lập tự do”, một trong những tư tưởng lớn của Hồ Chí Minh
trong cách mạng Việt Nam đã trở thành chân lý của dân tộc Việt Nam và của cả nhân loại có
lương tri.
Độc lập cho dân tộc, tự do cho nhân dân – tư tưởng đó của Hồ Chí Minh đã trở thành mục
tiêu hàng đầu của cách mạng Việt Nam. Tư tưởng đó được quán triệt trong toàn bộ tiến
trình cách mạng Việt Nam và nó được thể hiện nổi bật trong các thời điểm có tính bước
ngoặt lịch sử.
+ Tất cả các dân tộc trên thế giới phải được độc lập hoàn toàn và thật sự. Độc lập trên tất cả
các mặt kinh tế, chính trị, quân sự, ngoại giao, toàn vẹn lãnh thổ. Mọi vấn đề của chủ
quyền quốc gia do dân tộc đó tự quyết định. Theo Hồ Chí Minh độc lập tự do là khátvọng
lớn nhất của các dân tộc thuộc địa và theo nguyên tắc: Nước Việt Nam là của người Việt
Nam, do dân tộc Việt Nam quyết định, nhân dân Việt Nam không chấp nhận bất cứ sự can
thiệp nào từ bên ngoài. Trong nền độc lập đó mọi người dân đều ấm no, tự do, hạnh phúc,
nếu không độc lập chẳng có nghĩa gì. Hồ Chí Minh nói: “chúng ta đã hy sinh, đã giành
được độc lập, dân chỉ thấy giá trị của độc lập khi ăn đủ no, mặc đủ ấm”. Tư tưởng này thể
hiện tính nhân văn cao cả và triệt để cách mạng của Hồ Chí Minh. Độc lập
tự do là quyền tự nhiên của dân tộc, thiêng liêng và vô cùng quý giá. Hồ Chí Minh đã tiếp
xúc với Tuyên ngôn độc lập của Mỹ 1776 và Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của
Pháp 1791, Người đã khái quát chân lý: “Tất cả các dân tộc trên thế giới sinh ra đều có
quyền bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do”.
Trong hành trình tìm đường cứu nước cho dân tộc khi còn ở Pháp Nguyễn Ái Quốc đấu
tranh để đòi các quyền cho nhân dân An Nam:
Một là, đòi quyền bình đẳng về chế độ pháp lý cho người bản xứ Đông Dương như đối
với châu Âu, xoá bỏ chế độ cai trị bằng sắc lệnh, thay thế bằng chế độ đạo luật.
Hai là, đòi quyền tự do dân chủ tối thiểu cho nhân dân, tự do ngôn luận, tự do báo chí, hội
họp, tự do cư trú ... Ngày 18/6/1919, Nguyễn Ái Quốc thay mặt những người Việt Nam yêu
nước tại Pháp gửi đến hội nghị Véc-xây bản yêu sách của nhân dân An-nam đòi quyền bình
đẳng cho dân tộc Việt Nam. Bản yêu sách không được chấp nhận, Nguyễn Ái
Quốc rút ra bài học: Muốn bình đẳng thực sự phải đấu tranh giành độc lập dân tộc- làm
cách mạng, muốn giải phóng dân tộc chỉ có thể trông cậy vào chính mình, vào lực lượng
của bản thân mình.
Điều này thể hiện ở mục tiêu của cách mạng Việt Nam là: Đánh đổ Đế quốc Pháp và
phong kiến, làm cho nước Nam hoàn toàn độc lập. Sau Cách mạng Tháng 8 thành công,
Hồ Chí Minh đã đọc bản tuyên ngôn độc lập và khẳng định: “Nước Việt Nam có quyền
hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do, độc lập. Toàn thể dân tộc Việt
Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ quyền tự do độc
lập ấy”.
+ Hoà bình chân chính trong nền độc lập dân tộc để nhân dân xây dựng cuộc sống ấm no
hạnh phúc cũng là quyền cơ bản của dân tộc. Hoà bình không thể tách rời độc lập dân tộc,
và muốn có hoà bình thật sự thì phải có độc lập thật sự. Hồ Chí Minh đã nêu: “Nhân dân
chúng tôi thành thật mong muốn hoà bình. Nhưng nhân dân chúng tôi cũng kiên
quyết chiến đấu đến cùng để bảo vệ độc lập và chủ quyền thiêng liêng nhất: toàn vẹn lãnh
thổ cho Tổ quốc và độc lập cho đất nước”. Chân lý có giá trị cho mọi thời đại: “Không có gì
quý hơn độc lập, tự do”. Độc lập dân tộc phải gắn liền với sự thống nhất toàn vẹn lãnh thổ
quốc gia.
Thứ hai chủ nghĩa dân tộc là một động lực lớn ở các nước đang đấu tranh giành độc lập.Do
kinh tế lạc hậu, sự phân hoá giai cấp chưa triệt để, vì thế “cuộc đấu tranh giai cấp không
diễn ra giống như ở phương Tây”, điều này có ý nghĩa đối với các dt phương đông: có sự
tương đồng lớn, dù là ai, cũng đều là nô lệ mất nước. Chủ nghĩa dt bản xứ là chủ nghĩa yêu
nước và chủ nghĩa dt chân chính, động lực to lớn để phát triển đất nước. Khác với chủ
nghĩa xô vanh, chủ nghĩa dt hẹp hũi của các nước tư bản. Do kinh tế chưa phát triển, nên
sự phân hóa giai cấp ở Đông Dương chưa triệt để, sự dấu tranh gc không giống như ở
Phương Tây. NAQ kiến nghị quốc tế cộng sản "phát động chủ nghĩa dt bản
xứ nhân danh quốc tế cộng sản ...KHi chủ nghĩa dt của họ thắng lợi...nhất định chủ nghĩa dt
ấy sẽ biến thành chủ nghĩa quốc tế".
Thứ ba là kết hợp nhuần nhuyễn dân tộc với gai cấp,độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã
hội,chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa quốc tế. Dưới ánh sáng của CNMLN khi Hồ Chí
Minh bàn đến vấn đề dân tộc và cách mạng giải phóng dân tộc thì độc lập dân tộc phải
gắn với CNXH, mối quan hệ dân tộc và giai cấp được đặt ra.
Vấn đề dân tộc bao giờ cũng được nhận thức và giải quyết theo lập trường của một giai cấp
nhất định. Theo quan điểm của CNMLN, chỉ trên lập trường của giai cấp vô sản, cách mạng
vô sản mới giải quyết đúng đắn vấn đề dân tộc. Trong Tuyên ngôn Đảng cộng sản,
Mác-Ăngghen đã đề cập mối quan hệ dân tộc và giai cấp: cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản
nhằm lật đổ ách thống trị của giai cấp tư sản, ở giai đoạn đầu của nó là mang tính chất dân
tộc. Mác kêu gọi “giai cấp vô sản mỗi nước trước hết phải giành lấy chính quyền,
phải tự vươn lên thành giai cấp dân tộc, phải tự mình trở thành giai cấp dân tộc,... không
phải theo cái nghĩa như giai cấp tư sản hiểu”. Cũng theo Mác –Ăngghen, chỉ có giai cấp
vô sản mới thống nhất được lợi ích dân tộc- lợi ích của mình với các lợi ích của nhân dân
lao động và của cả dân tộc. Chỉ có xoá bỏ áp bức, bóc lột giai cấp thì mới xoá bỏ áp bức dân
tộc, đem lại độc lập thật sự cho dân tộc mình và cho dân tộc khác. Tuy nhiên, Mác và
Ăngghen không đi sâu nghiên cứu vấn đề dân tộc vì ở Tây Âu vấn đề dân tộc đã được giải
quyết trong cách mạng tư sản, đối với Mác, vấn đề dân tộc chỉ là thứ yếu so với vấn đề giai
cấp.
Thời đại Lênin, khi CNĐQ đã trở thành một hệ thống thế giới, cách mạng giải phóng dân
tộc trở thành bộ phận của cách mạng vô sản, Lênin mới phát triển vấn đề dân tộc thành học
thuyết về cách mạng thuộc địa. Lênin cho rằng, cách mạng vô sản ở chính quốc không thể
giành thắng lợi nếu không liên minh với cuộc đấu tranh của các dân tộc bị áp
bức ở thuộc địa. Khẩu hiệu của Mác được bổ sung: “vô sản toàn thế giới và các dân tộc bị áp
bức, đoàn kết lại.” Lênin đã thực sự “đặt tiền đề cho một thời đại mới, thật sự cách mạng
trong các nước thuộc địa.”
Hồ Chí Minh, từ chủ nghĩa yêu nước đến với CNMLN, đã nhận thức được mối quan hệ chặt
chẽ giữa dân tộc và giai cấp, dân tộc và quốc tế, độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, lựa
chọn cách mạng giải phóng dân tộc theo con đường cách mạng vô sản. Hồ Chí Minh nêu,
các nước thuộc địa phương Đông không phải làm ngay cách mạng vô sản, mà trước hết
giành độc lập dân tộc. Có độc lập dân tộc rồi mới bàn đến cách mạng XHCN. Từ thực tiễn
của đấu tranh cách mạng, Nguyễn Ái Quốc đã phê phán quan điểm của các đảng
cộng sản Tây Âu không đánh giá đúng vai trò, vị trí, tương lai của cách mạng thuộc địa,
và Nguyễn Ái Quốc đi đến luận điểm: “Các dân tộc thuộc địa phải dựa vào sức mình là
chính, đồng thời biết tranh thủ sự đoàn kết, ủng hộ của giai cấp vô sản và nhân dân lao
động thế giới để phải đấu tranh giành độc lập cho dân tộc, từ cách mạng giải phóng dân
tộc tiến lên làm cách mạng XHCN.” Tư tưởng Hồ Chí Minh về kết hợp dân tộc với giai
cấp, dân tộc với quốc tế, độc lập dân tộ